Hội kín bí ẩn nhất Thế giới – Hội Kín Illuminati – hội illuminati ở việt nam

Hội kín huyền bí nhất Toàn cầu Hội tam điểm [img] Uploaded with ImageShack.us[/img][img][/img][img] Uploaded with ImageShack.us[/img] Hội tam điểm mạnh còn gọi

Bạn đang xem: hội illuminati ở việt nam


CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚ₵ CỦ𝓐 TOÀИ THỂ NGƯỜΙ VIỆƬ NAM TRÊN TOÀИ THẾ GIỚΙ . :: Your first category :: HUYỀИ BÍ HỌ₵ VÀ TÔN GIÁΣ :: CÁ₵ TRƯỜNG PHÁΙ HUYỀИ BÍ HỌ₵ VÀ CÁ₵ TÔN GIÁΣ :: HUYỀИ BÍ HỌ₵ TÂY PHƯƠNG

 

 Hội kín huyền bí nhất Toàn cầu – Hội Kín Illuminati

Go down 

Tác giảThông điệp𝓐́NH SÁNG-T2-ᑗ́CCHÂU

Tổng số bài gửi

:

1153

Join date

:

18/02/2010

115318/02/2010


Hội kín bí ẩn nhất Thế giới - Hội Kín Illuminati EmptyBài gửiTiêu đề: Hội kín huyền bí nhất Toàn cầu – Hội Kín Illuminati   Hội kín bí ẩn nhất Thế giới - Hội Kín Illuminati I_icon_minitimeFri Jun 25, 2010 7:39 am

Tiêu đề: Hội kín huyền bí nhất Toàn cầu – Hội Kín IlluminatiFri Jun 25, 2010 7:39 am


Hội tam điểm
[img]

Hội tam điểm mạnh hay còn gọi là hội kín Illuminati là 1 hội có từ xa xưa , ko ai biết chắc rằng nó khởi nguồn từ đâu , theo tiếng Latin có nghĩa là những người được thần linh khai sáng. Illuminati có vẻ là hội kín bí mật nhất trong số các hội kín trên toàn cầu. . Hình như nó là 1 hội của các người thợ chuyên xây cất các thánh đường xa xưa vốn chứa nhiều điều huyền bí . Các đoàn viên đều phải giữ bí mật nghề nghiệp nên dần dần trở thành 1 hội kín .
Các hội viên đều được tuyển chọn trong những phần tử trí thức và quyền quí . Mỗi hội viên khi tham gia đều phải qua 1 nghi lễ rửa tội và nhận 1 loài vật làm hộ mệnh . Mục tiêu của hội này là triệt hạ toàn bộ những tôn giáo , nhất là Thiên Chúa Giáo để xây dựng 1 tòa nhà lý tưởng cho nhân loại
Không dừng lại thời xa xưa đó, Illuminati ngày nay còn được xem là đã xâm nhập tận trong các trung tâm quyền lực ở Mỹ. Marcus Allen của tờ Nexus Magazine cho rằng toàn thể hệ thống chính trị ở Hoa Kỳ và Anh là do… một nhóm trí thức ưu tú thuộc Illuminati kiểm tra.

Ở Mỹ, Illuminati được xem là có chân rết trong Hội đồng Ngoại giao, một hội đồng hoạch định quyết sách đối ngoại của Hoa Kỳ (xem The Illuminati and the council on foreign relations, Myron Fagan), và một hội kín mang tên gọi rất “hình sự” là Skull and Bones” (Sọ và xương người). Đề quyết này cũng tương tự như việc cho rằng ở Pháp hội Tam Điểm len lỏi tận trong các chính quyền. Dấu vết rõ ràng và cụ thể nhất của Illuminati ở Mỹ chính là những dấu chỉ bí mật trên tờ giấy bạc 1 đôla Mỹ. Phía sau tờ giấy bạc này ta thấy bên trái có một kim tự tháp chưa xây xong, còn thiếu hòn đá chóp; trên có hình con mắt, con mắt thấy hết mọi sự. Phía dưới tháp có slogan “Novus ordo seclorum” (có nghĩa là “trật tự mới toàn cầu”). Bên phải có con chim phượng hoàng, mang một tấm vải vuông trước bụng; trên đó thường có vẽ những biểu tượng huyền bí. Nếu đúng là như vậy, thế lực của Illuminati quả là đáng gờm khi slogan và biểu hiệu của họ không hiểu vô tình hay cố ý mà được in trên giấy bạc 1 đôla.

Trong hơn 200 năm qua, hội kín đầy huyền bí này đã chất chứa vô số truyền lưu nổi tiếng .Mục đích tối hậu của hội kín này là lật đổ thế quyền và thần quyền khắp nơi, cải biến bản chất của loài người và thống trị toàn toàn cầu, link mọi quốc gia dân tộc thành một đế chế toàn thị trường quốc tế. Cũng chính vì thế, Illuminati còn được dùng đồng nghĩa với “trật tự thế giới mới”.
Thường thì Illuminati hoạt động trong bóng tối, bí mật kiểm tra các vấn đề của toàn cầu, trong hậu trường chính trị. Lực lượng của Illuminati bao gồm những trí thức có thế lực và những chính khách cấp tiến, trong đó có cả những văn tài toàn cầu như Goethe và Herder… Có nhiều ý kiến cho rằng thành viên của hội này cơ bản được thu hút từ hội Tam Điểm dù không có bằng cớ minh chứng cho liên hệ này.

Illuminati tỏa ra khắp các nước châu Âu dưới dạng nhóm bán công khai. Ở Anh có hội Fabian và hội Round Table; ở Mỹ có Hội đồng Ngoại giao. Illuminati còn được xem là có chân trong Câu lạc bộ Rome mà đằng sau các tổ chức này là một thành phần cốt yếu gồm các nhà băng quốc tế; nhất là các tập đoàn tài chính Rothschild và Rockefeller.
Illuminati tồn tại dưới nhiều danh xưng, nhiều hình thức bí mật, bán bí mật, công khai, với nhiều đơn vị có “bảng hiệu” khác nhau. Một vài nguồn tin cho rằng Bavarian Illuminati vẫn tồn tại cho đến ngày hôm nay, dù rất ít chứng cứ cho thấy hội kín này của Weishaupt tồn tại đến thế kỷ 19. Tuy nhiên, một vài hội nhóm đã dùng tên gọi Illuminati để gọi cho hội nhóm mình như Grand Lodge Rockefeller của David Goldman (Mỹ), Orden Illuminati của Gabriel López de Rojas (Tây Ban Nha), và The Illuminati Order của Solomon Tulbure (Mỹ).
Ở Việt Nam Hội Illuminati
du nhập từ thời Toàn quyền Pháp Ρ.Pasquier (1937) và bành trướng tại miền Bắc vào thời Thống Chế Petáin . Đến thời Bảo Đại dưới chính phủ Trần Văn Hữu và Nguyễn Văn Tâm hội lại càng hoạt động mạnh và xâm nhập vào bộ máy chính quyền

Chứng cứ đây

[img]
[img]

à, xếp đôi tờ 20 đô thị hình tòa tháp đôi bị cháy
Phần dịch của 1 đứa bạn
Trước nhất bạn hãy nhìn vào biểu tượng kim tự tháp:
Dòng chữ Latin: “Annuit Coeptis ” nghĩa là “Thông báo về sự ra đời của ” và ” Novus Ordo Seclorum ” là ” Trật tự thế giới mới ” . Vì vậy nghĩa của nó là : ” Thông báo về sự ra đời của trật tự thế giới mới “.Ngày theo số La Mã trên biểu tượng là 1776 , này là năm thành lập của hội kín Illuminati và cũng chính là năm ra đời Hợp Chủng Quốc Hoa Kì . Từ Latin ‘E Pluribus Unum’ nghĩa là ” 1 phần của rất nhiều ” , đây là nền tảng cho plan thống nhất toàn toàn cầu của New World Order về : chính phủ , tôn giáo và tiền tệ . Vì vậy toàn cầu có thể được kiểm tra đơn giản.
Tỷ lệ các cạnh của Kim Tự Tháp là 600, 60, 6 tương ứng với con số của quỷ SATAN 666 theo hình sau:

Hệ thống chữ số mà hội Tam Điểm thiết kế nên biểu tượng là hệ lục phân (của người Babylon),nếu quy đổi sang hệ thập phân tương ứng là 1000,100,10.Nếu ta cộng lại các số trên ta được 1000+100+10+600+60+6=1776 là năm thành lâp tổ chức đồng thời là năm thành lập Hợp Chủng Quốc Hoa Kì.Sáu chữ trên các đình tam giác khi ghép lại tạo thành chữ MASON:

Giờ đến biểu tượng con đại bàng :

[img]

Hãy nhìn lên trên đầu con đại bàng , bạn sẽ thấy có 13 người nổi tiếng 5 cánh bên trong đám mây . Những người nổi tiếng 5 cánh được sắp xếp theo hình dạng của 1 người nổi tiếng 6 cánh . Nhưng có 1 điều : người nổi tiếng 6 cánh là biểu tượng của những kẻ thờ quỷ Satan . Đó cũng chính là hình có 6 điểm , 6 góc , 6 mặt phẳng ( 666 ) , dấu hiệu của những kẻ chống Chúa .
Tiếp tục ta thấy được có:
13 chiếc lá trên cành oliu
13 thanh chắn và vệt sọc trên chiếc khiên
13 mũi tên ở móng phải ( móng vuốt con đại bàng )
13 chữ ở trên ruy-băng
13 người nổi tiếng
32 chiếc lông dài bên cánh phải tượng trưng cho 32 cấp bậc trong luật Hội Tam Điểm
13 hòn đá trên Kim Tự Tháp.

Ngoài ra , 13 người nổi tiếng 5 cạnh trên đồng tiền nếu nhân lên sẽ ra số 65 . Đây là 1 con số huyền bí trong chủ nghĩa thần bí Châu Âu .Năm 1841 , đại bàng đã thay thế cho phượng hoàng vào để trở thành biểu tượng của quốc gia.
Tiếp theo bạn hãy nhìn vào đồng 1 USD của Hoa Kì do hội Tam Điểm thiết kế:

Ta thấy chúng có nhiều điểm tương quan với nhau như:
Ở bên phải bức hình chân dung George Washington trên đồng 1$ ( tiền giấy ) bạn sẽ thấy dòng chữ “Seal of the Department of the Treasury” ( nôm na nghĩ là dấu ấn của kho tàng ) . Nó gồm có : chìa khóa , cái cân của công lí và hình vuông – biểu tượng cực kì trọng yếu của HTD ( xin lưu ý là cái hình vuông theo lời của họ chính là hình ^ ngăn cách cái cân và chiếc chìa khá đó ) . Nếu nhìn vào hình ngăn cách bạn sẽ thấy có 13 lỗ trong đó , và có 39 chấm xanh bao quanh 3 hình này ( chìa khóa , cái cân và hình ngăn cách ) . Hãy nhớ này là 39 . Chia đôi sẽ được 19.5 . Số 19.5 có thể bắt gặp trong các thiết kế của Cydonia, Mars, Avebury, England and Washington 𝓓.₵.
Hình trên cho bạn thấy được một con cú nhỏ ờ góc bên phài tờ 1 USD
Khá nhiều lần các chính trị gia của Mỹ giơ tay về phía máy ảnh với bàn tay hình con cú.
Qua đó ta thấy được sự liên quan nào đó giữa tổ chức Illuminati ,biễu tượng của HK,và đồng 1 USD.Vậy liệu thật sự có một tổ chức nào đuợc thành lập để kiễm soát hậu trường chính chị trên toàn cầu khi phần lớn những người thành lâp nên quốc gia HK là thành viên của hội Illuminati ?

Việc có nhiều số 13 đơn giản là lúc thành lập nước Mỹ thì chỉ có 13 bang và đương nhiên , biểu tượng 13 trên tờ 1 USD trước tiên phải là 13:
13 là oliu: 13 bang hào bình thịnh vượng
13 mũi tên: 13 bang công minh và đoàn kết
13 người nổi tiếng,: 13 bang như những người nổi tiếng sáng
13 chữ: 13 chữ của sự doàn kết, không thể thiếu đi 1 chữ cũng như không thể thiếu đi 1 bang
13 hòn đá của kim tự tháp: 13 bang của sự link chặt chẽ với nhau, tạo dựng nên 1 con mắt “soi sáng” rõ cho dân chúng của 13 bang
13 gạnh trắng và đỏ: 13 bang
1 điều nữa em thắc mắc, sự lây chữ Ɱ 𝓐 Ş И Σ không có theo quy luật nào cả. nếu nói là MASON, vậy ta có thể nói là : AS MON (như ngày thứ hai, trổ tài sự chuẩn bị, một niềm vui mới của ngày làm việc mới hoặc theo nhiều nghĩa khác) và nhất là nó theo 1 quy luật: quy luật chiều kim đồng hồ.
Còn những chiếc chìa khóa, và cái cân, hình chiếc khiên ta có thể hiểu là :công lý, muốn có được công lý thì phải có chìa khóa, chìa khóa ở đây có thể hiểu nôm na là chìa kháo của tri thức, chìa khóa của trái tim loài người .𝒱.𝒱… còn cái cán cân thăng bằng trổ tài tính nghiêm minh của pháp luật, cái khiên có 13 người nổi tiếng trổ tài sự chở che của 13 bang, chở che cho nười dân , chở che cho tự do, độc lập……. Ngoai ra, chữ “the departer ò the treasury” , trổ tài rằng: Muốn có được “kho bấu” của loài người, thì pháp luật là thứ duy nhất dẫn loài người đến “kho bấu” ấy, “kho bấu” của nhân loại, nền văn minh nhân loại…….
Còn cái vụ các ông tổng thống Mỹ giơ tay hình con cú thì….chài chài ! người dân Mỹ bị tác động bởi làn sóng âm nhạc thời những thập niên 80-90, các ca sĩ, đạc biệt là nhạc Rock hay Rock and Roll có trò giơ tay hình con cú trổ tài sự vui vẻ, kích động, và trổ tài tình cảm của mình giành cho khán giả. Thực sự mình chưa rõ giơ tay vậy có hàm ý gì, nhưng m2inh từng đọc trên một tạp chí có giải thích về ciệc giơ tay hình con cú này
Thứ nhất, hội Tam điển (triads) khác hoàn toàn với hội Khai sáng (Illuminati). Cái này không chỉ là tin đồn thất thiệt đâu mà nhiều trường ĐH lớn trên toàn cầu cũng có những phòng ban tìm hiểu về cái Illuminati này cũng như tìm hiểu về Trung cổ (Medieval), Hội Bàn tròn (Round Table) hay Hội đồng Đối ngoại (Council on Foreign Relations). Tất nhiên theo những thông tin em thu thập được thì đến nay toàn bộ vẫn chỉ dừng lại ở suy đoán chứ chưa có một thông tin xác thực nào cả (cũng tương tự như kiểu lời sấm truyền của Nostradamus vậy). Thậm chí có nhiều nhà tìm hiểu còn mang ra giả thuyết là George Washington và Bẹnamin Franklin cũng là thành viên của cái hội Khai sáng (Illuminati) để minh chứng cho các phát hiện của họ như bác Hanzo hay bác keokeo đã đề cập đến. Có thời gian theo dõi về mấy cái này cũng hay phết các bác ạ
ội Illuminati được nhắc đến trong thiên thần và ác quỷ, nhưng lại được nói đến là một tổ chức cài vào hội Tam Điểm, chẳng biết thế nào.
Tán thành với thangmu13, những lập luận mà keokeo mang ra hình như rất vô căn cứ
Hội Tam Điểm hình như được biết tới nhiều hơn đúng không? Trong tiếng anh, hội Tam Điểm thường gọi là freemason hay mason, chứ không hay gọi là Illuminati.
Chuyện hội Tam Điểm thâu tóm chính phủ Mỹ thì daisy biết lâu rồi, tuy thế chỉ nói nôm na thế thôi, chứ phải nói là những chính khách Mỹ hầu như là thành viên hội Tam điểm. Hội Tam điểm theo mình chả có gì nguy hiểm đến mức gingerbread phải xếp loại nhanh thế đâu.
Illuminati (trong wikipedia có hai bài tách biệt nói về hai hội có tên như tất cả chúng ta đang bàn đây) (chứ không phải hội Tam điểm), là những người có tư duy tự do, tất nhiên là không ưa gì tòa thánh Vatican, tuy thế không phải khủng bố đâu ạ. Mình cũng từng đọc bài về hội Tam điểm ở trong wikipedia tiếng anh, cũng không thấy dòng nào nói về bất kể hành động bạo lực nào của hội tam điểm.

http://lichsuvn.info/forum/showthread.php?t=924

Hội Tam Điểm
Nguyễn Văn Hoàng

Ι- Lịch sử hội Tam Điểm
1. Hội Tam Điểm là gì?
Hội Tam Điểm tự coi như là một dòng hệ kết nạp (Ordre Initiatique) các hội viên để huấn luyện nhau bằng những biểu tượng (symbole) và các nghi lễ (rites) một cách bí truyền (Esotérique), phi giáo điều (adogmatique), lũy tiến (Progressif) tới sự hoàn thiện của nhân loại. Phương tiện hoạt động của họ là làm việc phước thiện, thiên hướng của họ lại thay đổi tùy thuộc thời kì và xứ sở. Tổ chức Tam Điểm có rải rác trên nhiều quốc gia trên toàn cầu, quy tụ những hội viên cấp tiến với mục đích tự cải tổ đời sống trí não và đạo đức.

Hội Tam Điểm thường được xem như là một tổ chức đạo đức đặc biệt hình dung bằng những biểu tượng. Họ tự cho như là một dụng cụ huấn luyện ái hữu (outil fraternel) dùng những phương pháp đặc biệt để huấn luyện các khả năng nghe, tư duy và hội thoại để có thể truyền đạt các giá trị đã thâu hoạch được cho các người xoay quang.
Nói một cách đơn giản, hội Tam Điểm không phải là một đảng chính trị vì không chủ trương cướp chánh quyền, không phải là một tôn giáo vì không loại bỏ tôn giáo nào và không đi thuyết phục tín đồ, không phải là một giáo phái (secte) vì không theo một chủ thuyết nào (doctrine). Sự kết nạp vào hội Tam Điểm rất khó tính, song sự ra hội lại rất tự do và thong thả.

2. Mục tiêu của hội Tam Điểm:
Mục tiêu chính của hội Tam Điểm là xây dựng. Họ làm việc để xây dựng Đền Nhân Loại (temple de ɭ’humanité), nhiệm vụ của họ chỉ chấm hết khi toàn thể nhân loại được phát triển. Hiển nhiên với ngưỡng vọng một tương lai như vậy, lý tưởng Tam Lăn tay là một thần thoại (mythe), nhưng người Tam Điểm vẫn tin tưởng vào ngày có rất nhiều hội viên Tam Điểm trên toàn thị trường quốc tế để kết thành một chuỗi người đoàn kết (chaine {d}’union) có khả năng cho nhu cầu cần nhất của trí tuệ loài người.

3. Nguồn gốc của Hội Tam Điểm
[img]

Tuy là các tổ chức Tam Điểm thật sự không phải là một nghiệp đoàn khởi đầu xuất hiện trước tiên ở Ecosse (Tô Cách Lan) vào thế kỷ thứ XVII, song họ đã cho rằng họ có những nguồn gốc huyền bí, thần thoại từ thượng cổ.
Theo Thánh kinh thì Vua David cho xây đền Salomon để chứa Arche Dalliance (cái rương chứa các phiến đá có khắc 10 điều răn (commandements), dấu hiện link (signe {d}’alliance) giữa Thượng Đế và người Do Thái) trước đền có hai cột đồng đen Jakin và Boaz, một biểu tượng Tam điểm do Hiram de Tyr. Sau này, Hiram bị ba người thợ ám sát vì họ muốn có bí mậy xây cất của Hiram và người ta cho rằng Hiram và Salomon là thủy tổ của Franc-Maconnerie.
Theo các bản viết tay (Manuscrit) gọi là Old charges (các trách vụ cũ) có tên là “Régius” vào thế kỷ thứ 14, thì nghề xây cất liên hệ tới khoa hình học (Géométrie) do đám con của Lamech viết trên các cột bằng đá. Sau cơn Đại hồng thuỷ (Deluge), một người cháu của Noé, tên Hermanis tìm thấy những bí mật xây cất và hình học trên các cột đá này để đem dậy cho các người thợ xây tháp Babel. Sau đó Abraham sang Ai Cập dậy hình học cho Euclide để ông này đem về dạy ở Hi Lạp. Tiếp đó, các người xây cất trở về Jérusalem để xây đền Salomon.
Theo bản Constitution {d}’Anderson (viết bên Anh năm 1723) thì nghề xây cất đã khởi sự từ thời ông Adam là người thợ xây cất trước tiên đã được Thượng Đế dạy cho hình học. Nhưng qua kinh Cựu Ước (Ancien Testament) thì Vua Salomon là Franc-Macon và là Grande Maitre của Loge (chi hội) Jérusalem. Sau đó, “nghệ thuật hoàng gia” (Art Royal) này mới truyền sang Hy Lạp, Ai Cập vào đế quốc La Mã và người ta cho rằng Vua Auguste (-14 cho tới 63 sau Công Nguyên) là Grand Maitre du Loge de Rome vì ông ta đã là người đỡ đầu cho thiết kế sư Virtruve.
Trong thời đế quốc La Mã, những nhóm nghề nghề tụ họp thành Collégium để lo các việc kinh tế và xã hội của hội như các collégium của các nhà buôn đứng ra điều đình với chính quyền để giữ độc quyền như nghề buôn bán ngũ cốc lại được miễn sưu thuế [1] và miễn dịch vụ. Mỗi nghề đều có Thánh tổ và hàng năm họ lo sửa lễ để mừng Thánh tổ. Họ cũng mời những người có quyền thế (đương nhiên là có giầu có) để bảo trợ bằng tài chánh và thế lực và họ đền bù sự đóng góp này bằng cách tặng cho các ân nhân danh hiệu Patron (quan thầy).
Sau đó, đế quốc La Mã bị các rợ Gothique và Germanique từ Đức sang tàn phá vào các thế kỷ từ VI tới thế kỷ IX thì không còn thợ. Lần lần các nghề nghề mới khôi phục lại thành các Guilde (gốc tiếng Đức Gelt là đồng tiền)Thánh tổ của nghề xây cất là thánh Jean {d}’Evangeliste và ngày vía là ngày 27 tháng 12, Khi được khai tên kết nạp (initier) người tập sự phải tuyên thệ giữ bí mật nhà nghề. Vì luôn luôn phải di chuyển từ công trường tỉnh này sang công trường tỉnh khác, nên họ có cách nhận nhau bằng những biểu tượng (symbole) và những mật mã (code). Một người thợ sang Pháp, được Charles Martel, ông của Vua Charlemagne thâu nhận; một người khác là Thánh Alban sang Anh và được Hoàng hậu Edwin con ông Vua Anglo Saxon Athelstan bảo trợ tích cực đến nỗi chính ông ta cũng thành maçon (thợ xây cất)
Tới đây, cũng nên nói qua về Thập Tự quân với Hiệp sĩ dòng Temple de Salomon và nhóm Rose Croix vì có tác động tới Hội Tam Điểm sau này. Prieurés de Sion Năm 1000, một lãnh chúa là Godefroi de Bouillon ở đất Thánh lập ra abbaye de Notre Dame du Mont Sion: khi thấy các tín đồ đi hành hương tại Jérusalem bị cướp bóc, các tu sĩ dòng này đã bí mật can hệ vào việc thành lập ra dòng Hiệp sĩ Temple (1118) de Salomon là một dòng quân sự do Hugue de Payns lãnh đạo, lấy tên là Pauvres Chevaliers du Christ (Bần Hiệp Sĩ Thiên Chúa) để bảo vệ khách hành hương. Họ đóng quân ở vị trí đền Salomon do đó lấy tên là Chevaliers du Temple. Được Giáo Hoàng Innocent II tin cậy, dòng này trở nên quyền thế và sung túc, làm cho Vua Philippe le Bel đố kỵ và sai bảo tiêu diệt nhóm này vào ngày thứ sáu 13/10/1307 (do đó có tiếng là ngày xui xẻo). Thủ lãnh Jacques de Molay bị thiêu (1314), dư đảng trốn sang Ecosse, tài sản bị tịch thu cho nhà chung Hospitaliers. Nhóm Prieuré de Sion rút vào bí mật và lấy tên là Rose Croix (Rosae crucis) họ thành lập một hội thần bí nhưng không dính tới tôn giáo nào nữa. Họ có triết lý siêu hình và hữu hình (metaphysique et physique) mục đích để gợi những năng khiếu của loài người. Hội nhắc các đoàn viên tầm trọng yếu của các định luật vũ trụ và thiên nhiên và nên vận dụng các luật đó. Chữ Rose crucien từ gốc Latin có nghĩa là chữ thập và hoa hồng do ở biểu tượng chữ thập và hoa hồng của họ. Thủ lãnh của họ gọi là nautonier, như Leonardo da Vinci, Isaac Newton, Victor Hugo, Jean Cocteau và gần đây Pierre Blanchard. Do đó, Franc Maconnerie là hậu duệ của Prieurés de Sion. Vài dòng về chữ Franc-Maconnerie. Năm 1015 sau Công nguyên, tại Strasbourg, một chi hội (loge hay atelier) trước tiên của các người thờ đẽo đá nhà thờ Strasbourg được thành lập.
Năm 1119 Hội đồng các Giám mục thành Rouen kết án các nghiệp đoàn (confrérie)
Năm 1245, khởi đầu xuất hiện tại Strasbourg các tục lệ tiếp nhận hội viên và lời khuyên các hội viên giữ tình huynh đệ và giữ bí mật. Cũng vào năm này có đại quy tụ họp 5 chi hội lớn, ấn định các điều lệ đạo đức, tôn giáo và nghề nghiệp.
Năm 1276 Vua Rodolphe 1er de Halsbourg ban miễn trừ (franchise) cho các thợ đẽo đá nhà thờ Strasbourg.
Năm 1315 tại Strasboug có đại hội các thợ đẽo đá và thợ xây dựng và các người xây dựng lại lấy năm này là năm khởi sự của Hội Tam Điểm mà ta gọi là franc-maconnerie opérative tạm gọi là xây cất đặc miễn đương hành. Vào năm 1356 tại Luân Đôn có sự tranh giành giữa những thợ đẽo đá (tailleurs de pierre) và người xây dựng (poseurs de pierre) do đó có luật lệ năm 1411 ấn định việc kiểm tra nghề nghiệp: người học việc học 7 năm trời, phải ra trước một uỷ ban để tuyên thệ trung thành với nghề, với thị xã, với vua và lúc đó họ mới trở thành người tự do hành nghề xây cất (free mason), có thể chữ này cũng rút ngắn từ chữ freestone mason tức là maçon de pierre franche là thợ xây cất đá mềm, dễ đẽo và dễ điêu khắc. Chữ “free mason” (franc macon) đã chính thức được dùng từ năm 1376 và năm 1390 người ta đã viết ra cuốn Thủ bút Régius hay Manucrist Royal nói về tổ chức nghề xây cất. Năm 1616 nhóm Rose Croix ra tuyên ngôn về đường lối và mục đích như đã nói ở trên (đoạn cuối về Prieuré de Sion).

4. Tại Ecosse.
Năm 1583 Jacques VI con của Marie Stuart, nữ hoàng Ecosse lên ngôi. Ông trao cho William Shaw quản lý tiền nong và xây các hoàng cung. Tuy lúc đó Ecosse đã ngả sang Tin Lành, nhưng William Shaw vẫn còn giữ Gia Tô Giáo và năm 1598 ông đề ra một số luật lệ quản lý, xếp đặt ngôi thứ trong nghề xây cất trong đó có nói tới những phương pháp để nhận nhau. Năm sau, Shaw lại còn định thêm là các bậc thầy trong nghề xây cất phải có nhiệm vụ huấn luyện người tập sự và dạy họ phương pháp để nhớ được các kỹ thuật đó. Làm theo người La Mã, họ cũng lựa một quan thày là William Sinclair là lãnh chúa Roselin, vì Sinclair là hậu duệ của vị hầu tước đã cho xây Chapel Roselyn. Tới năm 1801 William Sinclair cũng lấy tên là William, cho ra một cái charte cho franc maconnerie và các lãnh chúa được lãnh danh hiệu maçon từ đó. Hiện tại charte này còn ở Chapel Roselyn.

5. Maconnerie opérative và maconnerie spéculative
Cho tới đầu thế kỷ 17 dòng xây cất vẫn là những nghiệp đoàn gọi là Guilde (tiếng Đức mà ra Gelt: đồng tiền) trong đó chỉ có hai hạng thành viên, 1) tập nghề (apprenti) và 2) thợ bạn (compagnon) còn thầy nghề chưa có mà chỉ có người điều khiển công trường; khi vào nghề thì phải qua lễ kết nạp là phải biết giáo lý (catéchisme), sự truyền đạt các bí mật nghề nghiệp, các ngữ vựng (vocabulaire) về các biểu tượng dùng trong các nghi lễ và tập tục. Cho tới lúc này nghề xây cất vẫn hoàn toàn chỉ là opérative (xây cất đặc miễn đương hành) mà thôi. Dần dần từ bên Anh và Tô Cách Lan mới biến dạng thành spéculative (xây cất đặc miễn tự biện) (spéculare = réfléchir) theo tiến trình sau đây: Người xây cất cần sự trợ giúp của các giới chức tôn giáo, các quý tộc, các chưởng khế là các người chủ trì các công tác xây cất lớn, nên đã mở cửa tiếp đón nhận các người này, trái lại sau trận hoả hoạn lớn tại Luân Đôn, cả một đội binh xây dựng nhà thờ Gothique từ Pháp sang Anh, du nhập vào giới quý tộc và trí thức Anh những tư tưởng của Virtruve. Virtruve là thiết kế sư thế kỷ Ι trước công nguyên viết cuốn De Architectura. Theo ông thì người thiết kế sư lý tưởng phải là người vạn năng (universel), không những phải biết hình học, biết dùng các vật liệu xây cất mà còn phải biết thiên văn, khí tượng, âm nhạc, y học, quang học, triết học, sử học và pháp chế (jurisprudence). Vào thời đó những người ở giai cấp cao và trí thức có tư tưởng cấp tiến hay thần bí (mystique) tìm hiểu vũ trụ và toàn cầu cùng cắt nghĩa chỗ đứng của loài người qua một thứ từ ngữ và biểu tượng (symbole). Trong thời kỳ từ 1550-1710 lại có nhiều người tìm hiểu hoá học và phép luyện giả kim (alchimie) ước mong như Sir Issaac Newton có thể đổi đá thành vàng hay chì thành vàng. Ngay trong những sách báo của Rosae Crucis (chữ thập hoa hồng) từ Đức và Societé Royale {d}’Angleterre (sẽ nói sau) cũng có những hội viên bí mật bàn nhau về chuyện luyện giả kim. Họ vừa có tiền vừa có tri thức vừa có thế lực nên được khai tâm kết nạp vào Franc Maconnerie, dùng các biểu tượng, dùng các tập tục (rituel) về phép luyện giả kim dùng thuyết tân Platon (néoplatonisme) để lập ra những loge trước tiên cho họ mà ta gọi là franc maconnerie spéculative (xây cất đặc miễn tự biện) hay franc maconnerie philosophique (xây cất đặc miễn triết học).

6. Franc maconnerie truyền bá sang Âu châu
Từ năm 1640-1650 bên Anh có nội chiến, giết Vua Charles 1er nhà Stuart theo đạo Gia Tô và con là Charles II phải đi trốn. Dư đảng của ông là nhóm jacobite ở lại bên Anh phải rút vào bí mật. Họ vận động để khôi phục lại nhà Stuart trong đó có nhóm College Invisible là franc maçonnerie spéculative. Khi Charles II được khôi phục thì College Invisible đổi thành Royal Society (Societé Royale) và Franc Maconnerie lại thịnh hành từ năm 1660 tới 1668, gồm nhiều tu sĩ, quý tộc, luật gia, và uyên bác. Nhưng từ năm 1669 thì Jacques II Stuart lại bị cháu và cũng là rể là Guillaume {d}’Orange lật đổ và Jacques II phải chạy sang St Germain-en-Laye ở Pháp và tới năm 1721 Jacques II lại phải dời đi Bar le Duc rồi đi Avignon, Cerlino và tới Rome.
Năm 1714, triều đình Anh ở trong tay nhà Vua Hanovre (đối nghịch với nhà Stuart) thì nhóm Jacobite định một lần nữa khôi phục lại nhà Stuart với sự trợ giúp của Louis XIV, nhưng cuộc đổ bộ thất bại (năm 1715), nhất là khi chính phủ nhiếp chính (Gouvernement du Régent, tiếp theo Louis XIV, lại thân Hanovre.
Ngày 24-06-1917 tại Londres có 4 chi hội The Goose and Gridiron (con ngỗng và vỉ nướng chả), The Crown (vương miện), The apple tree (cây táo), The Rummer and Grappe (cái tách và chùm nho) phối hợp lại thành Grande loge {d}’Angleterre sau này là nhóm Modern dưới quyền một grand maitre để kiểm tra mọi loge kể cả các loge jacobite.

𝓐 – Constitution Anderson: Ancient và Modern
Năm 1731, Duc de Montaigne được bầu làm hội trưởng và cho ra một bản constitution mới là constitution {d}’Anderson do tu sĩ James Anderson soạn ra nói về lịch sử franc maconnerie bên Anh, từ thời Adam tới thời Jacques Ι, Charles Ι và Charles II được xem như là franc maçon. Cuốn này (thân Hanovre) cũng khen Guillaume III, Hoàng hậu Anne và George Ι. Từ đó, những grand maitre được bầu ra đều thân Hanovre cả. Như đã nói ở trên, những loge trước tiên đều ở Ecosse và theo statut Shaw rất độc lập. Họ thi hành một trong hai tục lệ:
1. Nghi lễ nhập hội của các nghiệp đoàn xưa gọi là “Rite de anciens devoirs
2. Hoặc là một tục lệ kết nạp (rituel d’initiation) đơn giản hơn trong đó sẽ truyền những “bí mật” hay còn gọi là “Rite du mot de maçon”.
Theo constitution Anderson tháng Giêng 1723 người ta dung hoà hai đường lối maconnerie anglicane (dùng Rite des anciens devoirs) với maçonnerie {d}’origine calviniste (dùng “Rite du mot de maçon”) bằng một tư tưởng tôn giáo rộng rãi hơn, gọi là tư tưởng về “religion naturelle” tuy rằng cũng quy chiếu một tí về “Sainte Trinité” (Chúa 3 ngôi). Vào thế kỷ thứ mười bẩy, tại Anh có chừng 30 loges (chi hội) quy tụ những người thành thị, dân dã, thợ khéo và tiểu thương và từ năm 1676 với uy tín và những tập tục mới thu hút thêm các quý tộc và lớp trưởng giả. Mục đích của họ là làm phước thiện và tương trợ vì hồi xưa chưa có an ninh xã hội để lo bệnh hoạn, thất nghiệp và tổn phí ma chay.
Từ Grande Loge de Londres sau này sẽ truyền bá sang Âu, Mỹ, Úc, Phi và Á châu. Một vài năm sau, grande loge {d}’York và các loge khác, thành lập một loge lớn khác lấy tên là Grand loge of Ancient Mason chống lại grande loge de Londres, cho rằng loge này đã mất đi tính cách Thiên chúa trong các tục lệ. Tới thời chiến tranh với Napoleon, thì hai loge lớn này đoàn kết lại thành một loge duy nhất gọi là United Grand Loge of England (1813) có thiên hướng ancient, buộc các hội viên tin vào Thượng đế. Còn ở Pháp thì Napoléon lại buộc các franc maçon phải quy tụ vào trong Loge du Grand Orient một thiên hướng modern, không buộc hội viên phải tin vào Thượng đế.

Ɓ. Sự tranh chấp Jacobite / Hanovrien tại Pháp: Grande Loge de France
Tại Anh, năm 1722 nhóm Jacobite bầu kên một Grand Maitre chống Hanovrien là Duc deWharton để làm một mưu mô gọi là mưu mô Atterbury, nhưng cũng thất bại vì Duc {d}’Orléan, nhiếp chính ở Pháp, thân Hanovrien, lại báo cho Anh biết trước. Tuy vậy những hội viên Jacobite vẫn không bị khai trừ khỏi hội và để giữ cho chi hội hoàn toàn là Jacobite, họ rút vào bí mật và thêm vào 3 cấp cũ trong tổ chức của họ, 30 cấp trên nữa. Từ đó Grande Loge {d}’Angleterre theo “Rite anglais” hay “hanovrien» chỉ có 3 cấp và nhóm Jacobite tự nhận là theo “Rite écossais ancien et accepté” (REAA) lại có 33 cấp. Sau lần mưu mô thất bại, nhóm Jacobite dời trụ sở chính sang Pháp và từ năm 1726 chi hội trước tiên đã được lập tại Paris. Từ năm 1728-1738 có nhiều chi hội Tam Điểm được thành lập tại Pháp và chia làm hai nhóm Jacobite và Hanovrien. Constitution Anderson được dịch ra tiếng Pháp và để thế vào chữ tôn giáo tự nhiên (religion naturelle) người dịch dùng chữ Thiên Chúa giáo vì người Jacobite hoàn toàn theo Gia Tô giáo. Người Franc Macon Jacobite nổi tiếng là người écossais Sir Andrew Ramsey. Năm 1723, ông được vời sang triều đình lưu vong Jacques III ở Rome. Ở đây, ông gặp David Nairne sau này thành bố vợ. Trở về Anh, ông xâm nhập được vào Grande Loge {d}’Angleterre trong một loge Hanovrien 1727. Và lúc đó thì ông phải nhìn nhận sự thất bại của nhóm Jacobite. Năm 1733, ông cùng Nairne nắm Grande Loge de France cho tới năm 1738 thì nhóm pro-hanovrien chiếm ưu thế trong Grande Loge de France tại Paris, nên Ramsey và Nairne phải về Saint Germain en Laye dể lập riêng một loge hoàn toàn Jacobite. Tháng Giêng năm 1738 nhóm Hanovrien ở Pháp ra một ấn bản Constitution mới chấp thuận Tin Lành và các người theo đạo khác. Nhóm Jacobite tức giận thuyết phục Giáo Hoàng Clément XII hạ sắc lệnh (bulle = in amimenti) lên án những tổ chức quần chúng trong đó mọi tín ngưỡng đều được coi bằng nhau. Phải chờ tới 1755 thì nhóm Jacobite mới chết hẳn. Và chính phủ Pháp đã không còn thân Hanovre nữa, Grande Loge de France trở nên hoà hoãn cũng như xác nhận là theo Gia Tô Giáo và cũng thừa nhận những cấp cao của Rite Écossais ancien et accepté (REAA).

₵. Grand Orient de France
Tại Pháp từ năm 1738 các Franc Maçon họp thành Grande Loge de France mới có một Grand Maitre trước tiên người Pháp là Duc {d}’Antin. Tới 1771 thì tại Paris đã có 41 loges và dưới tỉnh có 96 loges, ở thuộc địa Pháp có 5 loges và trong quân đội có 31 loges. Nhưng rồi sau cũng có sự chia rẻ, và sau buổi hội ngày 5 Mars 1773, một nhóm đã ly khai Grande Loge de France để lập ra Grand Orient de France, ngày một bành trướng lớn với 400 loges và hơn 30.000 hội viên. Những nhân vật tên tuổi như Condorcet, Laplace, Montesquieu, Helvetus, Marmontel và Le Breton, người viết Encyclopédie, đều là Franc Maçon cả. Tuy họ không trực tiếp làm cuộc cách mạng 1793 tại Pháp, song Franc Maconnerie đã là lò nung nấu những tư tưởng tiến bộ, những Lafayette, Dalton, Mirabeau, Dumoulin thường họp nhau để có một ý tưởng xã hội chung. Vào thời kỳ đó, ɭ’élite rationnaliste (lớp trí thức thuần lý) rất tự hào là Franc Macon. Năm 1890 ₣.Ɱ đã củng cố cho nền cộng hoà Pháp. Năm 1879, họ cắt bỏ trong constitution du Grand Orient 1870 đoạn buộc hội viên phải tin vào Thượng Đế. Điều một của nội quy mới tuyên bố là, nhằm mục đích tìm kiếm sự thực, tìm hiểu nền đạo đức vạn năng (Universelle), khoa học, văn nghệ. cùng là làm việc phước thiện. Hội không bỏ ai vì tín ngưỡng và hội có châm ngôn là “Tự do, Bình đẳng và Bác ái” (Liberté, Égalité, Fraternité)
Sự tu chính này không có ý xua đuổi người có trí não tôn giáo ra khỏi hội, nhưng lại gây đoạn tuyệt với Grande Loge Unie {d}’Angleterre và các chi hội Anglosaxon khác.
Như vậy là các hôi ₣.Ɱ có chung những biểu tượng về những tục lệ, song lại có hai thiên hướng khác nhau: Một thiên hướng Anglosaxon tự cho mình là thứ thiệt tin vào Thượng Đế là “kiến trúc sư cả” đã vẽ ra các sinh vật, vũ trụ. Một thiên hướng thứ hai khoan dung tôn giáo nhưng theo hiến chương Anderson trước tiên. Họ cho rằng ₣.Ɱ phải làm việc để cải tổ loài người và sửa soạn để cải tiến xã hội
𝓓. Franc Maconnerie trên toàn cầu
Kể về sĩ số, Grande Loge {d}’Angleterre link được 700 loges ở Canada, 400 loges ở Nouvelle-Zélande, 200 loges ở Ấn Độ, tổng cộng khoảng 1 triệu hội viên.
Bên Mỹ có 4 triệu hội viên, bắt buộc phải có tôn giáo và vẫn phân biệt chủng tộc. Người da đen có loge riêng.
Bên Đức có 400 loges và 30.000 hội viên có thiên hướng xã hội và triết học.
Thụy Sĩ có loge Alpina, theo xu thế Anh
Tại Pháp có Grand Orient de France từ năm 1773 với 400 loges, không theo Anh và còn tồn tại từ trước grande loge de France (1738) với 200 loges họ vẫn duy trì sự vinh danh thiết kế sư cả của Vũ trụ và được grande loge {d}’Angleterre nhìn nhận là hợp thức (régulier), tuy vậy họ vẫn giữ liên hệ với loge Grand Orient de France (1738)

II Tổ chức và sinh hoạt
[img]

𝓐- Tổ Chức
Đơn vi của Tam Điểm là một loge (chi hội), có nhiều chi hội trong một địa phương (region). Các chi hội ở nhiều địa phương họp lại thành đại hội (convent). Nơi tụ họp của một chi hội gọi là đền (temple), các cuộc họp gọi là tenues theo những thủ tục (rite) hay còn gọi là tuân thủ (obédience).
1. Việc nhập hội và thể thức tuyển lựa
Hàng năm có hàng trăm người phàm (profanes) nộp đơn vào hội tam điểm (₣.Ɱ) có 3 loại ứng viên: 1: Người được lựa (cooptés) hay được bảo lãnh (parrainés) thường là thân nhân của các hội viên đã có những đức tính tam điểm (₣.Ɱ): Nhân bản, tương nhượng (tolérance mutuelle); 2: Ứng viên độc lập tiếp xúc thẳng với chi hội; 3: Loại ứng viên không mấy tin tưởng gọi là alimentaire (tạm dịch là “ăn có”) vào hội để có mánh mung lợi lộc. Nếu hội đã biết trước các ứng viên thuộc loại người này, thì sẽ tìm cách khước từ. Một trong những biện pháp là phải nộp trước bản tư pháp lý lịch xem có sạch sẻ, hai là phải qua một cuộc điều tra. Ba điều tra viên tách biệt, không quen biết nhau tới thăm ứng viên đề đào sâu tư cách của đương sự. Ngoài những thắc mắc về lý lịch, tri thức, gia cang, họ cũng cử một người lại tận nhà để coi môi trường sinh sống của ứng viên, điều này sẽ bộc lộ tư cách của đương sự. Họ cũng muốn xem bà xã có chống việc tham gia hội, nếu quả thật là vậy, thì họ sẽ lời khuyên đương sự hãy rút đơn.
Ngoài nguyên nhân cá nhân mà ứng viên đã nại ra, ứng viên cũng sẽ được hỏi thêm xem họ có thích dùng những biểu tượng, và các tính cách bí truyền, cùng là có kiên trì với các công tác nghiệp đoàn và công tác chính trị không? tức là muốn vươn mình lên cao và có xu thế triết lý. Sau khoảng thời gian hoàn tất nhiệm vụ, các điều tra viên làm bá cáo với chi hội trưởng. Thường là ngay buổi tối hôm đó, phàm nhân được triệu tới Hội. Anh ta được bịt mắt bằng một khăn lụa đen, rồi mang vào đền, vì hai nguyên nhân: Thứ nhất, ứng viên không được biết người xoay quang, vì trong các chiến dịch chống Tam Điểm nhiều anh em (huynh đệ) đã bị nhận diện rồi mang vào trại tập trung; thứ hai, là để ứng viên tập trung vào các thắc mắc được đề ra, anh ta sẽ phải trả lời mọi thắc mắc của các hội viên, về một vài cụ thể trong vụ điều tra, về sự nhận định thời cuộc, về quyển sách sau cùng mà anh đã đọc…Sau buổi vấn đáp đương sự được dẫn ra và chờ ở ngoài để hội đồng thảo luận và bỏ phiếu bằng các trái cầu mầu đen, mầu trắng (do đó có chữ blackbouler), nếu bị khước từ thì sáu tháng sau, đương sự có thề nộp đơn lại. Qua 3 lần bị khước từ thì đương sự không còn trông mong nhập hội.

2. Các hội viên
α) Tập nghề: Đã là hội viên thì phải mang tạp-dề (tablier) quấn ngang bụng và mang găng tay (gant) trắng. Điều luật trước tiên là phải giữ yên lặng. Nếu có ý kiến gì thì phải viết ra giấy mang cho thầy nghề đọc. Là tập nghế, thợ bạn hay thầy nghề đều có dấu hiệu riêng. Sau thời gian tập nghề một năm, thì sẽ được lên cấp thợ bạn. Muốn như vậy, đương sự phải trình bày một công trình đã hoàn toại, và tỏ ra đủ tri thức trong cấp bậc của mình.
ɓ) Thợ bạn: Khác người tập nghề, thợ bạn có thể nói lên những ý kiến của mình nhưng chưa được hưởng hết quyền của một ₣.Ɱ. Chỉ sau thời điểm đã hoàn toại những công tác và có những tri thức của cấp bậc của mình, thì thợ bạn mới được tăng cấp lên bậc thầy và được hưởng toàn quyền của một ₣.Ɱ.
ͼ) Thầy nghề: Làm thầy không phải là cứu cánh (mục tiêu tối hậu), nhưng là phải nhận thêm trách nhiệm: giúp tập nghề và thợ bạn tiến lên trong nghề và phải siêng năng để làm gương. Muốn chi hội hoạt động được thì phải có tối thiểu là từ 5 cho tới 7 thầy nghề và 2 thợ bạn. Là thầy nghề có thể xin làm chức sắc (officier) có thể đại diện cho chi hội đi dự đại hội địa phương hay đứng ra lập các chi hội (loge) khác. Muốn hợp pháp, các hội viên sang lập phải được giấy chứng thực của cấp trên, tên của chi hội thường là tên của một nhân vật ₣.Ɱ có tiếng (Lafayette, Mozart, Voltaire 𝒱.𝒱..), tên một vĩ nhân (Copernic, Gallilé, Conficius) hay một đức tin (Philantropie, Droit et Rectitude, Raison et Laicité 𝒱.𝒱…)
3. Các chức sắc (Officiers) tay cầm vồ (maillet) hay đeo kiếm (glaive)
Một loge được một đoàn các chức sắc thúc đẩy, các chức sắc này được lựa chọn từ các thầy nghề và cứ một năm bầu lại một lần:
1) Ông Hội trưởng hay còn gọi là Vénérable (Tôn huynh) điều khiển công tác, có quyền cho nói hay không, coi việc giao dịch thư từ và cho “ánh sáng” (lumìère) tức là cho khai tâm kết nạp và cho tăng cấp. Hội trưởng không giữ chỗ quá 3 năm.
2) Đệ nhất giám thị: Huấn luyện viên các thợ bạn
3) Đệ nhị giám thị: Huấn luyện viên các tập nghề
4) Diễn thuyết viên (orateur) là người duy trì constitution (hiến chương) của hội lo việc vận dụng nghiêm túc các luật lệ và các obédience (tuân thủ) tức là các tục lệ. Sau lúc thảo luận, ông phải cho biết tổng kết là thế nào rồi mới có cuộc bỏ phiếu.
5) Ông thư ký: Lo việc hành chánh, làm biên bản cuộc họp vào “sổ kiến trúc” (livre {d}’architecture) của chi hội.
Ông Thủ 6) quỹ: Thâu tiền niên liễm và quản lý tiền nong của hội
7) Ông Hospitalier (ông Hiếu khách) lo chuyện quyên tiền giúp các hội viên gặp khó khăn, hoặc cho vay (với sự tán thành của hội trưởng), lo chuyện thăm viếng các hội viên gặp đau ốm.
Cool Ông Chuyên Viên (expert) xưa hay còn gọi là Hắc huynh (frère Terrible) kiểm tra phẩm cách tam điểm các khách tới thăm chi hội và xem xét các công việc có hợp pháp không, ông tổ chức và định các lễ khai tâm kết nạp thi hành các thủ tục cho nghiêm túc. Sự nhìn nhận phẩm cách tam điểm có được không là tùy ở ông này.
9) Ông Nghi lễ trưởng (maitre de cérémonie) phụ tá cho ông Chuyên Viên làm các tạp dịch (xếp đặt các lễ vật) lúc nào cũng đi vào trước, tiên phong trong mọi cuộc họp
10) Ông Bao quản (le couvreur) cho các anh chị em được vào đền, thường là một cựu chức sắc. Ông lãnh những việc trọng yếu nhất cũng như việc ti tiện nhất, như là người giữ cửa, chỉ mở cửa sau thời điểm đã kiểm tra phẩm cách của khách vào
11) Ông Trưởng ban Yến tiệc, tổ chức các bữa ăn (agape officielle) nhân ngày khai tâm kết nạp, tiệc hằng năm vào đông chí hay hạ chí (solstice)

Ɓ Sinh hoạt
1. Cuộc họp (Tenues)
Phần lớn trong các cuộc họp, chỉ có những người kết nạp mới được vào, song có một vài buổi, người phàm có thể tới được gọi là “tenue blanche” và chỉ có một người. Nếu có một diễn giả (conférencier) từ ngoài vào trò chuyện thì được gọi là tenue blanche fermée. Nếu có người phàm tới nghe buổi trò chuyện thì gọi là tenue blanche ouverte. Nếu là tenue blanche fermée thì diễn giả người phàm chưa vào được ngay, mà phải chờ hội viên làm nghi lễ và chấp thuận biên bản kỳ họp trước đã. Một diễn giả đã thuật lại thế này: “Tôi được hai chức sắc cao cấp đưa vào đền có trang hoàng nhiều cờ suý (bannière) và có đèn cầy thắp lên biểu tượng cho ánh sáng. Nhiều hội viên cầm các giây gù (cordon), những trang trí này giống như những giải lụa mầu, để gợi lại những ngành nghề thời Trung cổ. Có vài người đeo những dấu hiệu có nhiều màu sắc khác nhau tuỳ theo tổ chức và đẳng cấp, Ở bốn góc tấm thảm (đặt giữa phòng có thêu các biểu tượng tam điểm) là ba cái cột (colonnette) biểu hiệu cho force (dũng), sagesse (trí) và beauté (mỹ) là ba nền móng của đền Salomon. Cây cột thứ tư không có ở đây, là biểu tượng cho công việc của con người cần được tiếp tục xây cất. Ông Hội trưởng (Tôn huynh = Venérable) ngồi ở cuối đền, chủ toạ buổi họp. Tôi là diễn giả ngồi bên phải, bên trái là ông thư ký, loáy hoáy ghi chép hoài. Buổi họp hoàn toàn lặng lẽ. Khi mọi người được phép ngồi, ông chủ tịch mới nói vài lời chào mừng; sau đó tôi mới diễn thuyết. Người ta đã cho tôi biết trước là cử toạ sẽ không tỏ thái độ gì: hoan nghênh hay đả đảo. Tôi đã thuyết trình trong sự im lặng hoàn toàn, một điều hiếm có! Sau đó là lúc đặt câu hỏi và trả lời. Người nói phải xin phép ông chủ tịch, qua ông giám thị, như thế quả là mất thời giờ, song cũng tốt để cho người đặt câu hỏi sao cho chín chắn và rành rọt. Mọi người bày tỏ ý kiến một cách lịch lảm, lễ độ và tôn trọng ý kiến người khác, không ai được ngắt lời ai, và không được tỏ ý tán thành hay không tán thành khi không được phép nói. Khi ông chủ tịch cho bế mạc, tôi được ông chủ tịch cám ơn và được đưa ra ngoài. Phải nhìn nhận là tôi đã bị nhiều ấn tượng với không khí lịch lãm và khả ái của họ”

2. Phòng suy ngẫm (Cabinet de réflexion):
Một tiểu tiết kỳ thú của đền ₣.Ɱ. là phòng suy ngẫm. Này là một phòng kín, tối om, có thắp một ngọn nến (đèn cầy) để mang người phàm vào hai lần, một lần trước tiên trước khi bịt mắt, lần thứ hai vào ngày khai tâm, kết nạp. Phòng sơn đen, có các rèm mầu xậm, có vẻ hắc ám ghê sợ, trong phòng có một cái bàn và cái ghế, trên tường có các slogan kỳ lạ. “Nếu chỉ vì tò mò mà vào thì hãy đi ra” “Nếu anh chỉ muốn phân cách người ta thì hãy đi ra”. Nhiều biểu tượng được đặt trên bàn: Một sọ người, biểu tượng cho sự chết, cũng như là liên tưởng cho tư tưởng (la pensée), và sự kì ảo (la vanité) (Ta đã là thứ mà anh đang là – Anh sẽ là cái mà ta đang là). Người ta cũng thấy những bát nhỏ đựng muối, lưu huỳnh (souffre) và thuỷ ngân (mercure). Thuỷ ngân gợi tính chất kim loại của mọi vật, lưu huỳnh gợi tính chất dễ cháy. Muối biểu tượng cho sự khôn ngoan và là gạch nối giữa thuỷ ngân và lưu huỳnh. Một tấm gương để phản chiếu lại châm ngôn của Socrate: “Tự anh hãy biết lấy anh” (connnais-toi toi même) hay là câu châm ngôn của ₣.Ɱ. là: “Hãy tự nhìn anh như là chính anh tự tại” (Regardez vous, tel que vous êtes en vous-même). Thứ này để biểu tượng sự tự biết mình để có tiến bộ, đi vào được tâm thức (conscience) của chính mình, và cũng tri thức được (connaisance) cái vô hình (invisible) và cái toàn cầu vô tại (le monde de ɭ’irréalité). Một tấm gương dùng sai, chỉ phục vụ cho cái hư ảo, cho tính kiêu căng, cho sự tự mê (narcicisme), cho sự làm dáng (coquetterie) là những tính xấu đã kìm hãm sự tiến bộ của tư cách (personalité). Cũng trong phòng suy ngẫm, người ta còn thấy có nước và bánh mì, là những thực phẩm cơ bản cho đời sống. Sự nhận định bản-thân, và sự vấn tâm, đều rất thiết yếu để tiến bộ. Vẻ khắc khổ của phòng ốc mang người phàm tới sự suy ngẫm về biểu tượng các vật cùng là sự thật tâm của lời cam kết.

3. Những biểu tượng và những tục lệ:
Sự giáo huấn của ₣.Ɱ. không phải là một thuyết giáo mà là một phương pháp đi tìm sự hiểu biết qua những biểu tượng. Khi làm việc, các cấp thấp (tập nghề, thợ bạn, thầy thợ) dùng các biểu tượng của nghề nghiệp như équerre, compass, niveau, thước đo 𝒱.𝒱…Người ta cũng thấy các biểu tượng có nguồn gốc tôn giáo, đúng hơn là theo Thánh kinh: Thí dụ như hình tam giác sáng chói (delta lumineux) và hình tam vị (triangle divin) Ở giữa hình đôi lúc còn ghi bốn chữ là У.Н.𝒱.Н. tức là chữ Hébreu (Do Thái xưa) viết tắt của Yod, Hé, Vay, Hé. Hình sao năm cánh (pentagramme) (2), các con số 3,5,7, các mật chú (mots sacrés) những mật hiệu (mots de passe) một khối đá thô thiển để nhắc nhở là phải đẽo, mài, dũa mới xây được đền, hai cây cột có tên là boaz và jakin (theo thần thoại). Trong tục lệ York bên Anh, những cột này đều rỗng để chứa các tài liệu và lưu trữ văn khố. Lại có loge dùng 3 cây cột để biểu tượng cho ba thứ Trí (sagesse), Dũng (force) và Mỹ (beauté). Họ cũng dùng các vật khác như cây keo (acacia), hoa hồng, hoa huệ (lys) và cành ô-liu. Sự dùng gươm (glaive) trong các lễ tấn phong (consécration) một hội viên mới, lại là một biểu tượng khác, lấy từ lễ trao binh giáp (adoubement) cho các hiệp sĩ thời Trung cổ.
Những hội viên cấp trên thì theo những thủ tục như Rite Écossais ancien et accepté với 32 bực, rite York, rite français, rite anglo saxon, mục đích là làm nẩy nở sự phát triển trí não maçonnique bằng cách cho thêm vào những hình thức khai tâm cổ kính của nhóm Rose-Croix hay rosae crucis (chữ thập hoa hồng bên Đức thời xưa
Những biểu tượng này cần để truyền đạt các luật lệ, những tiến trình tế nhị, những sự thật siêu việt, không thể diễn tả được bằng lời, đó cũng là dùng cái biết mà đi tới cái không biết, cái thấy được mà đi tới cái không thấy được, cái hữu tận đi đến cái vô tận vậy. Nói một cách khác, họ không học tuy thế linh cảm thấy.
Trong lúc sinh hoạt, họ tôn trọng phép tắc đồng đẳng. Khi tụ họp, họ mang ra trình bày thảo luận các vấn để đã được tổ chức chi phối và phải tuân thủ (obedience) và mang ra quyết định cho sự sinh hoạt của hội. Họ cho rằng nhờ vào phương pháp cùng nhau tư duy, giữa những lớp người có nguồn gốc khác nhau, thì những buổi học hỏi sẽ rất hữu ích, khó mà có thể có được ở ngoài đời.
Tánh cách kỳ bí của ₣.Ɱ. mà người đời cho rằng để che đậy những điều bất lương, thực ra là vấn đề cần thiết để đảm bảo cho các công tác của họ được tiến hành một cách thanh tịnh và trong sáng, tránh sự xô bồ náo nhiệt của xã hội bên ngoài. Thực ra, họ không tách rời thế tục. Với sự đoàn kết trong công tác, sự đấu chung các tư duy, họ cho rằng họ sẽ làm việc hữu hiệu hơn và một khi ₣.Ɱ. đã đào luyện cho loài người khá hơn thì tất nhiên ₣.Ɱ. cũng sẽ phục vụ bách tính hữu hiệu hơn.
Hai nguyên nhân lịch sử của việc giữ kỳ bí của ₣.Ɱ là: 1) để cho họ dễ nhận nhau, 2) vì còn nhớ những vụ chiến tranh tôn giáo truy hại nhau, và việc triệt hạ tận gốc các tư tưởng tự do thường có ở các cơ chế độc tài, nên các hội viên ₣.Ɱ vẫn thấy cần phải ẩn mình để tranh luận về những đề tài nhậy cảm. Tuy vậy, ngày nay, những tập tục và những tiến trình kết nạp đã được thông dụng từ lâu làm cho không đang là một bí mật, ngoài ra sự thâm hiểu công phu về tiến trình học tập Tam điểm lại khó có thể truyền thông được, nếu chưa sinh hoạt trong hội.
Ngày nay, ₣.Ɱ. phải được xem như là một tổ chức kín đáo (discret) chứ không phải là một hội kín (secret). Người hội viên có quyền tự tiết lộ, nhưng không được phép tiết lộ các đoàn viên khác hiện tại còn sống.

4. Những vấn đề trong tương lai.
Nhưng một khi thu mình vào hội, tránh những giao động bên ngoài để giữ gìn những truyền thống trí não và đạo đức của họ thì các franc maçons cũng sẽ bị tiến hoá của xã hội bên ngoài đe doạ; những giá trị trí não mà họ đã dựng lên như trí não nhân bản (humanisme) phóng khoáng (libéralisme), cá nhân chủ nghĩa (individualisme) lại bị cái xã hội của khối đông (la masse) ngày nay tấn công (Khối Gia Tô Giáo, khối Cộng sản, khối Đức Quốc xã, khối Hồi Giáo gần đây). Các cấu trúc xã hội cũng phức tạp hơn cũng như các tri thức loài người về không gian, vũ trụ, vật lý, sinh học (gènes) cũng từng tiến hơn. Qua lịch sử, ₣.Ɱ. đã có những bức thăng trầm, và bị đầy đoạ, nhưng họ vẫn còn tin tưởng rằng họ là một lực lượng trí não có đủ khả năng để thích ứng với sự biến thể của xã hội và toàn cầu.
Hình các biểu tượng:
Trích Historia Special N48 Juillet-Aout 1997 trang 68-69)

Hình 1: Equerre là biểu tượng của sự ngay thẳng và của vật chất. Người Tam điểm xây dựng đời mình dùng equerre để hướng dẫn đạo đức cho mình.
Hình 2: Compas, biểu tượng trí não cởi mở thiết yếu khi khai tâm kết nạp. Đó cũng là biểu tượng của quảng trường tri thức.
Hình 3 Quả rọi đảm bảo sự thăng bằng của cơ cấu xây cất. Đệ nhị thư ký đeo trên người với sứ mệnh hướng dẫn tập nghề.
Hình 4 Hai bút lông bắt chéo là trang trí đeo trên người của ông thư ký
Hình 5 Vật trang trí đeo trên người của đệ nhất thư ký để biểu tượng sự bằng ngang (horizontalité) trong việc làm với các thợ bạn.
Hình 6 Chìa khoá là đồ trưng bày của thủ quỹ.
Hình 7 Equerre và Compas quyện vào nhau biểu tượng vật chất và trí não không thể tách rời nhau.
Hình 8 Chữ ₲ là chữ cái đầu của God (Thượng đế) thiết kế sư của cả vũ trụ. Còn người dưng thì là Géométrie hay là gnose (nhận thức)
Hình 9 Người nổi tiếng năm cánh đỏ rực tượng trưng người được khai tâm đã toả sáng cả bóng tối)
Hình 10 Tạp dề là trang phục của thợ xây cất, ngừa tai nạn, cũng có nghĩa là ngừa sự thiếu minh mẫn. Tạp dề này ở thế kỷ XIX gợi lại việc Hiram bị ám sát.
Hình 11 Tạp dề của thầy thợ thế kỷ XVIII có hòn đá thợ liên tưởng người phàm, hòn đá đẽo biểu tượng người được khai tâm. Ở giữa là dụng cụ xây cất và cái cột, biểu tượng thiết kế.
Hình 12 Tạp dề của thầy thợ ở thế kỷ XIX, có hình đền Salomon, hai bên có mặt trăng, mặt rời, tượng trưng cho sự đi từ bóng tối tới ánh sáng.

[1] Miễn là franchise hay là franc (franc-port: miễn thuế hải quan) Franc Maconnerie: tạm dịch là đặc miễn xây cất.
[2] Pentagramme: Hình sao năm cánh trong truyền thống th ên chúa giáo dùng để chỉ định 5 vết thương hay stigmates của Chúa còn so với đồ đệ của Pythagore thì là để chỉ ngũ đại thể đất, lửa, thủy, khí và ý (hay chose divine). Có người còn cho rằng chỉ 5 quyển sách trước tiên của Cựu Ước hay là ấn tín của Salomon.

Tham chiếu
• Franc-Maconnerie, un article de Wikipedia, ɭ’encyvlopédie libre
(http://fr.wikipédia.org./wiki/Franc-ma-Historia/Spécial No 48 Juillet-Aout 1997, Les Francs-Macons.)
• Franc-Maconnerie, Encyclopédie Universelle no 9, page 866-872
• Da Vinci Code, Dan Brown
• La vérité historique derrière le code Da vinci, Sharan Newman
• Le code Da Vinci, décrypté par Simon Cox, Pocket Book

Hội kín huyền bí nhất Thế giớiHội tam điểm[img] Hội kín bí ẩn nhất Thế giới - Hội Kín Illuminati Kimtuthapdola Uploaded with ImageShack.us [/img][img][/img][img] Hội kín bí ẩn nhất Thế giới - Hội Kín Illuminati H7897itam273i7875mh7897 Uploaded with ImageShack.us [/img]Hội tam điểm mạnh hay còn gọi là hội kín Illuminati là 1 hội có từ xa xưa , ko ai biết chắc rằng nó khởi nguồn từ đâu , theo tiếng Latin có nghĩa là những người được thần linh khai sáng. Illuminati có vẻ là hội kín bí mật nhất trong số các hội kín trên toàn cầu. . Hình như nó là 1 hội của các người thợ chuyên xây cất các thánh đường xa xưa vốn chứa nhiều điều huyền bí . Các đoàn viên đều phải giữ bí mật nghề nghiệp nên dần dần trở thành 1 hội kín .Các hội viên đều được tuyển chọn trong những phần tử trí thức và quyền quí . Mỗi hội viên khi tham gia đều phải qua 1 nghi lễ rửa tội và nhận 1 loài vật làm hộ mệnh . Mục tiêu của hội này là triệt hạ toàn bộ những tôn giáo , nhất là Thiên Chúa Giáo để xây dựng 1 tòa nhà lý tưởng cho nhân loạiKhông dừng lại thời xa xưa đó, Illuminati ngày nay còn được xem là đã xâm nhập tận trong các trung tâm quyền lực ở Mỹ. Marcus Allen của tờ Nexus Magazine cho rằng toàn thể hệ thống chính trị ở Hoa Kỳ và Anh là do… một nhóm trí thức ưu tú thuộc Illuminati kiểm tra.Ở Mỹ, Illuminati được xem là có chân rết trong Hội đồng Ngoại giao, một hội đồng hoạch định quyết sách đối ngoại của Hoa Kỳ (xem The Illuminati and the council on foreign relations, Myron Fagan), và một hội kín mang tên gọi rất “hình sự” là Skull and Bones” (Sọ và xương người). Đề quyết này cũng tương tự như việc cho rằng ở Pháp hội Tam Điểm len lỏi tận trong các chính quyền. Dấu vết rõ ràng và cụ thể nhất của Illuminati ở Mỹ chính là những dấu chỉ bí mật trên tờ giấy bạc 1 đôla Mỹ. Phía sau tờ giấy bạc này ta thấy bên trái có một kim tự tháp chưa xây xong, còn thiếu hòn đá chóp; trên có hình con mắt, con mắt thấy hết mọi sự. Phía dưới tháp có slogan “Novus ordo seclorum” (có nghĩa là “trật tự mới toàn cầu”). Bên phải có con chim phượng hoàng, mang một tấm vải vuông trước bụng; trên đó thường có vẽ những biểu tượng huyền bí. Nếu đúng là như vậy, thế lực của Illuminati quả là đáng gờm khi slogan và biểu hiệu của họ không hiểu vô tình hay cố ý mà được in trên giấy bạc 1 đôla.Trong hơn 200 năm qua, hội kín đầy huyền bí này đã chất chứa vô số truyền lưu nổi tiếng .Mục đích tối hậu của hội kín này là lật đổ thế quyền và thần quyền khắp nơi, cải biến bản chất của loài người và thống trị toàn toàn cầu, link mọi quốc gia dân tộc thành một đế chế toàn thị trường quốc tế. Cũng chính vì thế, Illuminati còn được dùng đồng nghĩa với “trật tự thế giới mới”.Thường thì Illuminati hoạt động trong bóng tối, bí mật kiểm tra các vấn đề của toàn cầu, trong hậu trường chính trị. Lực lượng của Illuminati bao gồm những trí thức có thế lực và những chính khách cấp tiến, trong đó có cả những văn tài toàn cầu như Goethe và Herder… Có nhiều ý kiến cho rằng thành viên của hội này cơ bản được thu hút từ hội Tam Điểm dù không có bằng cớ minh chứng cho liên hệ này.Illuminati tỏa ra khắp các nước châu Âu dưới dạng nhóm bán công khai. Ở Anh có hội Fabian và hội Round Table; ở Mỹ có Hội đồng Ngoại giao. Illuminati còn được xem là có chân trong Câu lạc bộ Rome mà đằng sau các tổ chức này là một thành phần cốt yếu gồm các nhà băng quốc tế; nhất là các tập đoàn tài chính Rothschild và Rockefeller.Illuminati tồn tại dưới nhiều danh xưng, nhiều hình thức bí mật, bán bí mật, công khai, với nhiều đơn vị có “bảng hiệu” khác nhau. Một vài nguồn tin cho rằng Bavarian Illuminati vẫn tồn tại cho đến ngày hôm nay, dù rất ít chứng cứ cho thấy hội kín này của Weishaupt tồn tại đến thế kỷ 19. Tuy nhiên, một vài hội nhóm đã dùng tên gọi Illuminati để gọi cho hội nhóm mình như Grand Lodge Rockefeller của David Goldman (Mỹ), Orden Illuminati của Gabriel López de Rojas (Tây Ban Nha), và The Illuminati Order của Solomon Tulbure (Mỹ).Ở Việt Nam Hội Illuminatidu nhập từ thời Toàn quyền Pháp Ρ.Pasquier (1937) và bành trướng tại miền Bắc vào thời Thống Chế Petáin . Đến thời Bảo Đại dưới chính phủ Trần Văn Hữu và Nguyễn Văn Tâm hội lại càng hoạt động mạnh và xâm nhập vào bộ máy chính quyềnBằng chứng đây[img] Hội kín bí ẩn nhất Thế giới - Hội Kín Illuminati Tamdiem2 Uploaded with ImageShack.us [/img][img] Hội kín bí ẩn nhất Thế giới - Hội Kín Illuminati Hexseal Uploaded with ImageShack.us [/img][img] Hội kín bí ẩn nhất Thế giới - Hội Kín Illuminati Satanicdollar2 Uploaded with ImageShack.us [/img]à, xếp đôi tờ 20 đô thị hình tòa tháp đôi bị cháyPhần dịch của 1 anh bạnĐầu tiên bạn hãy nhìn vào biểu tượng kim tự tháp:Dòng chữ Latin: “Annuit Coeptis ” nghĩa là “Thông báo về sự ra đời của ” và ” Novus Ordo Seclorum ” là ” Trật tự thế giới mới ” . Vì vậy nghĩa của nó là : ” Thông báo về sự ra đời của trật tự thế giới mới “.Ngày theo số La Mã trên biểu tượng là 1776 , này là năm thành lập của hội kín Illuminati và cũng chính là năm ra đời Hợp Chủng Quốc Hoa Kì . Từ Latin ‘E Pluribus Unum’ nghĩa là ” 1 phần của rất nhiều ” , đây là nền tảng cho plan thống nhất toàn toàn cầu của New World Order về : chính phủ , tôn giáo và tiền tệ . Vì vậy toàn cầu có thể được kiểm tra đơn giản.Tỷ lệ các cạnh của Kim Tự Tháp là 600, 60, 6 tương ứng với con số của quỷ SATAN 666 theo hình sau:Hệ thống chữ số mà hội Tam Điểm thiết kế nên biểu tượng là hệ lục phân (của người Babylon),nếu quy đổi sang hệ thập phân tương ứng là 1000,100,10.Nếu ta cộng lại các số trên ta được 1000+100+10+600+60+6=1776 là năm thành lâp tổ chức đồng thời là năm thành lập Hợp Chủng Quốc Hoa Kì.Sáu chữ trên các đình tam giác khi ghép lại tạo thành chữ MASON:Giờ đến biểu tượng con đại bàng :[img] Hội kín bí ẩn nhất Thế giới - Hội Kín Illuminati Eaglex Uploaded with ImageShack.us [/img]Hãy nhìn lên trên đầu con đại bàng , bạn sẽ thấy có 13 người nổi tiếng 5 cánh bên trong đám mây . Những người nổi tiếng 5 cánh được sắp xếp theo hình dạng của 1 người nổi tiếng 6 cánh . Nhưng có 1 điều : người nổi tiếng 6 cánh là biểu tượng của những kẻ thờ quỷ Satan . Đó cũng chính là hình có 6 điểm , 6 góc , 6 mặt phẳng ( 666 ) , dấu hiệu của những kẻ chống Chúa .Tiếp tục ta thấy được có:13 chiếc lá trên cành oliu13 thanh chắn và vệt sọc trên chiếc khiên13 mũi tên ở móng phải ( móng vuốt con đại bàng )13 chữ ở trên ruy-băng13 ngôi sao32 chiếc lông dài bên cánh phải tượng trưng cho 32 cấp bậc trong luật Hội Tam Điểm13 hòn đá trên Kim Tự Tháp.Ngoài ra , 13 người nổi tiếng 5 cạnh trên đồng tiền nếu nhân lên sẽ ra số 65 . Đây là 1 con số huyền bí trong chủ nghĩa thần bí Châu Âu .Năm 1841 , đại bàng đã thay thế cho phượng hoàng vào để trở thành biểu tượng của quốc gia.Tiếp theo bạn hãy nhìn vào đồng 1 USD của Hoa Kì do hội Tam Điểm thiết kế:Ta thấy chúng có nhiều điểm tương quan với nhau như:Ở bên phải bức hình chân dung George Washington trên đồng 1$ ( tiền giấy ) bạn sẽ thấy dòng chữ “Seal of the Department of the Treasury” ( nôm na nghĩ là dấu ấn của kho tàng ) . Nó gồm có : chìa khóa , cái cân của công lí và hình vuông – biểu tượng cực kì trọng yếu của HTD ( xin lưu ý là cái hình vuông theo lời của họ chính là hình ^ ngăn cách cái cân và chiếc chìa khá đó ) . Nếu nhìn vào hình ngăn cách bạn sẽ thấy có 13 lỗ trong đó , và có 39 chấm xanh bao quanh 3 hình này ( chìa khóa , cái cân và hình ngăn cách ) . Hãy nhớ này là 39 . Chia đôi sẽ được 19.5 . Số 19.5 có thể bắt gặp trong các thiết kế của Cydonia, Mars, Avebury, England and Washington 𝓓.₵.Hình trên cho bạn thấy được một con cú nhỏ ờ góc bên phài tờ 1 USDKhá nhiều lần các chính trị gia của Mỹ giơ tay về phía máy ảnh với bàn tay hình con cú.Qua đó ta thấy được sự liên quan nào đó giữa tổ chức Illuminati ,biễu tượng của HK,và đồng 1 USD.Vậy liệu thật sự có một tổ chức nào đuợc thành lập để kiễm soát hậu trường chính chị trên toàn cầu khi phần lớn những người thành lâp nên quốc gia HK là thành viên của hội Illuminati ?Việc có nhiều số 13 đơn giản là lúc thành lập nước Mỹ thì chỉ có 13 bang và đương nhiên , biểu tượng 13 trên tờ 1 USD trước tiên phải là 13:13 là oliu: 13 bang hào bình thịnh vượng13 mũi tên: 13 bang công minh và đoàn kết13 người nổi tiếng,: 13 bang như những người nổi tiếng sáng13 chữ: 13 chữ của sự doàn kết, không thể thiếu đi 1 chữ cũng như không thể thiếu đi 1 bang13 hòn đá của kim tự tháp: 13 bang của sự link chặt chẽ với nhau, tạo dựng nên 1 con mắt “soi sáng” rõ cho dân chúng của 13 bang13 gạnh trắng và đỏ: 13 bang1 điều nữa em thắc mắc, sự lây chữ Ɱ 𝓐 Ş И Σ không có theo quy luật nào cả. nếu nói là MASON, vậy ta có thể nói là : AS MON (như ngày thứ hai, trổ tài sự chuẩn bị, một niềm vui mới của ngày làm việc mới hoặc theo nhiều nghĩa khác) và nhất là nó theo 1 quy luật: quy luật chiều kim đồng hồ.Còn những chiếc chìa khóa, và cái cân, hình chiếc khiên ta có thể hiểu là :công lý, muốn có được công lý thì phải có chìa khóa, chìa khóa ở đây có thể hiểu nôm na là chìa kháo của tri thức, chìa khóa của trái tim loài người .𝒱.𝒱… còn cái cán cân thăng bằng trổ tài tính nghiêm minh của pháp luật, cái khiên có 13 người nổi tiếng trổ tài sự chở che của 13 bang, chở che cho nười dân , chở che cho tự do, độc lập……. Ngoai ra, chữ “the departer ò the treasury” , trổ tài rằng: Muốn có được “kho bấu” của loài người, thì pháp luật là thứ duy nhất dẫn loài người đến “kho bấu” ấy, “kho bấu” của nhân loại, nền văn minh nhân loại…….Còn cái vụ các ông tổng thống Mỹ giơ tay hình con cú thì….chài chài ! người dân Mỹ bị tác động bởi làn sóng âm nhạc thời những thập niên 80-90, các ca sĩ, đạc biệt là nhạc Rock hay Rock and Roll có trò giơ tay hình con cú trổ tài sự vui vẻ, kích động, và trổ tài tình cảm của mình giành cho khán giả. Thực sự mình chưa rõ giơ tay vậy có hàm ý gì, nhưng m2inh từng đọc trên một tạp chí có giải thích về ciệc giơ tay hình con cú nàyThứ nhất, hội Tam điển (triads) khác hoàn toàn với hội Khai sáng (Illuminati). Cái này không chỉ là tin đồn thất thiệt đâu mà nhiều trường ĐH lớn trên toàn cầu cũng có những phòng ban tìm hiểu về cái Illuminati này cũng như tìm hiểu về Trung cổ (Medieval), Hội Bàn tròn (Round Table) hay Hội đồng Đối ngoại (Council on Foreign Relations). Tất nhiên theo những thông tin em thu thập được thì đến nay toàn bộ vẫn chỉ dừng lại ở suy đoán chứ chưa có một thông tin xác thực nào cả (cũng tương tự như kiểu lời sấm truyền của Nostradamus vậy). Thậm chí có nhiều nhà tìm hiểu còn mang ra giả thuyết là George Washington và Bẹnamin Franklin cũng là thành viên của cái hội Khai sáng (Illuminati) để minh chứng cho các phát hiện của họ như bác Hanzo hay bác keokeo đã đề cập đến. Có thời gian theo dõi về mấy cái này cũng hay phết các bác ạội Illuminati được nhắc đến trong thiên thần và ác quỷ, nhưng lại được nói đến là một tổ chức cài vào hội Tam Điểm, chẳng biết thế nào.Tán thành với thangmu13, những lập luận mà keokeo mang ra hình như rất vô căn cứHội Tam Điểm hình như được biết tới nhiều hơn đúng không? Trong tiếng anh, hội Tam Điểm thường gọi là freemason hay mason, chứ không hay gọi là Illuminati.Chuyện hội Tam Điểm thâu tóm chính phủ Mỹ thì daisy biết lâu rồi, tuy thế chỉ nói nôm na thế thôi, chứ phải nói là những chính khách Mỹ hầu như là thành viên hội Tam điểm. Hội Tam điểm theo mình chả có gì nguy hiểm đến mức gingerbread phải xếp loại nhanh thế đâu.Illuminati (trong wikipedia có hai bài tách biệt nói về hai hội có tên như tất cả chúng ta đang bàn đây) (chứ không phải hội Tam điểm), là những người có tư duy tự do, tất nhiên là không ưa gì tòa thánh Vatican, tuy thế không phải khủng bố đâu ạ. Mình cũng từng đọc bài về hội Tam điểm ở trong wikipedia tiếng anh, cũng không thấy dòng nào nói về bất kể hành động bạo lực nào của hội tam điểm.Hội Tam ĐiểmNguyễn Văn HoàngI- Lịch sử hội Tam Điểm1. Hội Tam Điểm là gì?Hội Tam Điểm tự coi như là một dòng hệ kết nạp (Ordre Initiatique) các hội viên để huấn luyện nhau bằng những biểu tượng (symbole) và các nghi lễ (rites) một cách bí truyền (Esotérique), phi giáo điều (adogmatique), lũy tiến (Progressif) tới sự hoàn thiện của nhân loại. Phương tiện hoạt động của họ là làm việc phước thiện, thiên hướng của họ lại thay đổi tùy thuộc thời kì và xứ sở. Tổ chức Tam Điểm có rải rác trên nhiều quốc gia trên toàn cầu, quy tụ những hội viên cấp tiến với mục đích tự cải tổ đời sống trí não và đạo đức.Hội Tam Điểm thường được xem như là một tổ chức đạo đức đặc biệt hình dung bằng những biểu tượng. Họ tự cho như là một dụng cụ huấn luyện ái hữu (outil fraternel) dùng những phương pháp đặc biệt để huấn luyện các khả năng nghe, tư duy và hội thoại để có thể truyền đạt các giá trị đã thâu hoạch được cho các người xoay quang.Nói một cách đơn giản, hội Tam Điểm không phải là một đảng chính trị vì không chủ trương cướp chánh quyền, không phải là một tôn giáo vì không loại bỏ tôn giáo nào và không đi thuyết phục tín đồ, không phải là một giáo phái (secte) vì không theo một chủ thuyết nào (doctrine). Sự kết nạp vào hội Tam Điểm rất khó tính, song sự ra hội lại rất tự do và thong thả.2. Mục tiêu của hội Tam Điểm:Mục tiêu chính của hội Tam Điểm là xây dựng. Họ làm việc để xây dựng Đền Nhân Loại (temple de ɭ’humanité), nhiệm vụ của họ chỉ chấm hết khi toàn thể nhân loại được phát triển. Hiển nhiên với ngưỡng vọng một tương lai như vậy, lý tưởng Tam Lăn tay là một thần thoại (mythe), nhưng người Tam Điểm vẫn tin tưởng vào ngày có rất nhiều hội viên Tam Điểm trên toàn thị trường quốc tế để kết thành một chuỗi người đoàn kết (chaine {d}’union) có khả năng cho nhu cầu cần nhất của trí tuệ loài người.3. Nguồn gốc của Hội Tam Điểm[img] Hội kín bí ẩn nhất Thế giới - Hội Kín Illuminati Masonicsymbolsnh7919ngb Uploaded with ImageShack.us [/img]Tuy là các tổ chức Tam Điểm thật sự không phải là một nghiệp đoàn khởi đầu xuất hiện trước tiên ở Ecosse (Tô Cách Lan) vào thế kỷ thứ XVII, song họ đã cho rằng họ có những nguồn gốc huyền bí, thần thoại từ thượng cổ.Theo Thánh kinh thì Vua David cho xây đền Salomon để chứa Arche Dalliance (cái rương chứa các phiến đá có khắc 10 điều răn (commandements), dấu hiện link (signe {d}’alliance) giữa Thượng Đế và người Do Thái) trước đền có hai cột đồng đen Jakin và Boaz, một biểu tượng Tam điểm do Hiram de Tyr. Sau này, Hiram bị ba người thợ ám sát vì họ muốn có bí mậy xây cất của Hiram và người ta cho rằng Hiram và Salomon là thủy tổ của Franc-Maconnerie.Theo các bản viết tay (Manuscrit) gọi là Old charges (các trách vụ cũ) có tên là “Régius” vào thế kỷ thứ 14, thì nghề xây cất liên hệ tới khoa hình học (Géométrie) do đám con của Lamech viết trên các cột bằng đá. Sau cơn Đại hồng thuỷ (Deluge), một người cháu của Noé, tên Hermanis tìm thấy những bí mật xây cất và hình học trên các cột đá này để đem dậy cho các người thợ xây tháp Babel. Sau đó Abraham sang Ai Cập dậy hình học cho Euclide để ông này đem về dạy ở Hi Lạp. Tiếp đó, các người xây cất trở về Jérusalem để xây đền Salomon.Theo bản Constitution {d}’Anderson (viết bên Anh năm 1723) thì nghề xây cất đã khởi sự từ thời ông Adam là người thợ xây cất trước tiên đã được Thượng Đế dạy cho hình học. Nhưng qua kinh Cựu Ước (Ancien Testament) thì Vua Salomon là Franc-Macon và là Grande Maitre của Loge (chi hội) Jérusalem. Sau đó, “nghệ thuật hoàng gia” (Art Royal) này mới truyền sang Hy Lạp, Ai Cập vào đế quốc La Mã và người ta cho rằng Vua Auguste (-14 cho tới 63 sau Công Nguyên) là Grand Maitre du Loge de Rome vì ông ta đã là người đỡ đầu cho thiết kế sư Virtruve.Trong thời đế quốc La Mã, những nhóm nghề nghề tụ họp thành Collégium để lo các việc kinh tế và xã hội của hội như các collégium của các nhà buôn đứng ra điều đình với chính quyền để giữ độc quyền như nghề buôn bán ngũ cốc lại được miễn sưu thuế [1] và miễn dịch vụ. Mỗi nghề đều có Thánh tổ và hàng năm họ lo sửa lễ để mừng Thánh tổ. Họ cũng mời những người có quyền thế (đương nhiên là có giầu có) để bảo trợ bằng tài chánh và thế lực và họ đền bù sự đóng góp này bằng cách tặng cho các ân nhân danh hiệu Patron (quan thầy).Sau đó, đế quốc La Mã bị các rợ Gothique và Germanique từ Đức sang tàn phá vào các thế kỷ từ VI tới thế kỷ IX thì không còn thợ. Lần lần các nghề nghề mới khôi phục lại thành các Guilde (gốc tiếng Đức Gelt là đồng tiền)Thánh tổ của nghề xây cất là thánh Jean {d}’Evangeliste và ngày vía là ngày 27 tháng 12, Khi được khai tên kết nạp (initier) người tập sự phải tuyên thệ giữ bí mật nhà nghề. Vì luôn luôn phải di chuyển từ công trường tỉnh này sang công trường tỉnh khác, nên họ có cách nhận nhau bằng những biểu tượng (symbole) và những mật mã (code). Một người thợ sang Pháp, được Charles Martel, ông của Vua Charlemagne thâu nhận; một người khác là Thánh Alban sang Anh và được Hoàng hậu Edwin con ông Vua Anglo Saxon Athelstan bảo trợ tích cực đến nỗi chính ông ta cũng thành maçon (thợ xây cất)Tới đây, cũng nên nói qua về Thập Tự quân với Hiệp sĩ dòng Temple de Salomon và nhóm Rose Croix vì có tác động tới Hội Tam Điểm sau này. Prieurés de Sion Năm 1000, một lãnh chúa là Godefroi de Bouillon ở đất Thánh lập ra abbaye de Notre Dame du Mont Sion: khi thấy các tín đồ đi hành hương tại Jérusalem bị cướp bóc, các tu sĩ dòng này đã bí mật can hệ vào việc thành lập ra dòng Hiệp sĩ Temple (1118) de Salomon là một dòng quân sự do Hugue de Payns lãnh đạo, lấy tên là Pauvres Chevaliers du Christ (Bần Hiệp Sĩ Thiên Chúa) để bảo vệ khách hành hương. Họ đóng quân ở vị trí đền Salomon do đó lấy tên là Chevaliers du Temple. Được Giáo Hoàng Innocent II tin cậy, dòng này trở nên quyền thế và sung túc, làm cho Vua Philippe le Bel đố kỵ và sai bảo tiêu diệt nhóm này vào ngày thứ sáu 13/10/1307 (do đó có tiếng là ngày xui xẻo). Thủ lãnh Jacques de Molay bị thiêu (1314), dư đảng trốn sang Ecosse, tài sản bị tịch thu cho nhà chung Hospitaliers. Nhóm Prieuré de Sion rút vào bí mật và lấy tên là Rose Croix (Rosae crucis) họ thành lập một hội thần bí nhưng không dính tới tôn giáo nào nữa. Họ có triết lý siêu hình và hữu hình (metaphysique et physique) mục đích để gợi những năng khiếu của loài người. Hội nhắc các đoàn viên tầm trọng yếu của các định luật vũ trụ và thiên nhiên và nên vận dụng các luật đó. Chữ Rose crucien từ gốc Latin có nghĩa là chữ thập và hoa hồng do ở biểu tượng chữ thập và hoa hồng của họ. Thủ lãnh của họ gọi là nautonier, như Leonardo da Vinci, Isaac Newton, Victor Hugo, Jean Cocteau và gần đây Pierre Blanchard. Do đó, Franc Maconnerie là hậu duệ của Prieurés de Sion. Vài dòng về chữ Franc-Maconnerie. Năm 1015 sau Công nguyên, tại Strasbourg, một chi hội (loge hay atelier) trước tiên của các người thờ đẽo đá nhà thờ Strasbourg được thành lập.Năm 1119 Hội đồng các Giám mục thành Rouen kết án các nghiệp đoàn (confrérie)Năm 1245, khởi đầu xuất hiện tại Strasbourg các tục lệ tiếp nhận hội viênvà lời khuyên các hội viên giữ tình huynh đệ và giữ bí mật. Cũng vào năm này có đại quy tụ họp 5 chi hội lớn, ấn định các điều lệ đạo đức, tôn giáo và nghề nghiệp.Năm 1276 Vua Rodolphe 1er de Halsbourg ban miễn trừ (franchise) cho các thợ đẽo đá nhà thờ Strasbourg.Năm 1315 tại Strasboug có đại hội các thợ đẽo đá và thợ xây dựng và các người xây dựng lại lấy năm này là năm khởi sự của Hội Tam Điểm mà ta gọi là franc-maconnerie opérative tạm gọi là xây cất đặc miễn đương hành. Vào năm 1356 tại Luân Đôn có sự tranh giành giữa những thợ đẽo đá (tailleurs de pierre) và người xây dựng (poseurs de pierre) do đó có luật lệ năm 1411 ấn định việc kiểm tra nghề nghiệp: người học việc học 7 năm trời, phải ra trước một uỷ ban để tuyên thệ trung thành với nghề, với thị xã, với vua và lúc đó họ mới trở thành người tự do hành nghề xây cất (free mason), có thể chữ này cũng rút ngắn từ chữ freestone mason tức là maçon de pierre franche là thợ xây cất đá mềm, dễ đẽo và dễ điêu khắc. Chữ “free mason” (franc macon) đã chính thức được dùng từ năm 1376 và năm 1390 người ta đã viết ra cuốn Thủ bút Régius hay Manucrist Royal nói về tổ chức nghề xây cất. Năm 1616 nhóm Rose Croix ra tuyên ngôn về đường lối và mục đích như đã nói ở trên (đoạn cuối về Prieuré de Sion).4. Tại Ecosse.Năm 1583 Jacques VI con của Marie Stuart, nữ hoàng Ecosse lên ngôi. Ông trao cho William Shaw quản lý tiền nong và xây các hoàng cung. Tuy lúc đó Ecosse đã ngả sang Tin Lành, nhưng William Shaw vẫn còn giữ Gia Tô Giáo và năm 1598 ông đề ra một số luật lệ quản lý, xếp đặt ngôi thứ trong nghề xây cất trong đó có nói tới những phương pháp để nhận nhau. Năm sau, Shaw lại còn định thêm là các bậc thầy trong nghề xây cất phải có nhiệm vụ huấn luyện người tập sự và dạy họ phương pháp để nhớ được các kỹ thuật đó. Làm theo người La Mã, họ cũng lựa một quan thày là William Sinclair là lãnh chúa Roselin, vì Sinclair là hậu duệ của vị hầu tước đã cho xây Chapel Roselyn. Tới năm 1801 William Sinclair cũng lấy tên là William, cho ra một cái charte cho franc maconnerie và các lãnh chúa được lãnh danh hiệu maçon từ đó. Hiện tại charte này còn ở Chapel Roselyn.5. Maconnerie opérative và maconnerie spéculativeCho tới đầu thế kỷ 17 dòng xây cất vẫn là những nghiệp đoàn gọi là Guilde (tiếng Đức mà ra Gelt: đồng tiền) trong đó chỉ có hai hạng thành viên, 1) tập nghề (apprenti) và 2) thợ bạn (compagnon) còn thầy nghề chưa có mà chỉ có người điều khiển công trường; khi vào nghề thì phải qua lễ kết nạp là phải biết giáo lý (catéchisme), sự truyền đạt các bí mật nghề nghiệp, các ngữ vựng (vocabulaire) về các biểu tượng dùng trong các nghi lễ và tập tục. Cho tới lúc này nghề xây cất vẫn hoàn toàn chỉ là opérative (xây cất đặc miễn đương hành) mà thôi. Dần dần từ bên Anh và Tô Cách Lan mới biến dạng thành spéculative (xây cất đặc miễn tự biện) (spéculare = réfléchir) theo tiến trình sau đây: Người xây cất cần sự trợ giúp của các giới chức tôn giáo, các quý tộc, các chưởng khế là các người chủ trì các công tác xây cất lớn, nên đã mở cửa tiếp đón nhận các người này, trái lại sau trận hoả hoạn lớn tại Luân Đôn, cả một đội binh xây dựng nhà thờ Gothique từ Pháp sang Anh, du nhập vào giới quý tộc và trí thức Anh những tư tưởng của Virtruve. Virtruve là thiết kế sư thế kỷ Ι trước công nguyên viết cuốn De Architectura. Theo ông thì người thiết kế sư lý tưởng phải là người vạn năng (universel), không những phải biết hình học, biết dùng các vật liệu xây cất mà còn phải biết thiên văn, khí tượng, âm nhạc, y học, quang học, triết học, sử học và pháp chế (jurisprudence). Vào thời đó những người ở giai cấp cao và trí thức có tư tưởng cấp tiến hay thần bí (mystique) tìm hiểu vũ trụ và toàn cầu cùng cắt nghĩa chỗ đứng của loài người qua một thứ từ ngữ và biểu tượng (symbole). Trong thời kỳ từ 1550-1710 lại có nhiều người tìm hiểu hoá học và phép luyện giả kim (alchimie) ước mong như Sir Issaac Newton có thể đổi đá thành vàng hay chì thành vàng. Ngay trong những sách báo của Rosae Crucis (chữ thập hoa hồng) từ Đức và Societé Royale {d}’Angleterre (sẽ nói sau) cũng có những hội viên bí mật bàn nhau về chuyện luyện giả kim. Họ vừa có tiền vừa có tri thức vừa có thế lực nên được khai tâm kết nạp vào Franc Maconnerie, dùng các biểu tượng, dùng các tập tục (rituel) về phép luyện giả kim dùng thuyết tân Platon (néoplatonisme) để lập ra những loge trước tiên cho họ mà ta gọi là franc maconnerie spéculative (xây cất đặc miễn tự biện) hay franc maconnerie philosophique (xây cất đặc miễn triết học).6. Franc maconnerie truyền bá sang Âu châuTừ năm 1640-1650 bên Anh có nội chiến, giết Vua Charles 1er nhà Stuart theo đạo Gia Tô và con là Charles II phải đi trốn. Dư đảng của ông là nhóm jacobite ở lại bên Anh phải rút vào bí mật. Họ vận động để khôi phục lại nhà Stuart trong đó có nhóm College Invisible là franc maçonnerie spéculative. Khi Charles II được khôi phục thì College Invisible đổi thành Royal Society (Societé Royale) và Franc Maconnerie lại thịnh hành từ năm 1660 tới 1668, gồm nhiều tu sĩ, quý tộc, luật gia, vàthông thái. Nhưng từ năm 1669 thì Jacques II Stuart lại bị cháu và cũng là rể là Guillaume {d}’Orange lật đổ và Jacques II phải chạy sang St Germain-en-Laye ở Pháp và tới năm 1721 Jacques II lại phải dời đi Bar le Duc rồi đi Avignon, Cerlino và tới Rome.Năm 1714, triều đình Anh ở trong tay nhà Vua Hanovre (đối nghịch với nhà Stuart) thì nhóm Jacobite định một lần nữa khôi phục lại nhà Stuart với sự trợ giúp của Louis XIV, nhưng cuộc đổ bộ thất bại (năm 1715), nhất là khi chính phủ nhiếp chính (Gouvernement du Régent, tiếp theo Louis XIV, lại thân Hanovre.Ngày 24-06-1917 tại Londres có 4 chi hội The Goose and Gridiron (con ngỗng và vỉ nướng chả), The Crown (vương miện), The apple tree (cây táo), The Rummer and Grappe (cái tách và chùm nho) phối hợp lại thành Grande loge {d}’Angleterre sau này là nhóm Modern dưới quyền một grand maitre để kiểm tra mọi loge kể cả các loge jacobite.𝓐 – Constitution Anderson: Ancient và ModernNăm 1731, Duc de Montaigne được bầu làm hội trưởng và cho ra một bản constitution mới là constitution {d}’Anderson do tu sĩ James Anderson soạn ra nói về lịch sử franc maconnerie bên Anh, từ thời Adam tới thời Jacques Ι, Charles Ι và Charles II được xem như là franc maçon. Cuốn này (thân Hanovre) cũng khen Guillaume III, Hoàng hậu Anne và George Ι. Từ đó, những grand maitre được bầu ra đều thân Hanovre cả. Như đã nói ở trên, những loge trước tiên đều ở Ecosse và theo statut Shaw rất độc lập. Họ thi hành một trong hai tục lệ:1. Nghi lễ nhập hội của các nghiệp đoàn xưa gọi là “Rite de anciens devoirs2. Hoặc là một tục lệ kết nạp (rituel d’initiation) đơn giản hơn trong đó sẽ truyền những “bí mật” hay còn gọi là “Rite du mot de maçon”.Theo constitution Anderson tháng Giêng 1723 người ta dung hoà hai đường lối maconnerie anglicane (dùng Rite des anciens devoirs) với maçonnerie {d}’origine calviniste (dùng “Rite du mot de maçon”) bằng một tư tưởng tôn giáo rộng rãi hơn, gọi là tư tưởng về “religion naturelle” tuy rằng cũng quy chiếu một tí về “Sainte Trinité” (Chúa 3 ngôi). Vào thế kỷ thứ mười bẩy, tại Anh có chừng 30 loges (chi hội) quy tụ những người thành thị, dân dã, thợ khéo và tiểu thương và từ năm 1676 với uy tín và những tập tục mới thu hút thêm các quý tộc và lớp trưởng giả. Mục đích của họ là làm phước thiện và tương trợ vì hồi xưa chưa có an ninh xã hội để lo bệnh hoạn, thất nghiệp và tổn phí ma chay.Từ Grande Loge de Londres sau này sẽ truyền bá sang Âu, Mỹ, Úc, Phi và Á châu. Một vài năm sau, grande loge {d}’York và các loge khác, thành lập một loge lớn khác lấy tên là Grand loge of Ancient Mason chống lại grande loge de Londres, cho rằng loge này đã mất đi tính cách Thiên chúa trong các tục lệ. Tới thời chiến tranh với Napoleon, thì hai loge lớn này đoàn kết lại thành một loge duy nhất gọi là United Grand Loge of England (1813) có thiên hướng ancient, buộc các hội viên tin vào Thượng đế. Còn ở Pháp thì Napoléon lại buộc các franc maçon phải quy tụ vào trong Loge du Grand Orient một thiên hướng modern, không buộc hội viên phải tin vào Thượng đế.Ɓ. Sự tranh chấp Jacobite / Hanovrien tại Pháp: Grande Loge de FranceTại Anh, năm 1722 nhóm Jacobite bầu kên một Grand Maitre chống Hanovrien là Duc deWharton để làm một mưu mô gọi là mưu mô Atterbury, nhưng cũng thất bại vì Duc {d}’Orléan, nhiếp chính ở Pháp, thân Hanovrien, lại báo cho Anh biết trước. Tuy vậy những hội viên Jacobite vẫn không bị khai trừ khỏi hội và để giữ cho chi hội hoàn toàn là Jacobite, họ rút vào bí mật và thêm vào 3 cấp cũ trong tổ chức của họ, 30 cấp trên nữa. Từ đó Grande Loge {d}’Angleterre theo “Rite anglais” hay “hanovrien» chỉ có 3 cấp và nhóm Jacobite tự nhận là theo “Rite écossais ancien et accepté” (REAA) lại có 33 cấp. Sau lần mưu mô thất bại, nhóm Jacobite dời trụ sở chính sang Pháp và từ năm 1726 chi hội trước tiên đã được lập tại Paris. Từ năm 1728-1738 có nhiều chi hội Tam Điểm được thành lập tại Pháp và chia làm hai nhóm Jacobite và Hanovrien. Constitution Anderson được dịch ra tiếng Pháp và để thế vào chữ tôn giáo tự nhiên (religion naturelle) người dịch dùng chữ Thiên Chúa giáo vì người Jacobite hoàn toàn theo Gia Tô giáo. Người Franc Macon Jacobite nổi tiếng là người écossais Sir Andrew Ramsey. Năm 1723, ông được vời sang triều đình lưu vong Jacques III ở Rome. Ở đây, ông gặp David Nairne sau này thành bố vợ. Trở về Anh, ông xâm nhập được vào Grande Loge {d}’Angleterre trong một loge Hanovrien 1727. Và lúc đó thì ông phải nhìn nhận sự thất bại của nhóm Jacobite. Năm 1733, ông cùng Nairne nắm Grande Loge de France cho tới năm 1738 thì nhóm pro-hanovrien chiếm ưu thế trong Grande Loge de France tại Paris, nên Ramsey và Nairne phải về Saint Germain en Laye dể lập riêng một loge hoàn toàn Jacobite. Tháng Giêng năm 1738 nhóm Hanovrien ở Pháp ra một ấn bản Constitution mới chấp thuận Tin Lành và các người theo đạo khác. Nhóm Jacobite tức giận thuyết phục Giáo Hoàng Clément XII hạ sắc lệnh (bulle = in amimenti) lên án những tổ chức quần chúng trong đó mọi tín ngưỡng đều được coi bằng nhau. Phải chờ tới 1755 thì nhóm Jacobitemới chết hẳn. Và chính phủ Pháp đã không còn thân Hanovre nữa, Grande Loge de France trở nên hoà hoãn cũng như xác nhận là theo Gia Tô Giáo và cũng thừa nhận những cấp cao của Rite Écossais ancien et accepté (REAA).₵. Grand Orient de FranceTại Pháp từ năm 1738 các Franc Maçon họp thành Grande Loge de France mới có một Grand Maitre trước tiên người Pháp là Duc {d}’Antin. Tới 1771 thì tại Paris đã có 41 loges và dưới tỉnh có 96 loges, ở thuộc địa Pháp có 5 loges và trong quân đội có 31 loges. Nhưng rồi sau cũng có sự chia rẻ, và sau buổi hội ngày 5 Mars 1773, một nhóm đã ly khai Grande Loge de France để lập ra Grand Orient de France, ngày một bành trướng lớn với 400 loges và hơn 30.000 hội viên. Những nhân vật tên tuổi như Condorcet, Laplace, Montesquieu, Helvetus, Marmontel và Le Breton, người viết Encyclopédie, đều là Franc Maçon cả. Tuy họ không trực tiếp làm cuộc cách mạng 1793 tại Pháp, song Franc Maconnerie đã là lò nung nấu những tư tưởng tiến bộ, những Lafayette, Dalton, Mirabeau, Dumoulin thường họp nhau để có một ý tưởng xã hội chung. Vào thời kỳ đó, ɭ’élite rationnaliste (lớp trí thức thuần lý) rất tự hào là Franc Macon. Năm 1890 ₣.Ɱ đã củng cố cho nền cộng hoà Pháp. Năm 1879, họ cắt bỏ trong constitution du Grand Orient 1870 đoạn buộc hội viên phải tin vào Thượng Đế. Điều một của nội quy mới tuyên bố là, nhằm mục đích tìm kiếm sự thực, tìm hiểu nền đạo đức vạn năng (Universelle), khoa học, văn nghệ. cùng là làm việc phước thiện. Hội không bỏ ai vì tín ngưỡng và hội có châm ngôn là “Tự do, Bình đẳng và Bác ái” (Liberté, Égalité, Fraternité)Sự tu chính này không có ý xua đuổi người có trí não tôn giáo ra khỏi hội, nhưng lại gây đoạn tuyệt với Grande Loge Unie {d}’Angleterre và các chi hội Anglosaxon khác.Như vậy là các hôi ₣.Ɱ có chung những biểu tượng về những tục lệ, song lại có hai thiên hướng khác nhau: Một thiên hướng Anglosaxon tự cho mình là thứ thiệt tin vào Thượng Đế là “kiến trúc sư cả” đã vẽ ra các sinh vật, vũ trụ. Một thiên hướng thứ hai khoan dung tôn giáo nhưng theo hiến chương Anderson trước tiên. Họ cho rằng ₣.Ɱ phải làm việc để cải tổ loài người và sửa soạn để cải tiến xã hộiD. Franc Maconnerie trên thế giớiKể về sĩ số, Grande Loge {d}’Angleterre link được 700 loges ở Canada, 400 loges ở Nouvelle-Zélande, 200 loges ở Ấn Độ, tổng cộng khoảng 1 triệu hội viên.Bên Mỹ có 4 triệu hội viên, bắt buộc phải có tôn giáo và vẫn phân biệt chủng tộc. Người da đen có loge riêng.Bên Đức có 400 loges và 30.000 hội viên có thiên hướng xã hội và triết học.Thụy Sĩ có loge Alpina, theo xu thế AnhTại Pháp có Grand Orient de France từ năm 1773 với 400 loges, không theo Anh và còn tồn tại từ trước grande loge de France (1738) với 200 loges họ vẫn duy trì sự vinh danh thiết kế sư cả của Vũ trụ và được grande loge {d}’Angleterre nhìn nhận là hợp thức (régulier), tuy vậy họ vẫn giữ liên hệ với loge Grand Orient de France (1738)II Tổ chức và sinh hoạt[img] Hội kín bí ẩn nhất Thế giới - Hội Kín Illuminati Masonicemblemchartccth7 Uploaded with ImageShack.us [/img]𝓐- Tổ ChứcĐơn vi của Tam Điểm là một loge (chi hội), có nhiều chi hội trong một địa phương (region). Các chi hội ở nhiều địa phương họp lại thành đại hội (convent). Nơi tụ họp của một chi hội gọi là đền (temple), các cuộc họp gọi là tenues theo những thủ tục (rite) hay còn gọi là tuân thủ (obédience).1. Việc nhập hội và thể thức tuyển lựaHàng năm có hàng trăm người phàm (profanes) nộp đơn vào hội tam điểm (₣.Ɱ) có 3 loại ứng viên: 1: Người được lựa (cooptés) hay được bảo lãnh (parrainés) thường là thân nhân của các hội viên đã có những đức tính tam điểm (₣.Ɱ): Nhân bản, tương nhượng (tolérance mutuelle); 2: Ứng viên độc lập tiếp xúc thẳng với chi hội; 3: Loại ứng viên không mấy tin tưởng gọi là alimentaire (tạm dịch là “ăn có”) vào hội để có mánh mung lợi lộc. Nếu hội đã biết trước các ứng viên thuộc loại người này, thì sẽ tìm cách khước từ. Một trong những biện pháp là phải nộp trước bản tư pháp lý lịch xem có sạch sẻ, hai là phải qua một cuộc điều tra. Ba điều tra viên tách biệt, không quen biết nhau tới thăm ứng viên đề đào sâu tư cách của đương sự. Ngoài những thắc mắc về lý lịch, tri thức, gia cang, họ cũng cử một người lại tận nhà để coi môi trường sinh sống của ứng viên, điều này sẽ bộc lộ tư cách của đương sự. Họ cũng muốn xem bà xã có chống việc tham gia hội, nếu quả thật là vậy, thì họ sẽ lời khuyên đương sự hãy rút đơn.Ngoài nguyên nhân cá nhân mà ứng viên đã nại ra, ứng viên cũng sẽ được hỏi thêm xem họ có thích dùng những biểu tượng, và các tính cách bí truyền, cùng là có kiên trì với các công tác nghiệp đoàn và công tác chính trị không? tức là muốn vươn mình lên cao và có xu thế triết lý. Sau khoảng thời gian hoàn tất nhiệm vụ, các điều tra viên làm bá cáo với chi hội trưởng. Thường là ngay buổi tối hôm đó, phàm nhân được triệu tới Hội. Anh ta được bịt mắt bằng một khăn lụa đen, rồi mang vào đền, vì hai nguyên nhân: Thứ nhất, ứng viên không được biết người xoay quang, vì trong các chiến dịch chống Tam Điểm nhiều anh em (huynh đệ) đã bị nhận diện rồi mang vào trại tập trung; thứ hai, là để ứng viên tập trung vào các thắc mắc được đề ra, anh ta sẽ phải trả lời mọi thắc mắc của các hội viên, về một vài cụ thể trong vụ điều tra, về sự nhận định thời cuộc, về quyển sách sau cùng mà anh đã đọc…Sau buổi vấn đáp đương sự được dẫn ra và chờ ở ngoài để hội đồng thảo luận và bỏ phiếu bằng các trái cầu mầu đen, mầu trắng (do đó có chữ blackbouler), nếu bị khước từ thì sáu tháng sau, đương sự có thề nộp đơn lại. Qua 3 lần bị khước từ thì đương sự không còn trông mong nhập hội.2. Các hội viêna) Tập nghề: Đã là hội viên thì phải mang tạp-dề (tablier) quấn ngang bụng và mang găng tay (gant) trắng. Điều luật trước tiên là phải giữ yên lặng. Nếu có ý kiến gì thì phải viết ra giấy mang cho thầy nghề đọc. Là tập nghế, thợ bạn hay thầy nghề đều có dấu hiệu riêng. Sau thời gian tập nghề một năm, thì sẽ được lên cấp thợ bạn. Muốn như vậy, đương sự phải trình bày một công trình đã hoàn toại, và tỏ ra đủ tri thức trong cấp bậc của mình.ɓ) Thợ bạn: Khác người tập nghề, thợ bạn có thể nói lên những ý kiến của mình nhưng chưa được hưởng hết quyền của một ₣.Ɱ. Chỉ sau thời điểm đã hoàn toại những công tác và có những tri thức của cấp bậc của mình, thì thợ bạn mới được tăng cấp lên bậc thầy và được hưởng toàn quyền của một ₣.Ɱ.ͼ) Thầy nghề: Làm thầy không phải là cứu cánh (mục tiêu tối hậu), nhưng là phải nhận thêm trách nhiệm: giúp tập nghề và thợ bạn tiến lên trong nghề và phải siêng năng để làm gương. Muốn chi hội hoạt động được thì phải có tối thiểu là từ 5 cho tới 7 thầy nghề và 2 thợ bạn. Là thầy nghề có thể xin làm chức sắc (officier) có thể đại diện cho chi hội đi dự đại hội địa phương hay đứng ra lập các chi hội (loge) khác. Muốn hợp pháp, các hội viên sang lập phải được giấy chứng thực của cấp trên, tên của chi hội thường là tên của một nhân vật ₣.Ɱ có tiếng (Lafayette, Mozart, Voltaire 𝒱.𝒱..), tên một vĩ nhân (Copernic, Gallilé, Conficius) hay một đức tin (Philantropie, Droit et Rectitude, Raison et Laicité 𝒱.𝒱…)3. Các chức sắc (Officiers) tay cầm vồ (maillet) hay đeo kiếm (glaive)Một loge được một đoàn các chức sắc thúc đẩy, các chức sắc này được lựa chọn từ các thầy nghề và cứ một năm bầu lại một lần:1) Ông Hội trưởng hay còn gọi là Vénérable (Tôn huynh) điều khiển công tác, có quyền cho nói hay không, coi việc giao dịch thư từ và cho “ánh sáng” (lumìère) tức là cho khai tâm kết nạp và cho tăng cấp. Hội trưởng không giữ chỗ quá 3 năm.2) Đệ nhất giám thị: Huấn luyện viên các thợ bạn3) Đệ nhị giám thị: Huấn luyện viên các tập nghề4) Diễn thuyết viên (orateur) là người duy trì constitution (hiến chương) của hội lo việc vận dụng nghiêm túc các luật lệ và các obédience (tuân thủ) tức là các tục lệ. Sau lúc thảo luận, ông phải cho biết tổng kết là thế nào rồi mới có cuộc bỏ phiếu.5) Ông thư ký: Lo việc hành chánh, làm biên bản cuộc họp vào “sổ kiến trúc” (livre {d}’architecture) của chi hội.Ông Thủ 6) quỹ: Thâu tiền niên liễm và quản lý tiền nong của hội7) Ông Hospitalier (ông Hiếu khách) lo chuyện quyên tiền giúp các hội viên gặp khó khăn, hoặc cho vay (với sự tán thành của hội trưởng), lo chuyện thăm viếng các hội viên gặp đau ốm.Ông Chuyên Viên (expert) xưa hay còn gọi là Hắc huynh (frère Terrible) kiểm tra phẩm cách tam điểm các khách tới thăm chi hội và xem xét các công việc có hợp pháp không, ông tổ chức và định các lễ khai tâm kết nạp thi hành các thủ tục cho nghiêm túc. Sự nhìn nhận phẩm cách tam điểm có được không là tùy ở ông này.9) Ông Nghi lễ trưởng (maitre de cérémonie) phụ tá cho ông Chuyên Viên làm các tạp dịch (xếp đặt các lễ vật) lúc nào cũng đi vào trước, tiên phong trong mọi buổi họp10) Ông Bao quản (le couvreur) cho các anh chị em được vào đền, thường là một cựu chức sắc. Ông lãnh những việc trọng yếu nhất cũng như việc ti tiện nhất, như là người giữ cửa, chỉ mở cửa sau thời điểm đã kiểm tra phẩm cách của khách vào11) Ông Trưởng ban Yến tiệc, tổ chức các bữa ăn (agape officielle) nhân ngày khai tâm kết nạp, tiệc hằng năm vào đông chí hay hạ chí (solstice)Ɓ Sinh hoạt1. Cuộc họp (Tenues)Phần lớn trong các cuộc họp, chỉ có những người kết nạp mới được vào, song có một vài buổi, người phàm có thể tới được gọi là “tenue blanche” và chỉ có một người. Nếu có một diễn giả (conférencier) từ ngoài vào trò chuyện thì được gọi là tenue blanche fermée. Nếu có người phàm tới nghe buổi trò chuyện thì gọi là tenue blanche ouverte. Nếu là tenue blanche fermée thì diễn giả người phàm chưa vào được ngay, mà phải chờ hội viên làm nghi lễ và chấp thuận biên bản kỳ họp trước đã. Một diễn giả đã thuật lại thế này: “Tôi được hai chức sắc cao cấp đưa vào đền có trang hoàng nhiều cờ suý (bannière) và có đèn cầy thắp lên biểu tượng cho ánh sáng. Nhiều hội viên cầm các giây gù (cordon), những trang trí này giống như những giải lụa mầu, để gợi lại những ngành nghề thời Trung cổ. Có vài người đeo những dấu hiệu có nhiều màu sắc khác nhau tuỳ theo tổ chức và đẳng cấp, Ở bốn góc tấm thảm (đặt giữa phòng có thêu các biểu tượng tam điểm) là ba cái cột (colonnette) biểu hiệu cho force (dũng), sagesse (trí) và beauté (mỹ) là ba nền móng của đền Salomon. Cây cột thứ tư không có ở đây, là biểu tượng cho công việc của con người cần được tiếp tục xây cất. Ông Hội trưởng (Tôn huynh = Venérable) ngồi ở cuối đền, chủ toạ buổi họp. Tôi là diễn giả ngồi bên phải, bên trái là ông thư ký, loáy hoáy ghi chép hoài. Buổi họp hoàn toàn lặng lẽ. Khi mọi người được phép ngồi, ông chủ tịch mới nói vài lời chào mừng; sau đó tôi mới diễn thuyết. Người ta đã cho tôi biết trước là cử toạ sẽ không tỏ thái độ gì: hoan nghênh hay đả đảo. Tôi đã thuyết trình trong sự im lặng hoàn toàn, một điều hiếm có! Sau đó là lúc đặt câu hỏi và trả lời. Người nói phải xin phép ông chủ tịch, qua ông giám thị, như thế quả là mất thời giờ, song cũng tốt để cho người đặt câu hỏi sao cho chín chắn và rành rọt. Mọi người bày tỏ ý kiến một cách lịch lảm, lễ độ và tôn trọng ý kiến người khác, không ai được ngắt lời ai, và không được tỏ ý tán thành hay không tán thành khi không được phép nói. Khi ông chủ tịch cho bế mạc, tôi được ông chủ tịch cám ơn và được đưa ra ngoài. Phải nhìn nhận là tôi đã bị nhiều ấn tượng với không khí lịch lãm và khả ái của họ”2. Phòng suy ngẫm (Cabinet de réflexion):Một tiểu tiết kỳ thú của đền ₣.Ɱ. là phòng suy ngẫm. Này là một phòng kín, tối om, có thắp một ngọn nến (đèn cầy) để mang người phàm vào hai lần, một lần trước tiên trước khi bịt mắt, lần thứ hai vào ngày khai tâm, kết nạp. Phòng sơn đen, có các rèm mầu xậm, có vẻ hắc ám ghê sợ, trong phòng có một cái bàn và cái ghế, trên tường có các slogan kỳ lạ. “Nếu chỉ vì tò mò mà vào thì hãy đi ra” “Nếu anh chỉ muốn phân cách người ta thì hãy đi ra”. Nhiều biểu tượng được đặt trên bàn: Một sọ người, biểu tượng cho sự chết, cũng như là liên tưởng cho tư tưởng (la pensée), và sự kì ảo (la vanité) (Ta đã là thứ mà anh đang là – Anh sẽ là cái mà ta đang là). Người ta cũng thấy những bát nhỏ đựng muối, lưu huỳnh (souffre) và thuỷ ngân (mercure). Thuỷ ngân gợi tính chất kim loại của mọi vật, lưu huỳnh gợi tính chất dễ cháy. Muối biểu tượng cho sự khôn ngoan và là gạch nối giữa thuỷ ngân và lưu huỳnh. Một tấm gương để phản chiếu lại châm ngôn của Socrate: “Tự anh hãy biết lấy anh” (connnais-toi toi même) hay là câu châm ngôn của ₣.Ɱ. là: “Hãy tự nhìn anh như là chính anh tự tại” (Regardez vous, tel que vous êtes en vous-même). Thứ này để biểu tượng sự tự biết mình để có tiến bộ, đi vào được tâm thức (conscience) của chính mình, và cũng tri thức được (connaisance) cái vô hình (invisible) và cái toàn cầu vô tại (le monde de ɭ’irréalité). Một tấm gương dùng sai, chỉ phục vụ cho cái hư ảo, cho tính kiêu căng, cho sự tự mê (narcicisme), cho sự làm dáng (coquetterie) là những tính xấu đã kìm hãm sự tiến bộ của tư cách (personalité). Cũng trong phòng suy ngẫm, người ta còn thấy có nước và bánh mì, là những thực phẩm cơ bản cho đời sống. Sự nhận định bản-thân, và sự vấn tâm, đều rất thiết yếu để tiến bộ. Vẻ khắc khổ của phòng ốc mang người phàm tới sự suy ngẫm về biểu tượng các vật cùng là sự thật tâm của lời cam kết.3. Những biểu tượng và những tục lệ:Sựgiáo huấn của ₣.Ɱ. không phải là một thuyết giáo mà là một phương pháp đi tìm sự hiểu biết qua những biểu tượng. Khi làm việc, các cấp thấp (tập nghề, thợ bạn, thầy thợ) dùng các biểu tượng của nghề nghiệp như équerre, compass, niveau, thước đo 𝒱.𝒱…Người ta cũng thấy các biểu tượng có nguồn gốc tôn giáo, đúng hơn là theo Thánh kinh: Thí dụ như hình tam giác sáng chói (delta lumineux) và hình tam vị (triangle divin) Ở giữa hình đôi lúc còn ghi bốn chữ là У.Н.𝒱.Н. tức là chữ Hébreu (Do Thái xưa) viết tắt của Yod, Hé, Vay, Hé. Hình sao năm cánh (pentagramme) (2), các con số 3,5,7, các mật chú (mots sacrés) những mật hiệu (mots de passe) một khối đá thô thiển để nhắc nhở là phải đẽo, mài, dũa mới xây được đền, hai cây cột có tên là boaz và jakin (theo thần thoại). Trong tục lệ York bên Anh, những cột này đều rỗng để chứa các tài liệu và lưu trữ văn khố. Lại có loge dùng 3 cây cột để biểu tượng cho ba thứ Trí (sagesse), Dũng (force) và Mỹ (beauté). Họ cũng dùng các vật khác như cây keo (acacia), hoa hồng, hoa huệ (lys) và cành ô-liu. Sự dùng gươm (glaive) trong các lễ tấn phong (consécration) một hội viên mới, lại là một biểu tượng khác, lấy từ lễ trao binh giáp (adoubement) cho các hiệp sĩ thời Trung cổ.Những hội viên cấp trên thì theo những thủ tục như Rite Écossais ancien et accepté với 32 bực, rite York, rite français, rite anglo saxon, mục đích là làm nẩy nở sự phát triển trí não maçonnique bằng cách cho thêm vào những hình thức khai tâm cổ kính của nhóm Rose-Croix hay rosae crucis (chữ thập hoa hồng bên Đức thời xưaNhững biểu tượng này cần để truyền đạt các luật lệ, những tiến trình tế nhị, những sự thật siêu việt, không thể diễn tả được bằng lời, đó cũng là dùng cái biết mà đi tới cái không biết, cái thấy được mà đi tới cái không thấy được, cái hữu tận đi đến cái vô tận vậy. Nói một cách khác, họ không học tuy thế linh cảm thấy.Trong lúc sinh hoạt, họ tôn trọng phép tắc đồng đẳng. Khi tụ họp, họ mang ra trình bày thảo luận các vấn để đã được tổ chức chi phối và phải tuân thủ (obedience) và mang ra quyết định cho sự sinh hoạt của hội. Họ cho rằng nhờ vào phương pháp cùng nhau tư duy, giữa những lớp người có nguồn gốc khác nhau, thì những buổi học hỏi sẽ rất hữu ích, khó mà có thể có được ở ngoài đời.Tánh cách kỳ bí của ₣.Ɱ. mà người đời cho rằng để che đậy những điều bất lương, thực ra là vấn đề cần thiết để đảm bảo cho các công tác của họ được tiến hành một cách thanh tịnh và trong sáng, tránh sự xô bồ náo nhiệt của xã hội bên ngoài. Thực ra, họ không tách rời thế tục. Với sự đoàn kết trong công tác, sự đấu chung các tư duy, họ cho rằng họ sẽ làm việc hữu hiệu hơn và một khi ₣.Ɱ. đã đào luyện cho loài người khá hơn thì tất nhiên ₣.Ɱ. cũng sẽ phục vụ bách tính hữu hiệu hơn.Hai nguyên nhân lịch sử của việc giữ kỳ bí của ₣.Ɱ là: 1) để cho họ dễ nhận nhau, 2) vì còn nhớ những vụ chiến tranh tôn giáo truy hại nhau, và việc triệt hạ tận gốc các tư tưởng tự do thường có ở các cơ chế độc tài, nên các hội viên ₣.Ɱ vẫn thấy cần phải ẩn mình để tranh luận về những đề tài nhậy cảm. Tuy vậy, ngày nay, những tập tục và những tiến trình kết nạp đã được thông dụng từ lâu làm cho không đang là một bí mật, ngoài ra sự thâm hiểu công phu về tiến trình học tập Tam điểm lại khó có thể truyền thông được, nếu chưa sinh hoạt trong hội.Ngày nay, ₣.Ɱ. phải được xem như là một tổ chức kín đáo (discret) chứ không phải là một hội kín (secret). Người hội viên có quyền tự tiết lộ, nhưng không được phép tiết lộ các đoàn viên khác hiện tại còn sống.4. Những vấn đề trong tương lai.Nhưng một khi thu mình vào hội, tránh những giao động bên ngoài để giữ gìn những truyền thống trí não và đạo đức của họ thì các franc maçons cũng sẽ bị tiến hoá của xã hội bên ngoài đe doạ; những giá trị trí não mà họ đã dựng lên như trí não nhân bản (humanisme) phóng khoáng (libéralisme), cá nhân chủ nghĩa (individualisme) lại bị cái xã hội của khối đông (la masse) ngày nay tấn công (Khối Gia Tô Giáo, khối Cộng sản, khối Đức Quốc xã, khối Hồi Giáo gần đây). Các cấu trúc xã hội cũng phức tạp hơn cũng như các tri thức loài người về không gian, vũ trụ, vật lý, sinh học (gènes) cũng từng tiến hơn. Qua lịch sử, ₣.Ɱ. đã có những bức thăng trầm, và bị đầy đoạ, nhưng họ vẫn còn tin tưởng rằng họ là một lực lượng trí não có đủ khả năng để thích ứng với sự biến thể của xã hội và toàn cầu.Hình các biểu tượng:Trích Historia Special N48 Juillet-Aout 1997 trang 68-69)Hình 1: Equerre là biểu tượng của sự ngay thẳng và của vật chất. Người Tam điểm xây dựng đời mình dùng equerre để hướng dẫn đạo đức cho mình.Hình 2: Compas, biểu tượng trí não cởi mở thiết yếu khi khai tâm kết nạp. Đó cũng là biểu tượng của quảng trường tri thức.Hình 3 Quả rọi đảm bảo sự thăng bằng của cơ cấu xây cất. Đệ nhị thư ký đeo trên người với sứ mệnh hướng dẫn tập nghề.Hình 4 Hai bút lông bắt chéo là trang trí đeo trên người của ông thư kýHình 5 Vật trang trí đeo trên người của đệ nhất thư ký để biểu tượng sự bằng ngang (horizontalité) trong việc làm với các thợ bạn.Hình 6 Chìa khoá là đồ trưng bày của thủ quỹ.Hình 7 Equerre và Compas quyện vào nhau biểu tượng vật chất và trí não không thể tách rời nhau.Hình 8 Chữ ₲ là chữ cái đầu của God (Thượng đế) thiết kế sư của cả vũ trụ. Còn người dưng thì là Géométrie hay là gnose (nhận thức)Hình 9 Người nổi tiếng năm cánh đỏ rực tượng trưng người được khai tâm đã toả sáng cả bóng tối)Hình 10 Tạp dề là trang phục của thợ xây cất, ngừa tai nạn, cũng có nghĩa là ngừa sự thiếu minh mẫn. Tạp dề này ở thế kỷ XIX gợi lại việc Hiram bị ám sát.Hình 11 Tạp dề của thầy thợ thế kỷ XVIII có hòn đá thợ liên tưởng người phàm, hòn đá đẽo biểu tượng người được khai tâm. Ở giữa là dụng cụ xây cất và cái cột, biểu tượng thiết kế.Hình 12 Tạp dề của thầy thợ ở thế kỷ XIX, có hình đền Salomon, hai bên có mặt trăng, mặt rời, tượng trưng cho sự đi từ bóng tối tới ánh sáng.[1] Miễn là franchise hay là franc (franc-port: miễn thuế hải quan) Franc Maconnerie: tạm dịch là đặc miễn xây cất.[2] Pentagramme: Hình sao năm cánh trong truyền thống th ên chúa giáo dùng để chỉ định 5 vết thương hay stigmates của Chúa còn so với đồ đệ của Pythagore thì là để chỉ ngũ đại thể đất, lửa, thủy, khí và ý (hay chose divine). Có người còn cho rằng chỉ 5 quyển sách trước tiên của Cựu Ước hay là ấn tín của Salomon.Tham chiếu• Franc-Maconnerie, un article de Wikipedia, ɭ’encyvlopédie libre(http://fr.wikipédia.org./wiki/Franc-ma-Historia/Spécial No 48 Juillet-Aout 1997, Les Francs-Macons.)• Franc-Maconnerie, Encyclopédie Universelle no 9, page 866-872• Da Vinci Code, Dan Brown• La vérité historique derrière le code Da vinci, Sharan Newman• Le code Da Vinci, décrypté par Simon Cox, Pocket Book

Về Đầu Trang Go down  

Hội kín huyền bí nhất Toàn cầu – Hội Kín Illuminati

Về Đầu Trang 

Trang 1 trong tổng số 1 trang

 Similar topics

+

 Similar topics

-» Học tiếng Nhật là niềm vui của các bạn – Dạy tiếng Nhật là niềm tự hào của Top Globis
» Võ Nhất Nam
» Toàn cầu tâm linh
» 1001 huyền bí Huyền bí về toàn cầu phù thủy cổ xưa
»  Phật Giáo tại Nhật Bản

Permissions in this forum:

Bạn không có quyền trả lời nội dung

CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚ₵ CỦ𝓐 TOÀИ THỂ NGƯỜΙ VIỆƬ NAM TRÊN TOÀИ THẾ GIỚΙ . :: Your first category :: HUYỀИ BÍ HỌ₵ VÀ TÔN GIÁΣ :: CÁ₵ TRƯỜNG PHÁΙ HUYỀИ BÍ HỌ₵ VÀ CÁ₵ TÔN GIÁΣ :: HUYỀИ BÍ HỌ₵ TÂY PHƯƠNG - CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚ₵ CỦ𝓐 TOÀИ THỂ NGƯỜΙ VIỆƬ NAM TRÊN TOÀИ THẾ GIỚΙ . :: Your first category :: HUYỀИ BÍ HỌ₵ VÀ TÔN GIÁΣ :: CÁ₵ TRƯỜNG PHÁΙ HUYỀИ BÍ HỌ₵ VÀ CÁ₵ TÔN GIÁΣ :: HUYỀИ BÍ HỌ₵ TÂY PHƯƠNG +

Chuyển đến:  


Xem thêm những thông tin liên quan đến đề tài hội illuminati ở việt nam

Are the illuminati real? – Chip Berlet

alt

  • Tác giả: TED-Ed
  • Ngày đăng: 2019-10-31
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 7436 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Download α free audiobook version of “The Pillars of the Earth” and support TED-Ed’s nonprofit mission: https://www.audible.com/ted-ed

    Test out our full book recommendation: https://shop.ed.ted.com/collections/ted-ed-book-recommendations/products/illuminati

    The year was 1776. In Bavaria, new ideals of rationalism, religious freedom and universal human rights competed with the Catholic church’s heavy influence over public affairs. Adam Weishaupt, α law professor frustrated with the Church’s ideology, decided to spread his ideas through α secret society: the Illuminati. Chip Berlet dives into the history, ideals and rituals of the infamous group.

    Lesson by Chip Berlet, directed by Brett Underhill.

    Animator’s website: https://www.porkchopbob.com
    Sign up for our newsletter: http://bit.ly/TEDEdNewsletter
    Support us on Patreon: http://bit.ly/TEDEdPatreon
    Follow us on Fb: http://bit.ly/TEDEdFacebook
    Find us on Twitter: http://bit.ly/TEDEdTwitter
    Peep us on Instagram: http://bit.ly/TEDEdInstagram
    View full lesson: https://ed.ted.com/lessons/are-the-illuminati-real-chip-berlet

    Thank you so much to our patrons for your support! Without you this video would not be possible! Maryam Dadkhah, Kristiyan Bonev, Keven Webb, Mihai Sandu, Deepak Iyer, Javid Gozalov, Emilia Alvarado, Jaime Arriola, Mirzat Tulafu, Lewis Westbury, Felipe Hoff, Rebecca Reineke, Cyrus Garay, Victoria Veretilo, Michael Aquilina, William Biersdorf, Patricia Alves Panagides, Valeria Sloan Vasquez, Mike Azarkman, Yvette Mocete, Pavel Maksimov, Victoria Soler-Roig, Betsy Feathers, Samuel Barbas, Therapist Gus, Sai Krishna Koyoda, Elizabeth Parker, William Bravante, Irindany Sandoval, Mark wisdom, Brighteagle, Beatriz Inácio, Mighterbump, Pamela Harrison, Maija Chapman, Liana Switzer, Curtis Light, The Brock, Dianne Palomar, Edgar Campos Barrachina, Maria Lerchbaumer, Ever Granada, Marin Kovachev, Ravi Ş. Rāmphal, Penelope Misquitta, Tekin Gültekin, Jhuval, Hans Peng, Gaurav Mathur and Erik Biemans.

HỘI KÍN Ở VIỆT NAM

  • Tác giả: backlinks.vn
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 4551 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: TTO – Nếu tin vào thuyết mưu mô, toàn cầu này nay do một tổ chức bí mật gọi là Illuminati thống trị chứ không phải bất kể chính phủ nào, Triết gia thời hiện đại người Anh Julian Baggini không cho đây là một ý điên rồ

Có thật hội kín Illuminati kiểm tra toàn thể toàn cầu?

  • Tác giả: www.vntrip.vn
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 2208 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Nếu tin vào thuyết mưu mô, toàn cầu này nay do một tổ chức bí mật gọi là Illuminati thống trị chứ không phải bất kể chính phủ nào. Triết gia thời hiện đại

Có thật hội kín Illuminati kiểm tra toàn thể toàn cầu?

  • Tác giả: tuoitre.vn
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 6975 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: TTO – Nếu tin vào thuyết mưu mô, toàn cầu này nay do một tổ chức bí mật gọi là Illuminati thống trị chứ không phải bất cứ chính phủ nào. Triết gia thời hiện đại người Anh Julian Baggini không cho đây là một ý điên rồ.

Illuminati việt nam

  • Tác giả: tuyetdenbatngo.com
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 7223 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: TTO – Nếu tin vào thuyết mưu mô, toàn cầu này nay do một tổ chức bí mật gọi là Illuminati thống trị chứ không phải bất kể chính phủ nào, Triết gia thời hiện đại người Anh Julian Baggini không cho đây là một ý điên rồ

Thuyết mưu mô: Sơn Tùng và nhiều sao Việt là thành viên của hội kín huyền bí Illuminati?

  • Tác giả: lostbird.vn
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 4607 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Một thuyết mưu mô mới được bày ra khiến mọi người có phần hoang mang lo lắng.

Note33✤Book.41✤6/2021: HỘI TAM ĐIỂM(Illuminati) ở Việt Nam

  • Tác giả: spiderum.com
  • Nhận xét: 5 ⭐ ( 1300 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: 21/6/2021 – Đọc 3 quyển sách có nội dung về Hội Tam Điểm 🕮 Tổng số sách đã đọc được:
    41 quyển 🕮 ✤1/ Sự Hiện Diện Của Thành…

Xem thêm các nội dung khác thuộc thể loại: giải trí