Những Truyền Thống Quý Báu Của Dân Tộc Việt Nam Là Gì A, Những Truyền Thống Quý Báu Của Dân Tộc Việt Nam – các truyền thống của việt nam

Bạn đang xem: các truyền thống của việt nam

Những Truyền Thống Quý Báu Của Dân Tộc Việt Nam Là Gì 𝓐, Những Truyền Thống Quý Báu Của Dân Tộc Việt Nam

*

Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dân tộc Việt Nam đã viết lên những trang sử hào hùng. Trong tiến trình lịch sử của dân tộc đã tạo ra tư cách nhân loại Việt Nam với các giá trị đạo đức vô cùng phong phú. Cùng với thời gian, các giá trị đạo đức này được lưu truyền qua các thế hệ, trở thành truyền thống tốt đẹp, là sức mạnh và động lực của dân tộc. Hòa cùng với dòng chảy lịch sử dân tộc, vùng quê hưng thịnh và yên bình với tên gọi “Hưng Yên” đã chứa đựng cả bề dày và sự phong phú, mới mẻ của vùng văn hóa sông Hồng, đồng thời phát huy được các giá trị văn hóa mang bản sắc dân tộc. Những thế hệ nhân loại Hưng Yên đã mang trong mình dòng máu của người Việt Nam với đầy đủ các giá trị đạo đức truyền thống: Yêu quê hương, quốc gia; đoàn kết, gan dạ trong tôn tạo thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm; chuyên cần, sáng tạo trong lao động sản xuất; ham học hỏi và giàu lòng nhân nghĩa, thủy chung…

Đang xem: Truyền thống quý báu của dân tộc việt nam là gì

Ι. Những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam

Là quốc gia nằm ở phía Đông, thuộc bán đảo Đông Dương, khu vực Đông Nam Á, châu Á; có diện tích 331.698 km2, bao gồm khoảng 327.480 km2 đất liền và 4.500 km2 biển nội thủy… Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới và một phần xích đạo nên có những điều kiện thuận tiện cho phát triển kinh tế, nhất là sản xuất nông nghiệp; là nơi giao thoa của nhiều nền văn minh trên toàn cầu, điển hình là văn minh Trung Quốc và Ấn Độ với cốt lõi là hệ tư tưởng Nho giáo, Phật giáo. Quy mô dân số gần 92,5 triệu người (năm 2016), đứng thứ 13 trên toàn cầu và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, gồm 54 dân tộc, trong đó, dân tộc Kinh (Việt) chiếm đa số, 53 dân tộc sót lại là các dân tộc thiểu số. Mỗi dân tộc đều có những nét văn hóa riêng mang đậm bản sắc địa phương, nhưng 54 dân tộc anh em cùng gắn bó chặt chẽ với nhau trong vận mệnh chung của trận đấu tranh, hòa hợp lâu dài, lấy tộc người Việt làm trung tâm. Điều này đã tạo ra văn hóa dân tộc Việt Nam thống nhất trên nền tảng phong phú sắc thái văn hóa của các dân tộc với những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp.

1. Lòng yêu nước nồng nàn, trí não quật cường, ý chí độc lập và tự cường dân tộc

Tình yêu dành riêng cho quê hương, quốc gia ở mỗi quốc gia, mỗi dân tộc trên toàn cầu hoàn toàn không giống nhau, song tựu chung lại sợi chỉ đỏ chủ nghĩa yêu nước là dấu hiệu khát vọng và hành động luôn đặt lợi nhuận của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết. Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam được tạo dựng từ rất sớm, bắt nguồn từ những tình cảm rất đơn sơ, đơn sơ trong nhà, làng xã và rộng hơn là tình yêu Tổ quốc. Với vị trí địa lý là đầu mối giao thông quốc tế trọng yếu, có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, Việt Nam luôn là mục tiêu xâm lược của nhiều quốc gia. Trong tiến trình phát triển của dân tộc, nhân dân ta đã phải trải qua thời gian dài chống giặc ngoại xâm, bảo vệ quốc gia. Lịch sử thời kỳ nào cũng sáng ngời những tấm gương kiên trung, quật cường của chủ nghĩa người hùng cách mạng: Từ Bà Triệu “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá trường kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ đâu chịu khom lưng làm tì thiếp cho người!”; Trần Bình Trọng “Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc”; Nguyễn Huệ “Đánh cho để dài tóc/Đánh cho để đen răng/Đánh cho nó chích luân bất phản/Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn/Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”… đến Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng, Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai, Nguyễn Viết Xuân với trí não “Nhằm thẳng quân thù! Bắn!”… Chủ nghĩa yêu nước, ý chí độc lập và tự cường dân tộc đã trở thành “dòng chủ lưu của đời sống Việt Nam”, là nền tảng trí não to lớn, là giá trị đạo đức cao quý nhất trong thang bậc các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam, trở thành “tiêu điểm của các tiêu điểm, giá trị của các giá trị” và là nguồn sức mạnh vô địch để dân tộc ta vượt qua khó khăn, thắng cuộc mọi kẻ thù, xứng đáng với lời ngợi ca của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”1.

2. Lòng yêu thương, khoan dung, sống có nghĩa tình với nhân loại

Đây là giá trị đạo đức nhân văn sâu sắc được sinh dưỡng trong chính đau thương, mất mát qua các trận đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và cuộc sống lam lũ mỗi ngày từ nền sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước của dân tộc Việt Nam. Điều dễ nhận thấy về dấu hiệu lòng nhân ái của dân tộc ta được bắt nguồn từ một chữ “tình” – Trong nhà này là tình cảm so với đấng sinh thành “Công cha như núi Thái Sơn/Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, tình anh em “như thể tay chân”, tình nghĩa vợ chồng “đầu gối, tay ấp”; rộng hơn là tình làng xóm láng giềng và bao trùm hơn hết là tình yêu thương đồng loại “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/Người trong một nước phải thương nhau cùng”… Lòng yêu thương và sống có nghĩa tình còn được dấu hiệu trong sự tương trợ, trợ giúp nhau; sự khoan dung, vị tha dành riêng cho cả những người đã từng lầm đường lạc lối biết lấy công chuộc tội. Không chỉ dấu hiệu trong đời sống mỗi ngày, tình yêu thương, sự khoan dung, khoan dung với nhân loại của dân tộc Việt Nam còn được nâng lên thành những chuẩn tắc trong các bộ luật của Nhà nước; đồng thời là nền tảng của trí não yêu chuộng hoà bình và tình hữu nghị với các dân tộc trên toàn cầu. Trong lịch sử, nhân dân ta luôn đề cao và coi trọng việc giữ tình hoà hiếu với các nước, tận dụng mọi thời dịp có thể để khắc phục hoà bình các xung đột, cho dù nguyên nhân từ phía kẻ thù … Ngày nay, truyền thống nhân nghĩa đó không bị mai một hay mất đi, trái lại tiếp tục được nhất định và củng cố khi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta thực hiện đường lối nhất quán “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Ý thức trước nhất về sự cố kết cộng đồng của người Việt Nam đã được dân gian thần thánh hóa bằng thiên truyền thuyết đẹp với hình ảnh “bọc trăm trứng” để lý giải cùng chung nguồn cội con cháu Rồng Tiên – Truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ. Trải qua thực tiễn trong cuộc sống lao động cũng như tranh đấu, trí não đoàn kết dân tộc gắn kết càng được đề cao và đã trở thành một triết lý nhân sinh sâu sắc “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/Thành công, thành công, đại thành công”. Trong 86 năm qua kể từ khi có Đảng lãnh đạo, thực tiễn cách mạng Việt Nam thêm một lần nữa đã trổ tài sức sống kỳ diệu và minh chứng đạo lý đúng đắn về sức mạnh vĩ đại của trí não đại đoàn kết dân tộc. Sức mạnh đó chính là mạch nguồn của các thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám (1945), kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954) và chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975)… Trong cục diện hội nhập quốc tế, trí não đoàn kết dân tộc càng có ý nghĩa hơn so với sự nghiệp đổi mới quốc gia, do đó tư tưởng chỉ đạo sách lược xuyên suốt của cách mạng Việt Nam luôn được Đảng ta nhấn mạnh “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế… phát huy cao độ nội lực, đồng thời phải tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại”2. Như vậy, dấu hiệu về trí não đại đoàn kết cộng đồng đã trở thành một truyền thống tốt đẹp, có giá trị lý luận và thực tiễn cách mạng sâu sắc. Phát huy đại đoàn kết dân tộc là đoàn kết rộng rãi và lâu dài, này là cội nguồn sức mạnh của dân tộc Việt Nam – “Một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của nhân dân ta”.

4. Trí não chuyên cần, sáng tạo, tiết kiệm trong lao động sản xuất

Cần mẫn, siêng năng là một trong những giá trị đạo đức nổi trội, phẩm chất đáng quý của người Đông Á, trong đó có Việt Nam. So với mỗi người Việt Nam, chuyên cần, siêng năng, sáng tạo trong lao động là điều phải làm vì có như vậy mới có của cải vật chất. Phẩm chất chuyên cần, chịu thương chịu khó trong lao động của người Việt Nam luôn gắn với sự để giành, tiết kiệm và trở thành đức tính phải có như một lẽ tự nhiên. Như vậy, trước nhất, đức tính chuyên cần, sáng tạo và tiết kiệm trong lao động chính là yếu tố trọng yếu giúp nhân loại có thể đảm bảo được việc duy trì cuộc sống cá nhân. Trong xu thế toàn thị trường quốc tế hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện tại, sự chuyên cần, sáng tạo đi đôi với thực hành tiết kiệm trong lao động sản xuất của mỗi người Việt Nam càng trở nên có ý nghĩa thiết thực, bởi đây chính là động lực tiên quyết nhằm tăng năng suất, năng lực đối đầu, xúc tiến nền kinh tế quốc gia phát triển, qua đó tự mỗi người đóng góp một phần vào tiến trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

5. Truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo

Từ ngàn đời nay, hiếu học đã trở thành một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Lịch sử khoa bảng của dân tộc còn lưu danh những tấm gương sáng ngời về ý chí và trí não ham học: Nguyễn Hiền mồ côi cha từ nhỏ, theo học nơi cửa chùa, đã trở thành Trạng nguyên nhỏ tuổi nhất trong lịch sử nước ta khi mới 13 tuổi. Mạc Đĩnh Chi vì nhà nghèo không thể đến lớp, chỉ đứng ngoài nghe thầy giảng, đêm đến phải học dưới ánh sáng của con đom đóm trong vỏ trứng, đã đỗ trạng nguyên và trở thành Lưỡng quốc Trạng nguyên (Trung Hoa và Đại Việt). Đó đang là những tấm gương hiếu học của các bậc hiền tài đáng tôn trọng: Nhà giáo Chu Văn An, Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trạng lường Lương Thế Vinh, nhà bác học Lê Quý Đôn…; là trí não của nghị lực phi thường vươn lên trở thành nhà giáo ưu tú – Thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký… Sự hiếu học, trí não ham học hỏi của dân tộc Việt Nam còn được dấu hiệu ở thái độ coi trọng việc học và người có học, tôn trọng thầy cô, kính trọng họ như cha mẹ của mình “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, “Không thày đố mày làm nên”. Cùng với tiến trình lịch sử dân tộc, dòng chảy của truyền thống hiếu học ấy với trí não “Học! Học nữa! Học mãi!” đã được các thế hệ người Việt Nam ngày hôm nay tiếp tục phát huy và tỏa sáng: Này là những tấm gương vượt khó, học giỏi trên khắp mọi miền của quốc gia; từ những nếp nhà trong nhà toàn bộ con cháu đều chăm học và thành đạt như giáo sư Đặng Thai Mai, giáo sư Đào Duy Anh, giáo sư, Nhà giáo nhân dân Nguyễn Lân… đến những vận khuyến khích khổ luyện thành tài như kình ngư Nguyễn Thị Ánh Viên, xạ thủ Hoàng Xuân Vinh, tài năng như giáo sư Ngô Bảo Châu, nữ tiến sĩ trẻ tuổi nhất Nguyễn Kiều Liên… Họ đã thực sự là niềm tự hào làm rạng danh đất Việt và tô thắm thêm trí não hiếu học của cha ông.

II. Truyền thống văn hóa nhân loại Hưng Yên

1. Truyền thống thượng võ, yêu nước nồng nàn, ý chí kiên trì quật cường trong tranh đấu chống giặc ngoại xâm và xây dựng quê hương, quốc gia

Được cấu thành từ 3 vùng đất của trấn Sơn Nam, trấn Hải Đông và trấn Kinh Bắc, vùng đất Hưng Yên vốn có vị trí đặc biệt trong sự nghiệp chống giặc ngoại xâm, bảo vệ quốc gia. Từ thời Hùng Vương, trải qua các triều đại phong kiến cho đến Cách mạng Tháng Tám (1945), đại thắng mùa Xuân (1975)… quân và dân Hưng Yên luôn sát cánh cùng nhân dân cả nước,

cho chiến trường miền Nam. Thời kỳ 1968 – 1996, tỉnh Hưng Yên và Hải Dương thống nhất đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”; tặng Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất và 2 lần thưởng Cờ Luân lưu Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Góp phần vào những thành tựu xuất sắc đó có sự hi sinh gan dạ của gần 23000 liệt sĩ, 9.814 thương binh, 7.235 thương binh, 2.273 người bị địch bắt và …Trong tiến trình đổi mới, nhất là sau 20 năm tái lập tỉnh, Hưng Yên đã được Chủ tịch nước tặng Huân chương Hồ Chí Minh; Huân chương Độc lập hạng Nhất; 10/10 huyện, Tp và 73 xã, phường, thị xã được phong tặng danh hiệu Người hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 2.048 mẹ được truy tặng, phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”6. Ngoài ra, Đảng và Nhà nước còn tặng thưởng hàng vạn huân, huy chương các loại cho các tập thể và cá nhân có thành tựu xuất sắc trong tiến trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây thực sự là trang sử vàng chói lọi, là niềm tự hào của vùng đất và nhân loại Hưng Yên với chủ nghĩa yêu nước sâu sắc.

2. Truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, trọng nhân tài

Vùng đất địa linh nhân kiệt này là điểm sáng của truyền thống hiếu học, trí não ham học hỏi, nhất là về cử nghiệp và thi thư. Hưng Yên thời nào cũng có nhân tài, nơi đâu cũng có người thành danh khoa bảng; có những gia đình, cha con, ông cháu đều văn võ kiêm toàn, trở thành danh nhân văn hóa, danh nhân lịch sử của quốc gia; có những làng, xã có truyền thống khoa cử lâu đời, nhiều dòng tộc đỗ đạt cao như làng Thổ Hoàng (Ân Thi), làng Xuân Cầu, Lại Ốc (Văn Giang),…

Trong 845 năm Hán học, Hưng Yên có 228 người thi đỗ đại khoa được ghi danh ở bia Văn Miếu (thôn Xích Đằng, phường Lam Sơn, Tp Hưng Yên), trong đó có 8/53 trạng nguyên của cả nước. Sử sách lưu danh và nhân dân ghi nhận những đóng góp to lớn của đội ngũ các nhà cử nghiệp so với sự nghiệp xây dựng, phát triển quốc gia trên toàn bộ các ngành nghề: Nguyễn Trung Ngạn (1289 – 1370) quê Thổ Hoàng – Ân Thi, 12 tuổi đỗ thái học viên, 16 tuổi đỗ hoàng giáp, từng đi sứ Bắc, là người biên soạn sử Nam và là đại thần của 5 đời vua Trần; Lê Như Hổ quê xã Hồng Nam – Tp Hưng Yên là nhà toán học, ngoại giao, sử học lỗi lạc; Đoàn Thị Điểm (1705 -1748) quê Giai Phạm -Yên Mỹ, được mệnh danh là Hồng Hà nữ sĩ, dịch giả Chinh phụ ngâm nổi tiếng; Hải thượng Lãn ông Lê Hữu Trác (1720 – 1791) quê Liêu Xá – Yên Mỹ là đại danh y của dân tộc… Văn miếu Xích Đằng (Tp Hưng Yên) được xây dựng năm 1839 – Một biểu tượng minh chứng cho truyền thống hiếu học của vùng đất và nhân loại Hưng Yên.

Thực hiện Chỉ thị “Kháng chiến, kiến quốc” của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh với nhiệm vụ diệt “giặc dốt” những ngày đầu giành chính quyền, Hưng Yên là tỉnh tiên phong trong trào lưu Bổ túc văn hóa và xóa mù chữ… Năm 1960, Hưng Yên đã được Trung ương Đảng tặng thưởng Cờ “Dẫn đầu về bổ túc văn hóa”, Bác Hồ ký lệnh tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba và hạng Nhì về Bổ túc văn hóa. Hưng Yên đang là địa danh tiêu biểu của trào lưu thi đua “Hai tốt”, trào lưu xây dựng tập thể học viên xã hội chủ nghĩa, có đóng góp trọng yếu vào thành tích chung của nền giáo dục cách mạng nước nhà với những điển hình tiên tiến toàn quốc như: Trường Mầm non Tân Tiến (Văn Giang), Trường Mầm non Nhật Tân (Tiên Lữ), Trường Trung học nền tảng Trần Cao (Phù Cừ), Trường Trung học phổ thông Hưng Yên (Tp Hưng Yên)… Vùng đất này đã sinh dưỡng nhiều người con ưu tú tiêu biểu cho trí não hiếu học và có công lớn trên các ngành nghề trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quốc gia: Cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh – người đề xướng và lãnh đạo tiến trình đổi mới quốc gia; các văn nghệ sĩ, tướng lĩnh và trí thức lớn: Giáo sư Dương Quảng Hàm – nhà tìm hiểu Văn học đã đặt nền tảng cho môn Lịch sử Văn học, đồng thời là nhà giáo dục khởi xướng chương trình quốc học cho nền giáo dục hiện đại; nhà văn hiện thực phê phán Nguyễn Công Hoan – người đã có công khai phá và mở đường cho chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam trong thời kỳ hiện đại; họa sĩ Tô Ngọc Vân (Văn Giang) – người có công trước nhất trong việc sử dụng vật liệu sơn dầu ở Việt Nam và được xem là một trong những họa sĩ lớn nằm trong bộ tứ “Nhất Trí, nhì Vân, tam Lân, tứ Cẩn”; nhà văn trào phúng Vũ Trọng Phụng (Mỹ Hào); nhà thơ tiên phong trong trào lưu Thơ mới Phạm Huy Thông (Ân Thi), vị tướng thần thoại Trung tướng Nguyễn Bình (Yên Mỹ) – Trung tướng trước nhất của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tô thắm truyền thống hiếu học của cha ông, trong thời kỳ thống nhất tỉnh, nhất là sau 20 năm tái lập, truyền thống ham học hỏi đã được các thế hệ người Hưng Yên tiếp tục kế thừa phát huy. Đặc biệt, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2010 – 2015, sự nghiệp giáo dục và huấn luyện tỉnh nhà phát triển vững chắc và đạt được nhiều kết quả tích cực, thực hiện từng bước đổi mới cơ bản, toàn diện về giáo dục và huấn luyện: Chất lượng giáo dục đại trà và giáo dục mũi nhọn có nhiều chuyển biến tích cực; tỷ lệ học viên thi đỗ đại học cao. Hàng năm, nghề Giáo dục đã vinh dự được Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục và Huấn luyện trao tặng nhiều phần thưởng cao quý… Cùng với kết quả nổi trội đạt được, Hưng Yên đã có nhiều quyết sách trọng yếu được công bố trổ tài sự quan tâm chăm sóc của tỉnh tới phát triển sự nghiệp giáo dục, nhất là so với việc sử dụng và bồi dưỡng nhân tài, tiêu biểu: Đề án thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học chính quy về làm công chức dự bị tại xã, phường, thị xã; Đề án thu hút doctor, dược sĩ (tốt nghiệp đại học chính quy) về tỉnh công tác; thực hiện quyết sách trợ giúp so với cán bộ, công chức, viên chức được cử đi huấn luyện sau đại học và khuyến khích ưu đãi tài năng… Không những thế, chủ trương nhằm hướng tới xây dựng một xã hội học tập của tỉnh với công tác khuyến học, khuyến tài những năm qua đã được triển khai rộng khắp từ gia đình, dòng tộc, thôn, xã đến cấp huyện, cấp tỉnh như đã tiếp lửa cho truyền thống hiếu học của vùng đất nơi đây. Đó thực sự là nguồn động viên, khích lệ và khuyến khích to lớn các thế hệ người con Hưng Yên tiếp tục học tập, tập luyện, đem tài năng, sức trẻ để hiến dâng cho tỉnh, quốc gia.

Xem thêm: Địa Chỉ Mua Đặc Sản Quảng Ngãi Tại Tphcm, Cửa Hàng Trực Tuyến

3. Truyền thống lao động chuyên cần, sáng tạo, vượt khó vươn lên

Hưng Yên là tỉnh có lịch sử phát triển với dấu vết của nền văn minh lúa nước có từ rất sớm. Ngoài trồng trọt là nghề chính, tại vùng đất này, nhiều nghề đã ra đời như một minh chứng cho đức tính chuyên cần, sáng tạo của người Hưng Yên, như: Nghề đúc đồng ở làng Cầu Nôm, Đại Đồng (Văn Lâm); nghề làm tương ở Bần, Yên Nhân (Mỹ Hào); nghề đan thuyền Nội Lễ (Tiên Lữ); nghề nấu rượu Trương Xá (Kim Động); nghề trạm bạc Huệ Lai (Ân Thi)…Trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, truyền thống lao động chuyên cần, vượt khó vươn lên càng được củng cố và phát huy. Năm 1945, chính quyền cách mạng vừa mới được thành lập phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, thực hiện Chỉ thị của Trung ương và Lời mời chào của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa!”, Đảng bộ và nhân dân Hưng Yên đã phát động trào lưu tăng gia sản xuất với slogan “Không để một tấc đất bỏ hoang”, “Tấc đất, tấc vàng”… Kết quả, bằng sức người và tình yêu so với lao động, nhân dân Hưng Yên đã biến những vùng đất hoang thành ruộng đồng tốt tươi, những bờ ngòi, gò đống, bãi sông thành vạt sắn, ruộng ngô…; diện tích và sản lượng lương thực, thực phẩm tăng khá nhanh, đóng góp một phần không nhỏ vào thành tích chung của quốc gia những ngày đầu Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Vùng đất nơi đây không chỉ từng là điểm sáng của phong rào bổ túc văn hóa, cái “nôi” của trào lưu xây dựng gia đình văn hóa, Hưng Yên còn rất điển hình về trào lưu làm thủy lợi với trí não thi đua “Tiến quân làm thủy lợi”, “Vắt đất ra nước, thay trời làm mưa”… Trong 10 lần Bác Hồ về thăm Hưng Yên, có tới 8 lần Bác đến thăm các công trình thủy lợi. Hệ thống đại thủy nông Bắc – Hưng – Hải7được khởi công vào năm 1956 là công trình tiêu biểu cho trí não lao động chuyên cần, sáng tạo, vượt khó vươn lên của nhân loại Hưng Yên. Trong trào lưu làm thủy lợi ấy đã xuất hiện những nữ Người hùng lao động như: Phạm Thị Vách (Kim Động), Vũ Thị Tỵ (Tiên Lữ)…Với những thành tựu tiêu biểu, Hưng Yên đã vinh dự được Bác Hồ 4 lần tặng Cờ Luân lưu làm thủy lợi khá nhất miền Bắc. Bước vào tiến trình đổi mới, xây dựng và phát triển để sớm trở thành tỉnh công nghiệp, trí não chuyên cần, sáng tạo, vượt khó vươn lên tiếp tục được phát huy cao độ và nhất định bằng bức tranh phát triển toàn diện sau 20 năm tái lập: Những ngày đầu tái lập (1997), Hưng Yên đứng trước muôn vàn khó khăn, nhưng bằng sự vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng trong điều kiện thực tiễn của tỉnh, Hưng Yên ngày hôm nay đang từng bước nhất định được tầm vóc trên bước đường hội nhập. Nhiệm kỳ 2010 – 2015, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, Hưng Yên đã có những bước tiến trọng yếu, vững chắc với nhiều khởi sắc: Vận tốc tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt 7,8% và cao hơn mức trung bình của cả nước; thu nhập trung bình đầu người năm 2015 đạt 40 triệu đồng/năm, gấp hơn 10 lần so với năm 1997 lúc mới tái lập tỉnh. Tổng thu ngân sách trên địa phận vượt plan Trung ương giao và vượt kpi hàng năm. Cơ cấu kinh tế có sự dịch chuyển theo hướng tích cực: Công nghiệp, xây dựng tăng mạnh, chiếm tỷ trọng cao; sản xuất nông nghiệp phát triển toàn diện, chuyển mạnh sang hướng hàng hóa chất lượng đảm bảo và giá trị kinh tế cao, sản lượng chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản tăng. Kết cấu hạ tầng được đầu tư nâng cấp nhanh, đồng bộ. Quốc phòng – An ninh được tăng cường, giữ vững ổn định chính trị, đời sống nhân dân đã có nhiều tiến bộ rõ rệt… Kết quả này là nguồn khuyến khích, khích lệ to lớn và tạo nền tảng trọng yếu để Hưng Yên tiếp tục phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu và sớm trở thành tỉnh công nghiệp theo trí não Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015 – 2020 đã đề ra.

4. Truyền thống đoàn kết, gắn bó, tương thân tương ái, sống có nghĩa tình, thủy chung

Mang trong mình cùng nhịp đập dòng máu con Lạc cháu Hồng, vùng đất và nhân loại Hưng Yên rất đậm ân tình với chủ nghĩa nhân văn sâu sắc. Trong lịch sử, vùng đất Hưng Yên đã từng phải oằn mình trải qua nhiều cơn phẫn nộ khắc nghiệt từ hiểm họa của thiên nhiên thúc đẩy.Từ năm 1806 – 1898, với 92 năm đã có 39 năm đê vỡ, 10 năm hạn hán, 15 năm sâu dịch, riêng ở Hưng Yên đê Văn Giang vỡ 18 năm liền, đê Cửa Yên vỡ trong 6 năm liên tục… Từ năm 1905 – 1945, đê sông Hồng vỡ 10 lần, trong đó trận lụt lớn xảy ra vào năm 1915, một nửa lượng nước sông Hồng đổ vào 3 tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, làm cho ruộng đồng, làng mạc bị tàn phá nặng nề. Năm 1923, vụ lúa chiêm ở Bắc Kỳ bị hạn hán tiêu khô quá nửa, đến khi sắp được thu hoạch lại gặp mưa lụt. Tháng 9 – 10/1937, nạn lụt Đinh

Sửu đã nhấn chìm 38.000 mẫu ruộng, làm cho hàng trăm ngàn người trở nên đói rách8… Chính quá trình đó đã buộc người dân phải sống đoàn kết, gắn bó, sống có nghĩa tình. Trong tranh đấu bảo vệ thành tích cách mạng khi vừa giành được chính quyền (1945), thực hiện Chỉ thị “Kháng chiến, kiến quốc” và noi gương Chủ tịch Hồ Chí Minh “Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo”, nhân dân Hưng Yên đã tự nguyện nhịn bữa, bớt ăn, san sẻ thóc, gạo, ngô, khoai trợ giúp đồng bào cứu đói. Tình người của vùng đất nơi đây còn được trổ tài rất sâu đậm trong lửa đạn chiến tranh của hai cuộc kháng chiến: Ngoài việc đảm bảo lương thực, Hưng Yên đã tiếp tế 300 tấn gạo cho Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội, Lạng Sơn và một số thóc cho Trung Bộ năm 1946; đồng thời cũng từng tiếp viện sức người, sức của cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất quốc gia… Hòa bình lập lại, dưới ánh sáng đường lối đổi mới của Đảng, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân càng được củng cố. Một trong những nét đẹp tiêu biểu cho trí não đại đoàn kết toàn dân của nhân loại Hưng Yên, này là hiệu quả từ trào lưu xây dựng Nông thôn mới. Thời kỳ 2010 – 2015, thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, tổng nguồn vốn của tỉnh đã kêu gọi đạt gần 40 nghìn tỷ đồng, trong đó nhân dân đóng góp 16 nghìn tỷ đồng cùng với hàng ngàn ngày công lao động và hiến đất làm đường. Đến tháng 6/2016, toàn tỉnh có 38/145 xã (26,2%) đạt 19/19 tiêu chuẩn về chuẩn xây dựng Nông thôn mới. Không những thế, hàng loạt quyết sách an sinh xã hội được tỉnh quan tâm chăm sóc: Các quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”, “Vì người nghèo”, “Bảo trợ trẻ em”… hoạt động có hiệu quả; nâng mức trợ giúp cho các đối tượng bảo trợ xã hội; thực hiện quyết sách ưu đãi, chăm sóc người có công, tri ân các người hùng liệt sĩ, nhận phụng dưỡng các Bà Mẹ Việt Nam người hùng…

*** ***

Nhìn lại tiến trình lịch sử hào hùng của dân tộc qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, trong đó có sức trỗi dậy của vùng đất và nhân loại Hưng Yên với quãng đường 185 năm qua, tất cả chúng ta thêm tự hào về những giá trị trí não và dấu hiệu tư cách nhân loại Việt Nam. Các thế hệ dân tộc Việt Nam, trong đó có nhân loại Hưng Yên đã gìn giữ, phát huy những nét đẹp truyền thống của chủ nghĩa yêu nước, người hùng cách mạng và chủ nghĩa nhân văn sâu sắc. Hưng Yên đang cùng với cả nước bước vào quá trình toàn

cầu hóa, hội nhập quốc tế, cục diện đó sẽ có thúc đẩy không nhỏ tới các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ở cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Thế hệ trẻ Hưng Yên cùng với cả nước cần nhận thức sâu sắc giá trị văn hóa truyền thống dân tộc và của quê hương Hưng Yên văn hiến; từ đó tự trau dồi bản lĩnh chính trị, tu dưỡng đạo đức, tư cách xứng đáng với truyền thống hào hùng của cha ông; đóng góp tài năng và trí lực để cùng chung tay xây dựng quê hương, quốc gia ngày càng trở nên giàu đẹp, văn minh. Hưng Yên đang cùng với cả nước bước vào quá trình toàn thị trường quốc tế hóa, hội nhập quốc tế, cục diện đó sẽ có thúc đẩy không nhỏ tới các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ở cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Thế hệ trẻ Hưng Yên cùng với cả nước cần nhận thức sâu sắc giá trị văn hóa truyền thống dân tộc và của quê hương Hưng Yên văn hiến; từ đó tự trau dồi bản lĩnh chính trị, tu dưỡng đạo đức, tư cách xứng đáng với truyền thống hào hùng của cha ông; đóng góp tài năng và trí lực để cùng chung tay xây dựng quê hương, quốc gia ngày càng trở nên giàu đẹp, văn minh.

1. Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 6. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.171.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.66.

3. Tên đoạn sông Hồng từ cuối Tp Hưng Yên đến cửa Ba Lạt

4. Tên đoạn sông Hồng chảy qua Tp Hưng Yên.

5. Theo Sách Người hùng liệt sỹ tỉnh Hưng Yên – 2012

6. Thời kỳ từ 1994 – 2015.

7. Gồm 2 kênh chính là Kênh chính Bắc từ cống Xuân Quan (Châu Giang) qua các xã Cửu Cao (Châu Giang), Trưng Trắc, Nghĩa Trụ, Vĩnh Khúc, Đồng Than, Thanh Long (Mỹ Văn) tới Minh Châu (Châu Giang) chia làm 2 nhánh – nhánh phía Đông đổ ra sông Kim Sơn và sông Cửu Yên ở đoạn Cống Tranh; nhánh phía Nam từ xã Thường Kiệt (Mỹ Văn) qua các huyện Châu Giang, Ân Thi, Kim Động tới phường Hiến Nam (thị xã Hưng Yên), gặp sông Hòa Bình chạy song song với đường 39B tới Cầu Tràng (Hải Dương). Kênh chính Nam từ cống Xuân Quan chảy qua phía Tây huyện Châu Giang tới Cầu Ngàng (Kim Động), gặp sông Điện Biên rồi chảy về phía Đông gặp sông Sậy, giáp Hải Dương.

Xem thêm: Đặc Sản Đông Giang Quảng Nam, Đặc Sản Đông Giang, Quảng Nam

8. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hưng Yên, tập Ι (1929-1954). Nxb Văn hóa Thông tin, 2008, tr.18-20.

See more articles in category: FAQ

About admin

Post navigation


Xem thêm những thông tin liên quan đến đề tài các truyền thống của việt nam

“Không Cần Biết Nhiều Chỉ Cần Biết Điều” tâm tự khắc sẽ yên – Thầy Thích Pháp Hòa

alt

  • Tác giả: Vấn đáp Thầy Thích Pháp Hòa
  • Ngày đăng: 2022-05-10
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 5179 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Đại chúng nhớ ấn vào nút “” Đăng ký ” hoặc “‘Subscribe”” để theo dõi thêm những video tiên tiến nhất của kênh.

    Tu Viện Trúc Lâm
    11328 – 97 Street
    Edmonton, AB, T5G 1X4
    Canada
    Phone (780) 471-1093
    Fax (780) 471-5394
    Thư điện tử: tvtruclam97@gmail.com

    Thầy Trụ Trì Thích Pháp Hòa sinh năm 1974 tại Cần Thơ, Việt Nam.
    Định cư tại Canada năm 12 tuổi, xuất gia năm 15 tuổi.
    Thọ Tỳ-kheo tại Pháp Quốc năm 20 tuổi.
    Thầy tiếp nhận trách vụ trụ trì TV. Trúc Lâm năm 2006 và TV. Tây Thiên 2007.

    Tu Viện Trúc Lâm là nền tảng trước nhất của Viện Phật Học được thành lập tại Tp Edmonton vào tháng 6 năm 1989. Sinh hoạt của Tu Viện hầu như là các chương trình tu học theo truyền thống Phật Giáo Việt Nam. Vì nền tảng này là văn phòng chính của viện nên một số sinh hoạt khác của các ban nghề như văn hóa, giáo dục, xã hội, gia đình Phật tử… cũng tạm dùng nền tảng này. Nền tảng Tu Viện Trúc Lâm lúc mới khai sinh tọa lạc tại 10604-108 Street, là một tòa nhà 3 tầng, 9 phòng do viện mua vào tháng 6 năm 1989. Sau đó vì nhu cầu phát triển viện đã bán nền tảng này và mua lại một nền tảng khác tọa lạc tại 10155-89 Street vào năm 1992, nền tảng này là một ngôi nhà thờ cũ rộng gần 3,500 sqft.

    Năm 1996 Viện quyết định mua một sở đất hơn nữa mẫu Anh (Acre) nằm trong khu trung tâm của Tp Edmonton để xây dựng Tu Viện Trúc Lâm ngày nay. Công trình xây cất đã hoàn tất và đi vào hoạt động kể từ đầu tháng 6 năm 1997. Nền tảng này tọa lạc tại 11328-97 Street, là một toà nhà có 2 tầng rộng 12,400 sqf.

    vandapthichphaphoa vandap thichphaphoa truclam

Nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam

  • Tác giả: nguoivietnam.vn
  • Nhận xét: 5 ⭐ ( 6286 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam có từ ngàn đời xưa. Quốc gia ta là một quốc gia có 54 thành phần dân tộc không giống nhau, mỗi

  • Tác giả: tapchicongsan.org.vn
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 1563 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm:

Truyền Thống Văn Hóa Của Dân Tộc Việt Nam, Văn Hóa Các Dân Tộc

  • Tác giả: nhlhockeyshopuk.com
  • Nhận xét: 5 ⭐ ( 1678 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Việt Nam có một nền văn hoá rực rỡ, lâu đời nối liền với lịch sử tạo dựng và phát triển của dân tộc, Các nhà sử học thống nhất ý kiến ở một điểm: Việt Nam có một cộng đồng văn hoá khá rộng lớn được tạo dựng vào khoảng nửa đầu thiên niên kỉ thứ nhất trước Công nguyên và phát triển rực rỡ vào giữa thiên niên kỉ này

Top 36 món ăn truyền thống Việt Nam ngon và nổi tiếng nhất

  • Tác giả: toplist.vn
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 4536 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Ẩm thực Việt Nam là một trong những nền ẩm thực rực rỡ của khu vực Đông Á, ngày càng được quốc tế đánh giá chát. Bún chả được nhiều nhà phê bình ẩm thực danh tiếng lựa chọn, phở được yêu thích tại Nhật Bản, bánh mì mở cửa hiệu ở Hàn Quốc, món ăn đường phố Việt Nam góp mặt trong chương trình Street Food của Netflix… Điều này cho thấy nền ẩm thực Việt Nam rất phong phú, mới lạ, thu hút những người “sành ăn” trên toàn toàn cầu. Hãy cùng Toplist đón đọc Top những món ăn truyền thống Việt Nam ngon và nổi tiếng nhất nhé.: Phở, Bún, Bánh cuốn, Bánh khọt, Gà nướng KonPlông, Cơm tấm, Hủ tiếu Mỹ Tho, Bánh mì, Bánh chưng/bánh tét, Bánh xèo, Gà Tiên Yên, Cao lầu, Phở chua, Nem rán/giò lụa, Cơm cháy, Bánh bèo, Yến sào Khánh Hòa, Bánh căn, Lẩu thả, Bánh canh Trảng Bàng, Gỏi cuốn, Chả mực Hạ Long, Bánh đa cua, Súp lươn, Cơm hến, Mì Quảng, Bún chả cá Quy Nhơn, Chả cá, Lợn “cắp nách” 6 món, Dê núi Trường Yên 6 món, Chắt chắt, Bánh khoái Huế, Cá bống sông Trà, Bánh tráng cuốn thịt lợn 2 đầu da, Thịt trâu khô, Bê thui Cầu Mống,

Em hãy kể những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam mà em biết.

  • Tác giả: hocsinhgioi.com
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 3540 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Dân tộc Việt Nam có nhiều truyền thống tốt đẹp đáng tự hào, như: + Truyền thống yêu nước; + Truyền thống quật cường chống – Chia sẻ nội dung Em hãy kể những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam mà em biết. của học viên.

Top 5 Lễ Hội Truyền Thống Lớn Nhất Ở Việt Nam

  • Tác giả: vietyouth.vn
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 4914 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Hàng năm, tại Việt Nam có rất nhiều các lễ hội truyền thống lớn. Từ Bắc vào Nam, mỗi miền lại có những văn hóa, phong tục và lễ hội khác nhau.Trong số đó có 5 lễ hội được xem như là lớn nhất và thu hút sự quan tâm từ người dân trong cả nước. Hãy cùng chúng tôi tìm tòi về 5 lễ hội truyền thống Việt Nam này ngay sau đây!

Xem thêm các nội dung khác thuộc thể loại: giải trí