Văn Miếu Quốc Tử Giám Xây Dựng Năm Nào, Vài Nét Sơ Lượt Về Di Tích Lịch Sử – quốc tử giám được xây dựng vào năm nào

Di tích quốc gia đặc biệt Văn Miếu – Quốc Tử Giám 58 phố Quốc Tử Giám (Xem bản đồ)Trung tâm hoạt động VHKH Văn Miếu – Quốc Tử Giám (+84) 243, 845

Bạn đang xem: quốc tử giám được xây dựng vào năm nào

Di tích quốc gia đặc biệt Văn Miếu – Quốc Tử Giám

*

58 phố Quốc Tử Giám (Xem bản đồ)

*

Trung tâm hoạt động VHKH Văn Miếu – Quốc Tử Giám

*

(+84) 243.845.2917

*

http://vanmieu.gov.vn/

*
*

info

Điểm du lịch

QR Code

*

PDF

*

DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT

VĂN MIẾU – QUỐC TỬ GIÁM

*

Quần thể thiết kế Văn Miếu – Quốc Tử Giám bao gồm: hồ Văn, khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám và vườn Giám với thiết kế chủ thể là Văn Miếu – nơi thờ Khổng Tử và Quốc Tử Giám – trường đại học trước nhất của Việt Nam.

Bạn đang xem: Văn miếu quốc tử giám xây dựng năm nào

Khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám có tường gạch vồ bao quanh, phía trong chia thành 5 lớp không gian với các thiết kế khác nhau. Mỗi lớp không gian đó được hạn chế bởi các tường gạch có 3 cửa để thông với nhau (gồm cửa ra vào giữa và hai cửa phụ hai bên). Từ ngoài vào trong có các cổng lần lượt là: cổng Văn Miếu, cổng Đại Trung, cổng Đại Thành và cổng Thái Học. Với hơn 700 năm hoạt động đã huấn luyện hàng nghìn nhân tài cho quốc gia, đến nay, Văn Miếu-Quốc Tử Giám là nơi tham quan của khách tham quan trong và ngoài nước, nơi khen tặng cho học viên xuất sắc và đang là nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào ngày rằm tháng giêng, nơi tổ chức nhiều hoạt động giao lưu văn hóa, khoa học. Cũng tại đây, vào mỗi dịp Tết nguyên đán hay trước mỗi kỳ thi, các sĩ tử thường đến xin chữ đầu xuân của các ông đồ và cầu may trong thi cử, học tập.

1.1. Văn Miếu được xây dựng từ năm (1070) tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Mùa thu tháng 8, làm Văn Miếu, đắp tượng, Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối, vẽ tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến đấy học”. Năm 1156, Lý Anh Tông cho sửa lại Văn Miếu và chỉ thờ Khổng Tử.

Văn Miếu được xây dựng trên khu đất hình chữ nhật (dài 300m, rộng 70m), xung quanh là tường gạch vồ, gồm các hạng mục sau:

– Hồ Văn: Hồ Văn nằm đối mặt với khu cổng chính của di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Trước đó, giữa hồ có gò Kim Châu, trên dựng một phương đình, gọi là “Phán Thuỷ đình”, là nơi diễn ra các buổi bình thơ của Nho sĩ. Nay phương đình này không còn, trên gò vẫn còn tấm bia dựng năm Tự Đức 18 (1865) ghi lại việc việc nạo vét hồ. Trải qua nhiều biến động của lịch sử, Hồ Văn đã ngày càng bị thu hẹp lại do lấn chiếm và cây cỏ mọc um tùm, năm 1998 nhà nước đã cho tu sửa, kè hồ và mở cửa cho khách tham quan. Ngày nay, mỗi dịp tết đến xuân về nơi đây thường tổ chức các buổi trình diễn Thư pháp và nhiều người dân đến xin chữ đầu năm để cầu may mắn…

– Vườn Giám nằm ở phía Tây của di tích. Ngày nay, Vườn Giám vẫn là khoảng trống gian trọng yếu của khu di tích, hiện trưng bày nhiều chậu cảnh, nhà bát giác, vào các dịp lễ Tết đang là vị trí tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ như: Múa rối nước, đánh đu, trình diễn thơ…

– Nghi môn ngoại (tứ trụ): Xưa kia Nghi môn nằm sát Hồ Văn soi mình xuống lòng hồ trong xanh, nhưng khi Pháp chiếm đóng Hà Nội, họ cho làm đoạn đường Quốc Tử Giám cắt qua ngăn cách Nghi môn này với Hồ Văn. Nghi môn được xây dạng tứ trụ (4 cột) bằng gạch, hai trụ giữa xây cao hơn trên có hình hai con ghê chầu vào. Theo tư tưởng tâm linh của người phương đông, nghê là sinh vật linh thiêng có khả năng nhận thấy kẻ ác hay người thiện. Hai trụ ngoài thấp hơn, trên đắp nổi 4 con chim phượng xòe cánh chắp đuôi vào nhau theo kiểu kết lồng đèn (phượng cũng là một trong những linh vật xuất hiện nhiều trong các trang trí thiết kế cổ của người Việt). Xung quanh tứ trụ có đắp nổi các câu đối chữ Hán truyền tụng và đề cao đạo thánh hiền, trong đó có câu:

Đông, Tây, Nam, Bắc do tư đạo,

Công khanh phu sĩ xuất thử đồ.

Nghĩa là:

Từ bốn phương đông, tây, nam, bắc

Nhân tài cùng quy tụ về đây

(cũng từ đây nhân tài tỏa đi bốn phương)

Hai bên nghi môn có 2 bia “Hạ mã” (xuống ngựa) được dựng vào năm 1771, để nhắc nhở các công khanh phu sĩ hay thứ dân khi đi qua khu vực này đều phải xuống ngựa để biếu thị sự tôn kính với các bậc tiên thánh, tiên nho và trung tâm giáo dục hiền tài của Quốc gia.

– Nghi môn nội: Qua tứ trụ tất cả chúng ta sẽ thấy một chiếc cổng lớn được xây dựng theo kiểu thiết kế tam quan với hai tầng ba cửa, cửa lớn ở trung tâm, hai cửa nhỏ hai bên, phía trên đề 3 chữ Hán “Văn Miếu Môn” tức là cổng văn miếu, hay còn gọi là Nghi môn nội với mặt trước và sau có các đôi câu đối bằng chữ Hán truyền tụng Nho giáo, đạo học răn dạy lẽ xuất xử của các bậc thức giả.

Ở mặt ngoài của cổng này đắp nổi các hình tượng “Long ngư hội tụ” cá rồng ẩn hiện trong mây, ví như cảnh thanh vân đắc lộ của các nho sinh thành đạt (bên phải) và “Mãnh hổ hạ sơn” núi rừng mây nước nổi trội lên dáng dấp một con Hổ kiêu hùng xuống núi, ví như các bậc thức giả khí thế bước vào đời (bên trái).

Phía trước cổng Văn Miếu tất cả chúng ta có thể ngắm nhìn thấy đôi rồng đá cách điệu thời Lê. Hình ảnh rồng ẩn trong mây biểu lộ cái nhìn tinh tế của các nghệ nhân. Bên trong là đôi rồng đá thời Nguyễn, ở đây là sự phối hợp tổng hòa những nét mới mẻ, uy nghi của các linh vật, đây là những hiện vật tuyệt đẹp ở Văn Miếu môn, biểu tượng cho sự tôn nghiêm và thành kính.

Dưới thời phong kiến, cổng chính chỉ được mở khi vua, hoàng thất và các bậc đại quan tới thăm Văn Miếu và tế lễ khổng tử. Còn học trò thứ dân thì đi ở hai cổng nhỏ ở hai bên, sau đây xin mời quý khách hàng vào tham quan khu nội tự.

– Khu Nhập đạo: Nhập đạo là nhập vào đạo Nho, có nghĩa là sửa soạn mình sẵn sàng trên đoạn đường đến với cửa Khổng sân Trình, là học tập lễ nghi, đạo đức trước rồi mới học tri thức, cũng như con em của tất cả chúng ta khi khởi đầu đi học, đều phải qua thời kỳ đầu là học tập quy định, nội quy của lớp, của trường. Trong lớp không gian thứ nhất này quý khách hàng sẽ thấy 3 đoạn đường, đường trung tâm gọi là đường Hoàng đạo, xưa chỉ giành riêng cho vua, hoàng thất và các bậc đại quan đi, hai đường nhỏ hai bên là đường Linh đạo giành riêng cho học trò và thứ dân.

– Cửa Đại Trung (Đại Trung môn): Là cổng dẫn vào khu thứ hai của Văn Miếu, với ý nghĩa là chiếc cổng lớn ở trung tâm. Cổng này có thiết kế đơn giản, gồm 3 gian xây trên nền gạch cao, mái lợp ngói mũi hài, phía trên nóc đắp nổi chiếc bình hình quả bầu gọi là bình móc và hai con cá chép chầu. Móc là một loại sương rất tinh khiết, theo tư tưởng dân gian năm nào có móc năm đó hứa hẹn nhiều điều tốt lành. Bởi vậy, chiếc bình móc đắp nổi trên nóc cổng Đại trung trổ tài tâm nguyện của người xưa hứng những tinh túy nhất của trời đất hay những tinh hoa của đạo học quy tụ về trên vùng đất này, cá chép chầu gợi cho ta nhớ đến tích truyện “cá chép vượt vũ môn”. Con cá chép nỗ lực hết mình vượt qua thác nước chín tầng đầy gay cấn, nguy hiểm, nhưng khi vượt qua được thì cá chép sẽ hóa Rồng. Rồng là sinh vật linh thiêng, cao quý, biểu tượng của quyền uy sức mạnh nên con Rồng rất được trọng vọng.

Và hình ảnh cá chép vượt vũ môn hóa Rồng chính là hình ảnh ẩn dụ về người học trò ngày xưa, các nho sinh dùi mài kinh sử miệt mài vất vả ngày đêm chờ đợi ngày triều đình mở khoa thi, khi thi đỗ người nho sinh giống như con cá chép vượt vũ môn thành công, thay đổi hoàn toàn thân phận của mình, được vinh dự nhận ân điển của triều đình, được vinh quy bái tổ, làng nước đón mừng, Trọng yếu hơn, họ cũng như con cá chép khi hóa rồng sẽ đem hết tài năng, tâm sức của mình để giúp dân, giúp nước.

Hai bên cổng Đại trung còn tồn tại hai chiếc cổng nhỏ, bên tay phải là cổng Thành Đức, bên tay trái là cổng Đạt Tài. Tên của hai cổng này trổ tài ý kiến giáo dục huấn luyện loài người vừa có đức vừa có tài.

– Khuê Văn các: Khuê văn các được xây dựng năm 1805 dưới triều vua Gia Long nhà Nguyễn. Công trình này do Tổng trấn Bắc thành là ông Nguyễn Văn Thành cho xây dựng với thiết kế 2 tầng 8 mái, tầng dưới là 4 trụ gạch, bốn bề trống không. Tầng trên là thiết kế gỗ hai tầng mái lợp ngói ống, xung quanh là lan can con tiện gỗ. Bốn mặt gác trổ 4 cửa sổ hình tròn với các trấn song con tiện tượng trưng cho các tia của sao khuê đang tỏa sáng. Phía trên treo một tấm biển sơn son thiếp vàng đề 3 chữ Hán: “Khuê Văn các”. Xung quanh 4 mặt có các câu đối chữ Hán truyền tụng vẻ đẹp văn hóa, văn chương, như:

Hi triều phấn sức văn long trị,

Kiệt tác chân tàng tập đại quan.

Nghĩa là:

Đời thịnh tô điểm nền văn trị,

Lầu gác lộng lẫy lưu giữ vẻ đẹp.

Hay:

Khuê tinh thiên lãng nhân văn xiển,

Bích thủy xuân thâm đạo mạch trường.

Nghĩa là:

Sao Khuê sáng giữa trời, nhân văn rạng tỏ.

Sông Bích đượm sắc xuân, đạo học dài lâu.

Khuê là tên một người nổi tiếng sáng nhất trong chòm 28 sao trên giải ngân hà, là đầu bạch hổ ở phương tây, có 16 ngôi, sắp xếp khúc khuỷu tự nhiên trên khung trời giống hình chữ Văn trong chữ Hán. Trong sách Hiếu kinh có ghi: “Khuê chủ văn chương” nghĩa là Sao khuê là sao chủ về văn chương, nên có thể hiểu đây chính là người nổi tiếng của vị thần phụ trách văn chương, văn học. Cũng chính vì sự tinh tế và ý nghĩa như vậy nên ngày nay Khuê Văn các được chọn làm biểu tượng của thủ đô Hà Nội, với muốn vẻ đẹp của văn chương sẽ mãi tỏa sáng như sao Khuê giữa khung trời.

Hai bên gác Khuê văn có hai cửa nhỏ là: Bí văn – văn chương trau chuốt, thanh tao) và Súc văn – văn chương hàm ý, súc tích. Đây có thể coi là hai tiêu chuẩn cơ bản của văn chương để người nho sinh phấn đấu, tập luyện..

– Hai dãy nhà bia tiến sĩ: Khu tiếp theo của cụm di tích là khu nhà bia Tiến sĩ. Trung tâm khu là giếng Thiên Quang (Thiên Quang tỉnh-nghĩa là giếng ánh sáng trời). Theo tư tưởng của người xưa, giếng hình vuông tượng trưng cho mặt đất, các cửa sổ của gác khuê văn hình tròn tượng trưng cho khung trời, ý nói nơi đây tập trung mọi tinh hoa của trời đất, đề cao trung tâm giáo dục nho học Việt Nam.

Đối mặt hai bên của Thiên Quang tỉnh là 82 bia Tiến Sỹ. Đây là bia lưu danh họ tên quê quán của hơn 1.300 vị Tiến Sỹ của 82 khoa thi ( 81 khoa triều Lê, 1 khoa triều Mạc) từ năm 1442 đến năm 1779 (bia được dựng từ năm 1484 đến năm 1780). Hệ thống bia Tiến sĩ này là những pho sử liệu bằng đá vô cùng mới mẻ và quý hiếm, phân phối những tư liệu quý hiếm về lịch sử khoa cử Việt Nam và chứa đựng nhiều giá trị văn hóa khác. Hai dãy nhà bia mới được dựng lại năm 1994, gồm 8 nhà che bia, sắp xếp bia tiến sĩ mỗi bên bốn dãy, mỗi nhà đặt 10 bia. Hai tấm bia ghi nội dung khoa thi năm 1442 và 1448 được đặt vào giữa hai toà Bi đình. Không phải khoa thi nào tiến hành xong đều được khắc bia ngay, không phải bia đã dựng thì vĩnh tồn, không hư hỏng, không mất mát.

Khoa thi nho học trước nhất của Việt Nam được tổ chức năm 1075 dưới thời Lý, này là khoa thi Tam trường, người đỗ đầu trong khoa thi này là Lê Văn Thịnh, người Bắc Ninh, được xem như là vị tiến sĩ khai khoa trước nhất trong lịch sử khoa cử nước ta. Nhưng thời kỳ này thể thức thi cử chưa rõ ràng và thường lệ, cho đến thời nhà Trần khoa cử phát triển hơn, nhưng việc khắc tên tuổi của các vị đỗ đạt lên bia tiến sĩ chưa được thực hiện, mà được ghi trong sách Đăng khoa lục.

Ý tưởng dựng bia ghi tên các tiến sĩ khởi lên từ Lê Thánh Tông, vị hoàng đế học sâu, hiểu rộng quan tâm nhiều đến sự hưng thịnh của quốc gia và nền văn hóa dân tộc. Nhận thấy sự thiết yếu phải biểu dương nhân tài để khuyến khích việc học tập trong toàn dân, nhất là các thế hệ học trò, những người đóng vai trò trọng yếu cho sự phát triển của quốc gia. Năm 1484 vua đã xuống chiếu cho truy dựng từ khoa thi 1442, và lệ dựng bia được bắt nguồn từ đây. 

Về cơ bản, chủ trương dựng bia tiến sỹ được thực hiện sau mỗi kỳ thi, nhưng không mấy khi được dựng ngay mà làm tập trung vào từng đợt. 82 bia Tiến sĩ được dựng vào 3 đợt lớn:

+ Đợt 1: Năm 1484 (niên hiệu Hồng Đức 15) dựng 10 bia các khoa thi từ 1442 đến năm 1484. Bia thời kì này có kích thước nhỏ, trán bia khắc hình hoa lá mây, trăng, rùa có đầu ngẩng cao, dáng mỏ chim, khối tròn chải chuốt.

 + Đợt 2: năm 1653 (niên hiệu Thịnh Đức 1) dựng 25 bia cho các khoa từ năm 1554 đến năm 1652. Bia thời kỳ này văn nghệ trang trí phong phú hơn, trán bia xuất hiện hình rồng chầu mặt nguyệt, rùa có kiểu dáng cổ rụt, đầu hơi chúc, mặt bẹt, sống mũi uốn cao.

 + Đợt 3: năm 1717 (niên hiệu Vĩnh Thịnh 13) dựng 21 bia, từ khoa 1656 đến 1712. Bia thời kì này điêu khắc đề tài sinh động, hiện thực gần với đời sống hơn, rùa đá có cổ ngắn, có chân, mai cong vồng lên, có gò sống lưng, có chạm hình 6 cạnh.

Còn sót lại 26 bia được dựng ngay sau các khoa thi.

Các tấm bia đều được khắc bằng loại đá được khai thác tại núi An Hoạch, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá (hiện tại vẫn còn 1 tấm bia ghi lại việc lấy đá ở vùng này khắc 25 bia Văn Miếu vào năm 1653). 82 tấm bia này với những giá trị đặc biệt, là những hiện vật gốc, độc bản, đã được thừa nhận là Di sản tư liệu toàn cầu năm 2011và bảo vật quốc gia năm 2015.

Bia Tiến sĩ gồm 3 phần là: Trán bia, Thân bia và Đế bia.

Trán bia có hình khung vòm, mô típ trang trí hầu hết là hình rồng chầu mặt nguyệt, hình hoa lá mây trăng hay phượng chầu mặt nguyệt…

Hai bên diềm bia được tạo tác hoa văn rất đẹp như hoa cúc dây, hoa sen, chim, thú, hình ảnh người nông dân hay các viên quan lại đều được các nghệ nhân trổ tài rất sinh động…, đây có thể coi như một bảo tàng văn nghệ phong phú ngoài trời.

 Phần trên cùng sát với trán bia khắc thời đại tổ chức khoa thi, bên dưới là bài ký khắc theo chiều dọc của bia, đọc từ trên xuống dưới từ phải sang trái có nội dung truyền tụng triều vua đang trị vì, tiếp theo là năm tổ chức khoa thi, tình hình quốc gia khi mở khoa thi, tên và chức tước của các vị quan được vua sai tổ chức kỳ thi với nhiệm vụ rõ ràng và cụ thể, số lượng thí sinh, người soạn văn bia, người nhuận sắc và cả người viết chữ để khắc đá cũng có tên trên bia.

Sau bài ký là họ tên, quê quán của các vị đỗ kỳ thi đó theo thứ tự từ cao xuống thấp như: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa hay Tiến sĩ. (Vua Gia Long lên ngôi năm 1802, định đô ở Huế và cho xây dựng Văn Miếu- Quốc Tử Giám ở Huế. Từ đó các khoa thi Hội, thi Đình đều được tổ chức ở Huế).

Toàn thể các tấm bia tiến sĩ ở đây đều được đặt trên lưng Rùa với 3 lí do sau:

+Về mặt tâm linh: Rùa là một trong những tứ linh: Long, Ly, Quy, Phượng.

+ Về mặt lịch sử: Rùa được xem như là vị Thần của dân tộc (Thần Kim Quy )

+Về mặt sinh học: Rùa là một sinh vật khỏe mạnh, sống lâu. Khi đặt các tấm bia trên lưng Rrùa với muốn tên, tuổi của các vị tiến sĩ sẽ trường tồn mãi với thời gian, để các thế hệ đương thời và hậu thế nhìn vào mà sinh lòng hâm mộ, phấn khởi, tự tập luyện danh tiết, chăm chỉ học tập để có ngày bảng vàng bia đá ghi danh, nhất định tầm trọng yếu của nhân tài so với sự hưng thịnh của quốc gia, ngoài ra còn trổ tài lòng kính trọng của toàn dân với các bậc tiên hiền của dân tộc.

Xem thêm: Nhà Cho Thuê Nhà Phú Nhuận, Mới Xây, Giá Rẻ T7/2021, Nhà Cho Thuê

Xưa kia, Số lượng người tham gia các kì thi rất đông, năm đông nhất, số lượng thí sinh dự kì thi hội lên đến 6000 người, các năm trung bình có khoảng 2000 đến 3000 người dự thi. Nhưng việc lựa chọn lấy đỗ là không nhiều, như khoa thi năm 1478 lấy đỗ nhiều nhất là 62 người và thâm chí có khoa thi chỉ lấy đỗ có 3 người là khoa thi năm 1595 và năm 1667. Điều này cho tất cả chúng ta thấy không khí học tập và thi cử vô cùng sôi động, náo nhiệt và đầy khó khăn, thử thách.

Để được khắc tên trên bia đặt trang trọng tại nơi này, các nho sinh phải học tập chăm chỉ, dùi mài kinh sử, trải qua tối thiểu 10 năm đèn sách và vượt qua 4 kì thi. Trước tiên là thi khảo hạch ở cấp địa phương, thể thức thi khảo hạch là: Nho sinh phải làm một bài ám tả, quan phủ khảo 3 bài kinh nghĩa. nho sinh nào trúng thí thì sẽ được vào thi Hương.

Thi Hương dưới triều Lê được Triều đình tổ chức 3 năm một lần, gồm các thí sinh từ các trấn hay lộ dự thi tại một điểm do triều đình quy định. Vị trí thi có khi là bãi đất trống hoặc khu ruộng mà người nông dân vừa thu hoạch xong, vì vậy mà khi đi thi các sĩ tử còn phải gánh theo lều, chõng để thi. Các nho sinh phải khai rõ ràng quê quán, tên tuổi, chuyên học kinh gì, chức sắc của ông cha. Những nhà nào làm nghề hát xướng cùng là nghịch đảng ngụy quân hay những người đang mang trọng tang đều không được đi thi. Trường hợp gián trá, hay thi hộ sẽ bị tội đồ suốt đời không được đi thi nữa.

Thi Hương thường có 4 kỳ thi: Kinh nghĩa; Chế, chiếu, biểu; thơ phú và văn sách. Thời Lê, người nào trúng 4 kỳ gọi là Hương cống, 3 kỳ là Sinh đồ. Thời Nguyễn trúng kỳ thi Hương gọi là Cử nhân.Những Nho sinh trúng thí thi Hương được vào học ở Quốc Tử Giám, sau đó phải qua một kỳ khảo hạch gắt gao của bộ Lễ mới được thi Hội và thi Đình.

Thi Hội do triều đình tổ chức tại Kinh đô, trải qua 4 kỳ như thi Hương, nhưng ở trình độ cao hơn. Những ai đỗ thi Hội được tạm coi là đỗ Tiến sĩ, và trải qua một kì thi nữa là thi Đình để phân hạng cao thấp. Người đỗ đầu kỳ thi Hội gọi là Hội nguyên.

Thi Đình được tổ chức tại Điện Kính Thiên (Hoàng Thành hiện tại). Các thí sinh chỉ phải làm một bài văn sách do vua ra đề, hỏi về đạo trị nước và sử dụng hiền tài an dân… Và nhà vua không đánh trượt một ai, căn cứ vào bài thi, triều đình sẽ phân hạng thí sinh theo 3 loại:

+ Những người đỗ đầu gọi là Đệ nhất giáp Tiến sỹ cập đệ, gồm có 3 danh Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa.

+ Những người đỗ hạng 2 gọi là Đệ nhị giáp Tiến sỹ xuất thân hay hay còn gọi là Hoàng Giáp.

+ Những người đỗ hạng 3 gọi là Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân.

Người đỗ đầu cả 3 kỳ thi: Thi Hương, Thi Hội, Thi Đình gọi là Tam nguyên, ví dụ như nhà Bác Học Lê Quý Đôn đã từng đỗ tam nguyên (khoa thi năm 1752 ).

Tuy nhiên, không phải khoa thi nào cũng lấy đủ cả Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa, mà có năm chỉ lấy Bảng nhãn, Thám hoa hay Hoàng Giáp đỗ đầu, có năm chỉ có Tiến sĩ thôi.

Xưa kia tuổi đi học và đi thi không quy định tối thiểu và tối đa, vì vậy trong lịch sử khoa cử nước ta có vị đỗ Tiến sĩ khi tuổi đời còn rất trẻ, như trạng nguyên Nguyễn Hiền người Nam Định, ông đỗ khi mới 13 tuổi của khoa thi năm 1247, hay Tiến tiến sỹ nhiều tuổi nhất là là tiến sỹ Quách Đồng Dần người Bắc Ninh khi đã 68 tuổi của khoa thi năm 1638. Tuy vậy, người đi thi cao tuổi nhất là ông Đoàn Tử Quang người Hà Tĩnh. Ông đi thi khi đã 82 tuổi và đỗ thứ 29/30 của khoa thi năm 1900. Truyền lưu kể rằng, có người hỏi cụ: Cụ cao tuổi như vậy còn học và đi thi làm gì? Ông trả lời rằng: Tôi đi học và đi thi là để báo đáp công ơn sinh thành của mẹ, cha và làm gương cho con cháu. Điều này một lần nữa nhất định trí não học tập, thi cử của ông cha ta, đi học đi thi không chỉ đỗ ra làm quan mà còn làm gương để con cháu noi theo.

Khi đỗ đạt vị Tiến sĩ được nêu tên trên bảng vàng, được phong chức tước, được cấp mũ áo xiêm đai, ngựa quý về vinh quy bái tổ, dự yến ở vườn thượng uyển của vua. Vinh hạnh hơn hết là được ghi tên trên bia đá lưu truyền mãi mãi, hậu thế trông vào mà sinh lòng hâm mộ, phấn khởi, tập luyện danh tiết.

 Cũng trên các tấm bia quý hiếm này, tất cả chúng ta tự hào với tên tuổi của những người đã góp phần làm rạng rỡ nền văn hóa Việt Nam như, nhà sử học Ngô Sĩ Liên, người huyện Chương Mỹ, đỗ tiến sỹ năm 1442, là một trong những soạn giả của cuốn Đại việt sử kí toàn thư. Nhà toán học Lương Thế Vinh, người Nam Định, đỗ Tiến sỹ của khoa thi năm 1463 là tác giả của cuốn Đại thành toán pháp. Nhà Bác học Lê Quý Đôn, người huyện Diên Hà-tỉnh Thái Bình, đậu Bảng nhãn năm 1752, là tác giả của nhiều tác phẩm, như: Đại việt thông sử, Kiến văn tiểu lục, Phủ biên tạp lục, Vân đài loại ngữ…bao gồm các mặt chính trị, triết học, quân sự, kinh tế, xã hội, lịch sử, thơ ca… Nhà chính trị ngoại giao Ngô Thì Nhậm, đỗ tiến sỹ khoa thi năm 1775, có công giúp vua Quang Trung – Nguyễn Huệ thắng lợi quân Thanh trong trận Ngọc Hồi – Đống Đa nổi danh trong lịch sử, …

Cũng từ thông tin trên các tấm bia Văn Miếu này còn cho ta thấy trí não hiếu học, hiếu nghĩa, tôn sư trọng đạo, truyền thống học tập của các gia đình, dòng tộc, địa phương…Có những gia đình, cha con, anh em cùng đỗ Tiến sĩ, như cha con tiến sĩ Nguyễn Quý Ngọc và Nguyễn Quý Ban (hai cha loài người Thanh Trì, cùng đỗ đệ Tam, cha đỗ khoa thi năm 1748, con đỗ khoa thi năm 1778); Trần Huy Tích và Trần Văn Vi; Ngô Thì Nhậm và Ngô Thì Sĩ … 82 tấm bia Tiến Sĩ nơi đây còn hỗ trợ tất cả chúng ta thống kê và xác nhận những dòng tộc, địa phương có truyền thống khoa bảng, như vùng Kinh Bắc hay ở xã Mộ trạch, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương nổi tiếng khoa bảng, dòng tộc Ngô ở Bắc Giang, hay dòng tộc Phạm ở Đông Ngạc – Từ Liêm cũng rất nổi tiếng khoa bảng.

Tấm bia cổ nhất nơi đây được dựng năm 1484 về khoa thi năm 1442, nội dung bài văn bia do Đông các đại học sĩ Thân Nhân Trung soạn, trong đó có đoạn: Hiền tài là nguyên khí Quốc Gia, nguyên khí vững thì thế nước mạnh và thịnh, nguyên khí kém thì thế nước kém và suy, vì thế các thánh Đế minh vương không ai không chăm sóc xây dựng nhân tài, vun trồng nguyên khí. Đây được xem như tuyên ngôn về giáo dục không những xưa kia, mà luôn đúng trong mọi thời kì, nhất là ngày nay khi xây dựng, phát triển và bảo vệ quốc gia luôn cần trí tuệ, khoa học kỹ thuật. Và cũng trên tấm bia này, có khắc tên của Trạng nguyên Nguyễn Trực, người làng Bối Khê, huyện Thanh Oai, Hà Nội. Ông từng làm Tế Tửu Quốc Tử Giám, là văn thần được vua Lê Thánh Tông rất coi trọng.

Bằng những giá trị rực rỡ và độc đâó đó, 82 Bia Tiến Sỹ Tại Văn Miếu – QTG Hà Nội được UNESCO thừa nhận là Di Sản Tư Liệu Thế Giới toàn thị trường quốc tế và năm 2012 di tích VM – QTG vinh dự được Thủ Tướng Chính Phủ thừa nhận là Di Tích lịch sử đặc biệt cấp Quốc Gia. Năm 2015, hệ thống bia tiến sĩ đã được Thủ tướng chính phủ ký quyết định thừa nhận là bảo vật quốc gia.

– Cửa Đại Thành (Đại Thành môn): Gian trung tâm phía trên treo bức hoành phi đề ba chữ “Đại Thành Môn”, bên phải có hàng chữ nhỏ đề: “Lý Thánh Tông Thần vũ nhị niên Canh Tuất Thu Bát nguyệt phụng kiến” (Nghĩa là: Tháng tám mùa thu năm Canh tuất, niên hiệu Thần vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông (1070) vâng sắc dựng); bên trái ghi: “Đồng Khánh tam niên Mậu tý trọng đông đại tu” (Tu sửa lại vào tháng 11 năm Mậu tý niên hiệu Đồng Khánh 3 (1888). Bức hoành này một lần nữa nhất định Văn Miếu được xây dựng vào năm 1070.

Đại Thành được lấy từ câu nói của Mạnh Tử khi nhận xét về Khổng Tử. Ông nói: “Khổng tử là Tập Đại thành”, nghĩa là: Khổng Tử là người thành đạt đã tập hợp được toàn bộ học vấn, đức tốt của các bậc tiên thánh, tiên hiền.

Hai bên cổng Đại thành có 2 cổng nhỏ là Kim Thanh và Ngọc Chấn. Kim Thanh là tiếng vang của vàng còn Ngọc Chấn là tiếng vang của ngọc.

Đại bái: Quan cổng Đại Thành là đến khu sân nhà Đại Bái. Xưa kia, trước ngày thi các học trò và giám sinh thường tề tựu về đây một lòng thành kính thắp hương lên các vị tiên thánh, tiên hiền nguyện cầu sức khỏe và mong gặp may mắn trong các kỳ thi. Tiếp nối truyền thống đó, ngày nay rất nhiều các trường của thủ đô Hà nội và trong cả nước về đây làm lễ thắp nhang và khuyến học. Hết sân là tòa Bái đường gồm 9 gian với 40 rường cột chống mái, lợp ngói mũi hài, mang phong thái thiết kế thời hậu Lê, đầu Nguyễn. Trên nóc đắp nổi hai con rồng chầu mặt nguyệt, phía dưới là những bức phù điêu gỗ thời Lê khắc nổi hình rồng mây đao rất đẹp. Xưa kia tại tòa Bái đường nay, cứ một năm hai lần vào mùa xuân và mùa thu, vua và các quan đại thần đến đây tế lễ Khổng Tử và các vị tiên thánh, tiên nho. Do vậy tại đây đặt 1 hương án rất đẹp làm bằng gỗ sơn son thếp vàng, phía trên hương án là bức hoành phi “Vạn thế sư biểu”, nghĩa là Người thầy tiêu biểu của muôn đời. Đây là lời phong tặng của vua Khang Hy nhà Thanh khi đi thăm Khổng miếu Khúc phụ ở tỉnh Sơn Đông-Trung Quốc đã đề cao Khổng Tử là người thầy của muôn đời. Bức hoành phi này được làm trong đợt tu sửa Văn Miếu vào năm 1888. Xung quanh còn tồn tại các bức hoành phi, câu đối ca ngơi đạo Nho, truyền tụng trước tác của khổng tử như: Đạo quán cổ kim (Đạo nho đứng đầu xưa nay), Đức tham thiên địa(Đức lan tỏa khắp trời đất). Hay như bức: Cổ kim nhật nguyệt (ánh sáng muôn thuở) là bức hoành phi được làm vào năm 1768 cùng với chuông Bích Ung. Hai hiện vật quý này cùng với hai cây hoa đại ở phía trước sân là do Hiệu trưởng Quốc Tử Giám Xuân quận công Nguyễn Nghiễm, cha đẻ của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du cho làm và trồng.

Cũng tại đây có đôi hạc đồng rất đẹp. Đôi hạc này vốn được thờ ở đình làng Quỳnh Lôi, quận Hai Bà Trưng -Hà Nội. Trong tuần lễ vàng năm 1946 làng Quỳnh Lôi đã quyên góp đôi hạc này cho chính phủ. Bác Hồ nói: đây là đôi Hạc đồng đẹp nhất nước Nam, hãy mang vào Văn Miếu cho khách tham quan thập phương cùng ngắm nhìn.

Hình tượng hạc đứng trên lưng rùa biểu trưng cho sự hài hòa âm, dương giữa trời và đất.

Hai dãy Đông vu, Tây vu trước kia là nơi thờ Thất thập nhị hiền, là 72 học trò giỏi của khổng tử. Thiết kế cũ bị phá hủy năm 1946, thiết kế hiện tại được xây dựng lại vào năm 1954. Hiện tại hai dãy nhà này là nơi làm việc và phục vụ khách du lịch.

– Điện Đại thành: Điện nằm song song với toà Đại bái, được nối bằng một phương đình. Điện Đại Thành cũng gồm 9 gian, xây tường 3 mặt, phía trước có cửa bức bàn đóng kín 5 gian, 4 gian đầu hồi có cửa chắn song cố định. Gian trung tâm là tượng đức Khổng Tử mặt nhìn về hướng phía nam, theo tư tưởng: Thánh nhân Nam diện nhi trị, tức là thánh nhân quay về hướng Nam để thống trị. Phía sau là khám thờ trên có ngai và bài vị đề: “Đại thành chí thánh tiên sư Khổng Tử thần vị”, hai bên là Phục thánh Nhan Hồi, Tông thánh Tăng Tử, Thuật thánh Tử Tư, và Á thánh Mạnh Tử.

Cũng trong điện đại thành này, ở hai bên đầu hồi còn thờ 10 bài vị bằng đá hay hay còn gọi là Thập Triết (Mười học trò giỏi nhất của khổng Tử)

1.2. Quốc Tử Giám: Nằm sau khu Văn Miếu là khu Quốc Tử Giám. Toàn thể khu vực này trải rộng trên diện tích 1530m2, gồm nhà Tiền đường, Hậu đường, Tả vu, Hữu vu, nhà chuông, nhà trống hai bên. Đây là nơi xưa kia dựng trường Quốc Tử Giám, trường đại học thượng hạng trước nhất của Việt Nam, nơi huấn luyện hàng ngàn nhân tài cho quốc gia. Đến khi nhà Nguyễn lên ngôi, triều đình cho xây dựng Quốc Tử Giám ở Huế thì khu này trở thành học đường của phủ Hoài Đức, sau này Triều Nguyễn cho xây đền Khải Thánh để thờ cha mẹ của Khổng Tử. Đến năm 1946 khu vực này bị đốt phá hoàn toàn, chỉ sót lại đoạn đường lát gạch trung tâm từ cổng Thái học dẫn theo nền điện Khải Thánh.

Toàn thể khu Thái Học ngày nay được xây dựng lại năm 1999, là công trình chào mừng kỷ niệm 990 năm Thăng Long Hà Nội. Nhà Tiền Đường phía trước gồm 9 gian với 40 cột gỗ lim chống mái, hai đầu hồi xây gạch Bát Tràng. Hiện tại nhà Tiền Đường là nơi tổ chức các sự kiện tuyên dương khen thưởng học viên giỏi, giáo viên giỏi, các hội thảo khoa học, các sự kiện trọng yếu của Tp, của Nhà nước như: Khen thưởng các Thủ khoa tốt nghiệp Đại Học xuất sắc trên địa phận tp, Lễ phong hàm Giáo sư, Phó Giáo sư và nhiều sự kiện trọng yếu khác…

Nhà Hậu đường với gian trung tâm tòa đặt tượng Quan Tư Nghiệp Quốc Tử Giam là thầy giáo Chu Văn An.

Thầy Chu Văn An sinh năm 1292, mất năm 1370, quê ở huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội. Chu Văn An đỗ Thái học viên dưới triều Trần (tương tự với Tiến sỹ dưới triều Lê ) nhưng không ra làm quan mà về quê nhà mở trường dạy học. Học trò theo học rất đông, thầy đã huấn luyện nhiều nhân tài cho quốc gia, trong số học trò của thầy có người làm quan đến chức Nhập nội hành khiển (tương tự với Tể Tướng) như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát, nhưng khi đến thăm thầy ở quê nhà vẫn giữ đạo học trò là quỳ dưới chân giường nghe thầy chỉ bảo. Kẻ nào làm quan sách nhiễu dân lành, hà hiếp dân chúng, khi đến thăm, ông đuổi ra không tiếp. Nổi tiếng với học vấn uyên thâm, đạo cao đức trọng, ông được vua Trần Minh Tông mời ra Thăng Long giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám, tức Hiệu Trưởng và trực tiếp dạy Thái tử Trần Vượng, sau này là Vua Trần Hiến Tông. Dưới thời vua Trần Dụ Tông, nhà vua không chăm sóc triều chính, ham mê tửu sắc, để nhiều quan tham lộng hành, tình hình quốc gia bê bối, ông đã viết bài Thất trảm sớ, xin vua chém bảy vị quan nịnh thần, nhưng vua không đủ dũng cảm nghe theo. Quá buồn, Chu Văn An đã từ quan về ở ẩn ở núi Phượng Hoàng thuộc Chí Linh – Hải Dương, chuyên tâm vào việc dạy học. Ông mất tại đó, thọ 78 tuổi, được truy tặng tước là Văn Trinh Công, thụy Khang Tiết và được phối thờ tại Văn Miếu. Ông cũng là tác giả của nhiều quyển sách có giá trị như Tứ Thư Thuyết Ước…Với công lao đóng góp trong sự nghiệp của mình, Chu Văn An được xem như là Ông Tổ của nền nho học Việt Nam. Bức Tượng thờ ông được đặt trang trọng tại đây từ năm 2003, do làng đúc đồng nổi tiếng của Hà Nội là làng Ngũ Xã đúc.

Xung quanh gian phòng này, quý khách hàng sẽ thấy các hiện vật trưng bày về lịch sử khoa cử việt nam như: Sa bàn mô phỏng theo thiết kế thời Lê với mô hình bên ngoài là khu vực văn miếu, nơi thờ Khổng Tử, Tứ phối, các vị tiên thánh tiên hiền, khu bên trong chính là trường QTG.

Quốc Tử Giám Thăng Long được xây dựng vào năm 1076, dưới thời vua Lý Nhân Tông. Đây là trường Đại học trước nhất của nước ta. Dưới thời Trần, Quốc Tử Giám có tên là Quốc Học Viện, thời Lê có tên là Thái Học Viện. Bên cạnh việc “rèn tập sĩ tử, gây dựng nhân tài”, Quốc Tử Giám còn tồn tại nhiệm vụ nữa là: Bảo cử các giám sinh của nhà trường với triều đình để bổ nhiệm làm quan. Xưa kia, các Nho sinh muốn được vào trường Quốc Tử Giám học phải là những người đỗ cử nhân kỳ thi Hương, qua một kỳ xác minh ở bộ Lễ nếu đạt thành tựu tốt mới được nhận vào học để chuẩn bị thi Hội.

Trường Quốc Tử Giám xưa kia có nhà giảng đường, thư viện, khu tam xá cho học viên ở, kho đồ tế khí và kho chứa bản gỗ khắc in sách. Khu tam xá gồm 6 dãy nhà, mỗi dãy 25 gian, mỗi gian giành cho 2 người. Như vậy tổng số giám sinh trọ học là 300 người.

Các giám sinh được chia làm ba hạng:

+ Thượng xá sinh học bổng 10 tiền 1 tháng.

+ Trung xá sinh học bổng 9 tiền 1 tháng

+ Hạ xá sinh 8 tiền một tháng.

Thời gian học tập tại Quốc Tử Giám là 3 năm. Nội quy của Quốc Tử Giám rất nghiêm. Các giám sinh, sinh đồ, nho sinh cứ đến ngày mùng 1, ngày rằm hàng tháng đều phải mặc áo mũ điểm mục, người nào rong chơi đường xá, thiếu điểm mục một lần thì phạt 140 tờ giấy trung chỉ, thiếu điểm mục 2 lần phạt 200 tờ giấy trung chỉ, thiếu điểm mục 3 lần thì kiểm xét tâu lên giao bộ hình xét hỏi, thiếu điểm mục 5 lần thì bắt sung quân. Giấy trung chỉ ngày xưa phải nhập từ Trung Quốc nên giá thành rất đắt, hình phạt này đánh thẳng vào túi tiền hạn hẹp của nho sinh.

Trên tầng 2 là nơi đặt tượng thờ 3 vị vua, là những người có công xây dựng và phát triển Văn Miếu – Quốc Tử Giám gồm: Vua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và Lê Thánh Tông.

*

Hiện tại, Văn Miếu – Quốc Tử Giám là điểm du lịch văn hóa mê hoặc khách tham quan, có những đóng góp mạnh mẽ vào sự phát triển về mọi mặt của thủ đô cũng như của cả nước. Từ năm 1962, di tích đã được Bộ Văn hóa xếp hạng quốc gia và đến nay là Di tích Quốc gia đặc biệt, 82 tấm bia được Unessco vinh danh là di sản tư liệu toàn cầu. Di tích luôn được Tp đặc biệt quan tâm, tổ chức quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị. Năm 1988, Tp đã thành lập Trung tâm tìm hiểu văn hóa, khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám và giao nhiệm vụ quản lý di tích trực tiếp và toàn diện. Hiện tại, các hạng mục thiết kế chính trong di tích đã được tu bổ, phục dựng để phục vụ nhu cầu bảo tồn, phát huy giá trị, khai thác du lịch của thủ đô cũng như của cả nước.


Xem thêm những thông tin liên quan đến đề tài quốc tử giám được xây dựng vào năm nào

Hanoi Travel – Quoc Tu Giam The school was built 1000 years ago

alt

  • Tác giả: kim yoo
  • Ngày đăng: 2018-12-23
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 9923 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm:

Di tích lịch sử và thiết kế văn nghệ Văn Miếu – Quốc Tử Giám

  • Tác giả: dsvh.gov.vn
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 2932 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm:

Văn Miếu Quốc Tử Giám Xây Dựng Năm Nào, Vài Nét Sơ Lượt Về Di Tích Lịch Sử

  • Tác giả: onip.vn
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 4788 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Văn Miếu – Quốc Tử Giám là một khu di tích lịch sử mang ý nghĩa biểu trưng cho tiến trình phát triển văn hóa của Việt Nam, là một bằng cớ về sự đóng góp của Việt Nam vào nền văn minh Nho giáo trong khu vực và nền văn hóa mang ý nghĩa nhân văn của Tòan Toàn cầu, Văn Miếu và Quốc Tử Giám là quần thể di tích phong phú và phong phú hàng đầu của thủ đô Hà Nội

Văn Miếu Quốc Tử Giám được xây dựng vào năm nào? Để thờ ai?𝓐. Năm 1075 – thờ Chu Văn AnB. Năm 1070 – Thờ Khổng TửC. Năm…

  • Tác giả: hoc24.vn
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 2208 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Văn Miếu Quốc Tử Giám được xây dựng vào năm nào? Để thờ ai?𝓐. Năm 1075 – thờ Chu Văn AnB. Năm 1070 – Thờ Khổng TửC. Năm…

Quốc Tử Giám Xây Dựng Năm Nào, Ai Là Người Đầu Tiên Được Học Ở Văn Miếu

  • Tác giả: hangjojo.com
  • Nhận xét: 5 ⭐ ( 1914 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Trường Quốc Tử Giám Huế mang trong mình vẻ đẹp cổ kính của di tích đại học duy nhất thời phong kiến, Hiện tại, đây là Bảo tàng Lịch sử và Cách mạng tỉnh Thừa Thiên – Huế

Văn Miếu Quốc Tử Giám được xây dựng vào năm nào? Để thờ ai?𝓐. Năm 1075 – thờ Chu Văn AnB. Năm 1070 – Thờ Khổng TửC. Năm…

  • Tác giả: olm.vn
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 1978 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Văn Miếu Quốc Tử Giám được xây dựng vào năm nào? Để thờ ai?𝓐. Năm 1075 – thờ Chu Văn AnB. Năm 1070 – Thờ Khổng TửC. Năm…

Văn Miếu – Quốc Tử Giám được xây dựng vào năm nào?

  • Tác giả: mocnoi.com
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 3915 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Tri thức lịch sử 10: Văn Miếu – Quốc Tử Giám được xây dựng…Thảo luận 1 Văn Miếu được xây dựng tháng 10 năm 1070, thờ Khổng Tử, các bậc Hiền triết của Nho giáo và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An,

Xem thêm các nội dung khác thuộc thể loại: giải trí