Bạn đang xem: các tỉnh miền trung việt nam
Bắc Trung Bộ
Nam Trung Bộ
Tây NguyênTemplate:Colorbox Bắc Trung Bộ Template:Colorbox Nam Trung Bộ Template:Colorbox Tây Nguyên
Miền Trung Việt Nam thường hay gọi là Trung Bộ, nằm ở phần giữa lãnh thổ và là một trong ba vùng chính (gồm Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ) của Việt Nam. Lịch sử Trung Bộ được gọi bằng các tên khác nhau như Trung Kỳ (thời thuộc Pháp), An Nam (theo cách người Pháp gọi), và Trung phần (thời Việt Nam Cộng hòa)[1]. Trải qua những tiến trình lịch sử, vùng Trung Bộ được xem như trạm trung chuyển, đất dừng chân khi người Việt cổ di cư về phía Nam.
Địa lý
Các vùng miền VN
Vị trí, địa hình
Miền Trung Việt Nam (Trung Bộ) có phía Bắc giáp khu vực Đồng bằng Sông Hồng và trung du miền núi vùng Bắc Bộ; phía Nam giáp các tỉnh Bình Phước, Đồng Nai và Bà Rịa-Vũng Tàu vùng Nam Bộ; phía Đông giáp Biển Đông; phía Tây giáp 2 nước Lào và Campuchia. Dải đất miền Trung được bao phủ bởi những dãy núi chạy dọc bờ phía Tây và sườn bờ biển phía Đông, vùng có chiều ngang theo hướng Đông – Tây hẹp nhất Việt Nam (khoảng 50 km) và nằm trên địa phận tỉnh Quảng Bình.[2]
Địa hình miền Trung gồm 3 khu vực cơ bản là Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Trung Bộ.
Bắc Trung Bộ bao gồm các dãy núi phía Tây. Nơi giáp Lào có độ cao trung bình và thấp. Riêng miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hoá có độ cao từ 1000 – 1500m. Khu vực miền núi Nghệ An – Hà Tĩnh là đầu nguồn của dãy Trường Sơn có địa hình rất hiểm trở, phần lớn các núi cao nằm rải rác ở đây. Các miền đồng bằng có tổng diện tích khoảng 6.200km2, trong đó đồng bằng Thanh Hoá do nguồn phù sa từ sông Mã và sông Chu bồi đắp, chiếm gần một nửa diện tích và là đồng bằng rộng nhất của Trung Bộ.
Tây Nguyên có diện tích khoảng 54.473,7km2, nằm về vị trí phía tây và tây Nam Trung Bộ (phía Tây dãy Trường Sơn). Tây Nguyên có phía Tây giáp 2 nước Lào và Campuchia, phía Đông giáp khu vực kinh tế Nam Trung Bộ và phía Nam giáp khu vực Đông Nam Bộ. Địa hình Tây Nguyên phong phú, phức tạp, đa số là cao nguyên với núi cao ở độ cao từ 250 – 2500m.
Nam Trung Bộ thuộc khu vực cận giáp biển. Địa hình ở đây bao gồm đồng bằng ven biển và núi thấp, có chiều ngang theo hường Đông – Tây (trung bình 40 – 50 km), hạn hẹp hơn so với Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên. Có hệ thống sông ngòi ngắn và dốc, bờ biển sâu với nhiều đoạn khúc khuỷu, thềm lục địa hẹp. Các miền đồng bằng có diện tích không lớn do các dãy núi phía Tây trải xuôi theo hướng phía nam tiến dần ra sát biển và có hướng thu hẹp dần diện tích lại. Đồng bằng đa số do sông và biển bồi đắp, khi tạo dựng nên thường bám sát theo các chân núi.
Xét chung, địa hình Trung Bộ có độ cao thấp dần từ khu vực miền núi xuống đồi gò trung du, xuôi xuống các đồng bằng phía trong dải cồn cát ven biển rồi ra đến các đảo ven bờ.
Miền trung nước ta có diện tích cồn cát lớn trải dài từ tỉnh Quảng Bình đến tỉnh Bình Thuận.
Các sông và hồ chính
Cầu Đà Rằng, Tuy Hòa
Các dòng sông lớn ở miền Trung đa số được bắt nguồn từ dãy Trường Sơn và đổ ra biển Đông.
- Sông Hương (tức Hương Giang): Bắt nguồn từ dãy Trường Sơn Đông, dài 30 km đoạn từ Bằng Lãng đến cửa Thuận An, chảy qua tp Huế ở tỉnh Thừa Thiên-Huế sau đó hợp lưu với dòng Hữu Trạch tại ngã ba Bằng Lãng. Sông Hương là dòng sông nổi tiếng trong thi ca, nhạc họa của Việt Nam. Dòng sông là một mạch nguồn, một biểu tượng của văn hóa Huế.
- Sông Hàn: Là dòng sông nằm ở tp Đà Nẵng. Sông Hàn khởi nguồn từ ngã ba sông giữa Quận Cẩm Lệ, quận Hải Châu và quận Ngũ Hành Sơn tới vịnh Đà Nẵng, tại chỗ giáp ranh giữa quận Hải Châu và quận Sơn Trà. Sông có dòng chảy từ Nam lên Bắc. Sông Hàn với chiều dài khoảng 7,2 km. Chiều rộng của sông khoảng 900 – 1.200m, độ sâu trung bình 4 – 5m.
- Sông Lam: Bắt nguồn từ Nậm Căn (Lào), dài 513 km, chảy qua Nghệ An theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, đổ ra biển Đông tại cửa Hội.
- Sông Ba (thường hay gọi là Đà Rằng): Bắt nguồn từ dãy núi Ngọc Linh (Kon Tum), dài 300 km, diện tích lưu vực là 13.000 km², chảy qua Gia Lai và Phú Yên rồi đổ ra biển Đông qua cửa Đà Diễn.
- Sông Thạch Hãn: Bắt nguồn từ dãy Trường Sơn, dài 155 km, diện tích lưu vực gần 3000 km², hợp thành bởi hai dòng sông chính là sông Quảng Trị và sông Cam Lộ rồi đổ ra biển Đông qua cửa Việt.
- Sông Ngàn Sâu: Bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn, dài 131 km, chảy qua địa phận giáp ranh của 2 tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình, là chi lưu chính của sông La.
- Sông Trà Khúc: Bắt nguồn từ núi Đắc Tơ Rôn, dài 120 km, là hợp nước của 4 dòng sông (sông Rhe, sông Xà Lò, sông Rinh, sông Tang), đổ ra biển Đông qua cửa Đại.
- Sông Bến Hải: Bắt nguồn từ dãy Trường Sơn, dài 100 km, chảy xuôi theo vĩ tuyến 17° Bắc từ Tây sang Đông rồi đổ ra biển Đông qua cửa Tùng.
- Sông Thu Bồn: Bắt nguồn từ núi Ngọc Linh (giáp giới hai tỉnh Quảng Nam và Kon Tum), dài 95 km, chảy trên địa phận tỉnh Quảng Nam.
- Sông Gianh: Bắt nguồn từ dãy Trường Sơn, dài 90 km, chảy trên địa phận tỉnh Quảng Bình rồi đổ ra Biển Đông qua cửa Gianh.
- Sông Nhật Lệ: Bắt nguồn từ núi ᑗ Bò (dãy núi Trường Sơn), dài 85 km, chảy qua địa phận tỉnh Quảng Bình rồi đổ ra Biển Đông qua cửa Nhật Lệ.
Các hồ ở khu vực miền Trung đa số là hồ nhân tạo được xây dựng để giữ nước phân phối cho cho các vùng phát triển nông nghiệp.
- Hồ Xuân Hương: Nằm giữa trung tâm tp Đà Lạt, xung quanh hồ có rừng thông và các bãi cỏ.
- Hồ Than Thở: Là hồ nước tự nhiên thuộc tp Đà Lạt, sau năm 1975 hồ Than Thở còn mang tên hồ Sương Mai.
- Hồ Lắk: Là hồ nước tự nhiên lớn nhất tỉnh Đăk Lăk, dài uốn bao quanh thị xã Lạc Thiện (nay là thị xã Liên Sơn), rộng trên 5km2 và thông với dòng sông Krông Ana.
- Hồ Ayun Hạ: Là hồ nước nhân tạo thuộc tỉnh Gia Lai, có diện tích 37 km2, chiều dài 25 km, nơi rộng nhất 5 km.
Khí hậu
Đèo Ngoạn Mục, Sông Pha, Ninh Sơn, Ninh Thuận
Khí hậu Trung Bộ được chia ra làm hai khu vực chính là Bắc Trung Bộ]] và Duyên Hải Nam Trung Bộ.
Khu vực Bắc Trung Bộ (bao gồm toàn thể phía bắc đèo Hải Vân). Vào mùa đông, do gió mùa thổi theo phía đông bắc mang theo hơi nước từ biển vào nên toàn khu vực chịu ràng buộc của thời tiết lạnh kèm theo mưa. Đây là điểm nổi bật với thời tiết khô hanh vào mùa Đông vùng Bắc Bộ. Đến mùa hè không còn hơi nước từ biển vào nhưng có thêm gió mùa tây nam (thường hay gọi là gió Lào) thổi ngược lên gây nên thời tiết khô nóng, vào thời điểm này nhiệt độ ngày có thể lên tới trên 40 độ ₵, trong lúc đó độ ẩm không khí lại rất thấp.[3]
Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ (bao gồm khu vực đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ thuộc phía Nam đèo Hải Vân). Gió mùa đông bắc khi thổi đến đây thường suy yếu đi do bị chặn lại bởi dãy núi Bạch Mã. Vì vậy khi về mùa hè khi xuất hiện gió mùa Tây Nam thổi mạnh từ vịnh Thái Lan và tràn qua dãy núi Trường Sơn sẽ gây ra thời tiết khô nóng cho toàn thể khu vực.[4]
Dấu hiệu nổi trội của khí hậu Trung Bộ là có mùa mưa và mùa khô không cùng xảy ra vào một thời kỳ trong năm của hai vùng khí hậu Bắc Bộ và Nam Bộ.
Mưa lũ
Thừa Thiên – Huế là một trong các tỉnh có lượng mưa nhiều nhất ở Việt Nam với lượng mưa trung bình năm vượt trên 2.600mm, có nơi lên đến 4.000mm. Có các trung tâm mưa lớn như khu vực tây 𝓐 Lưới – Động Ngại (độ cao 1.774m) có lượng mưa trung bình năm từ 3.400 – 5.000mm, khu vực Nam Đông – Bạch Mã – Phú Lộc có lượng mưa trung bình năm từ 3.400 – 5.000mm. Đồng bằng duyên hải Thừa Thiên – Huế có lượng mưa tối thiểu, nhưng trung bình năm cũng từ 2.700 – 2.900mm.
Hàng năm có từ 200 – 220 ngày mưa ở các vùng núi, 150 – 170 ngày mưa ở khu vực đồng bằng duyên hải. Vào mùa mưa, mỗi tháng có 16 – 24 ngày mưa. Những đợt mưa kéo dài nhiều ngày trên diện rộng thường gây ra lũ lụt lớn.
Địa hình phía Tây từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên – Huế bao gồm các dãy núi cao. Các dòng sông ở đây có dòng chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam đổ ra biển thường có lòng sông hẹp, độ dốc lớn, diện tích lưu vực nhỏ nên với lượng mưa tương đối lớn trút xuống sẽ sinh ra lũ, lên nhanh và gây lụt lội cho các khu vực đồng bằng thấp phía Đông. Ví dụ như Sông Hương – sông Bồ, có độ cao đầu nguồn là 1.318m, dài trên 100 km và diện tích lưu vực 2.690km2, chảy gần theo hướng Bắc Nam đổ ra biển ở cửa Thuận An. Vì toàn thể diện tích lưu vực sông Hương có trên 80% là đồi núi, khu vực đồng bằng còn sót lại phần lớn ở mức thấp hơn so với mực nước biển, nên hầu như sẽ bị ngập khi có lũ trên báo động cấp 3 (tương ứng 3,5m).
Với lượng mưa chiếm 68 – 75% lượng mưa trong năm, sẽ phát sinh lũ lụt lớn và gây thiệt hại sản xuất, tài sản, tính mạng dân cư, thúc đẩy tiêu cực đến môi trường sinh thái. Trái lại, trong mùa ít mưa thì nước lại không đủ phân phối cho sinh hoạt và sản xuất của một số địa phương trong vùng.
Mùa mưa lũ ở Bắc Trung Bộ thường xảy ra từ tháng 7 đến tháng 10, ở vùng Duyên hải Nam Trung Bộ thường xảy ra từ tháng 10 đến tháng 12. Những trận lũ lụt lớn đã xảy ra ở miền Trung vào các năm: 1952, 1964, 1980, 1983, 1990, 1996, 1998, 1999, 2001, 2003… Có lúc xảy ra lũ chồng lên lũ như các đợt lũ tháng 11, 12 năm 1999; tháng 10, 11 năm 2010.[5]
Lịch sử
Cầu Trường Tiền Hiển Lâm Các Lăng Đồng Khánh
Miền Trung Việt Nam trong lịch sử đã được gọi bằng các tên khác nhau như Trung Kỳ (là tên gọi do vua Minh Mạng đưa ra cho phần giữa của Việt Nam kể từ năm 1834), An Nam (theo cách gọi của người Pháp) và Trung phần (thời Việt Nam Cộng hòa).
Tây Nguyên thường được gộp vào Trung Bộ, đôi lúc có tài liệu gọi vùng này bằng tên ghép Miền Trung – Tây Nguyên. Tên gọi Trung Bộ được dùng sau khoảng thời gian vua Bảo Đại thành lập đơn vị hành chính cấp vùng cao hơn tỉnh vào năm 1945, thay cho tên gọi Trung Kỳ gợi nhớ thời kỳ bị Pháp đô hộ, và còn được các tài liệu chính thức của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sử dụng. Tên gọi này cũng được nhiều người tiêu dùng cho đến ngày nay.
Ngoài ra còn tồn tại một danh xưng khác là Trung phần, phát xuất từ việc vào năm 1949, Quốc trưởng Bảo Đại cho thành lập đơn vị hành chính cấp Phần, với tính năng tương tự cấp Bộ năm 1945. Về sau, chính phủ Việt Nam Cộng hòa cũng thường dùng danh xưng này cho đến tận khi sụp đổ vào năm 1975. Sắc lệnh số 143-𝓐/TTP của Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ngày 23/10/1956 đã quy định gọi Bắc Việt, Trung Việt, Nam Việt tương ứng là Bắc Phần, Trung Phần, Nam Phần. Tây Nguyên được Việt Nam Cộng hòa gọi là Cao nguyên Trung phần (trước đó gọi là Cao nguyên Miền Nam). Theo Sắc lệnh số 147-𝓐/NV của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ngày 24/10/1956 thì Trung Phần gồm Cao nguyên Trung phần và Trung nguyên Trung phần.
Các nhà cung cấp hành chính
Trung Bộ bao gồm 19 tỉnh được chia làm 3 tiểu vùng:
- Bắc Trung Bộ gồm có 6 tỉnh
- Nam Trung Bộ gồm có 8 tỉnh và tp
- Tây Nguyên gồm có 5 tỉnh
Hai vùng Bắc Trung Bộ và Nam Trung Bộ được gọi chung là Duyên hải miền Trung. Khối núi Bạch Mã, nơi có đèo Hải Vân được xem là ranh giới giữa Bắc và Nam Trung Bộ.
Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ có khi được gọi tắt là Nam Trung Bộ, làm cho nhiều người hiểu là Nam Trung Bộ và Tây Nguyên tách riêng, từ đó một số tài liệu cũng gọi tách ra như vậy.
Hiện tại, vùng Trung Bộ có diện tích 151.234 km² với số dân 26.460.660 người , trung bình 175 người trên 1 km².
Danh sách các tỉnh thuộc Trung Bộ
Văn hóa
Trung Bộ, ngoại trừ các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh, đây từng là nơi định cư của các tiểu vương quốc Chăm. Vì vậy dấu hiệu cơ bản văn hóa vùng miền đa số mang dấu vết của văn hóa Chămpa. Nhiều di sản văn hoá hữu thể còn tồn tại từ thời đó đến nay như tháp Chăm ở Huế, tháp Đôi Liễu, Cốc Thượng, Núi Rùa ở Quảng Nam, Đà Nẵng được xem như những đại diện tiêu biểu cho các thời kỳ phát triển văn nghệ và thiết kế so với lịch sử của nền văn hoá Trung Bộ.[6]
So sánh với 2 vùng Bắc Bộ và Nam Bộ thì Trung Bộ trổ tài sắc nét là một vùng đệm mang tính trung gian. Nơi đây phần nào đã chịu sự tác động từ các yếu tố tự nhiên là núi non, biển, sông ngòi, các đầm và đồng bằng, vào trong các thành tố văn hoá vùng. Trổ tài qua các loại hình văn hóa, tập tục xã hội nói chung và cuộc sống trong các làng, xã đồng bằng ven biển nói riêng. Các làng nghề nông nghiệp, ngư nghiệp, thủ công, có hoạt động hòa trộn, trợ giúp nhau. Điển hình là các ngày lễ cúng đình của làng nghề nông nghiệp và đồng thời là lễ cúng cá ông của làng nghề đánh cá, phần do vùng Trung Bộ gồm có những tiểu đồng bằng nhỏ hẹp, bám sát vào các chân núi ven biển.
Khí hậu quanh năm trong vùng không được thuận tiện và tính chất văn hoá vùng miền chịu sự chi phối mạnh của điều kiện tự nhiên vốn luôn khắc nghiệt này. Tuy văn hóa Trung Bộ có những dấu hiệu tách biệt với các vùng khác, nhưng xuất phát từ hệ thống địa lý liền một dải, lại có mối quan hệ tương hỗ giữa các vùng miền trong lịch sử phát triển nên vừa có tính đặc trưng lại vừa tương đồng với nền văn hoá chính thể.
Kinh tế
Đặc điểm giống nhau
Kinh tế miền Trung với sự tập trung là 5 tỉnh kinh tế trọng tâm, có nhiều lợi thế về vị trí kế hoạch bao gồm nguồn nhân lực, 17 cảng biển, 15 khu kinh tế, 22 khu công nghiệp, 2 khu chiết xuất, 8 sân cất cánh, 2 xa lộ xuyên Việt, hành lang kinh tế Đông Tây và những dự án hàng chục tỷ USD. Tuy nhiên, hiện tại các tiềm năng sẵn có đó vẫn chưa phát huy được lợi thế kinh tế vùng miền nói chung khi các tỉnh, thành đều có những ưu thế nhưng chưa được quy hoạch tổng thể, đang còn tồn tại sự phát triển lao động sản xuất manh mún, tự phát. Các cảng biển nước sâu Vũng Áng – Sơn Dương (Hà Tĩnh), Chân Mây (Thừa Thiên Huế), Tiên Sa (TP Đà Nẵng), Kỳ Hà (Quảng Nam) và Dung Quất (Quảng Ngãi) không được hoạt động với công suất tối đa tối đa. Các khu công nghiệp – chiết xuất đang trong tình trạng thiếu vắng các doanh nghiệp trong và ngoài nước trú trọng và quan tâm đầu tư.[7]
Vùng kinh tế trọng tâm
Các khu vực kinh tế trọng tâm của miền Trung gồm 5 tỉnh (Đà Nẵng, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi], Bình Định,) với tổng diện tích khoảng 27.884km2, dân số năm 2006 vào khoảng 6,2 triệu người và dự đoán đến 2025 là 8,15 triệu người [8]. Các khu vực kinh tế này không chỉ có vai trò là động lực xúc tiến sự phát triển kinh tế – xã hội của khu vực miền Trung và Tây Nguyên mà còn tồn tại vị trí trọng yếu trong kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội cả nước về địa lý, kinh tế, chính trị, văn hóa và an ninh quốc phòng. Là mặt tiền của tiểu vùng sông Mekong, từ đây có thể giao thương với các nước như Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanma và xa hơn là các nước Nam Á và vùng Tây Nam Trung Quốc qua các trục hành lang Đông – Tây, quốc lộ 9, đường 14, đường 24, đường 19.
Năm 1994, Chính phủ phê duyệt dự án cảng biển nước sâu và Khu công nghiệp Dung Quất đã ra đời vùng kinh tế trọng tâm kéo dài từ Liên Chiểu (Đà Nẵng) đến Dung Quất (Quảng Ngãi), tạo dựng trục phát triển công nghiệp và du lịch xuôi theo vùng duyên hải từ Đà Nẵng đến Dung Quất cùng với chuỗi đô thị đang phát triển trải dài 558 km theo bờ biển, gồm Huế, Đà Nẵng, Hội An, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Quy Nhơn và các khu kinh tế lớn như Chân Mây – Lăng Cô, Chu Lai, Dung Quất, Nhơn Hội. Sau đó 2 năm (năm 1996) dự án cảng biển nước sâu và Khu công nghiệp thương mại – du lịch và dịch vụ Chân Mây ra đời kéo theo sự phát triển vùng kinh tế trọng tâm ra đến Thừa Thiên – Huế. Tiếp đó năm 2004, việc phê duyệt dự án cảng biển nước sâu và Khu kinh tế Nhơn Hội kéo theo sự mở rộng vùng kinh tế trọng tâm về phía Nam đến Bình Định.
Du lịch
Phố cổ Hội An
Từ năm 1993, khi cố đô Huế và tiếp này là đô thị cổ Hội An, Mỹ Sơn, nhã nhạc cung đình Huế, vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng lần lượt được thừa nhận là di sản văn hóa toàn cầu đã tạo ra một dáng vẻ mới cho sự phát triển nghề du lịch miền Trung. Nơi đây còn tồn tại trên 80 di tích lịch sử, văn hóa đã được xếp hạng, nhiều bờ biển đẹp nhất Việt Nam và một số hệ sinh thái điển hình như đầm phá, vùng cát, san hô.
Gắn với hành lang kinh tế Đông – Tây bởi các cửa khẩu quốc tế trên biên giới Việt Nam – Lào gồm có cửa khẩu Cầu Treo (Hà Tĩnh), cửa khẩu Chalo (Quảng Bình), cửa khẩu Lao Bảo (Quảng Trị), cửa khẩu Đắc Ốc (Quảng Nam), cửa khẩu Bờ У (Kon Tum); Các bãi tắm, vịnh đẹp dọc biển miền Trung; Các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, di sản thiên nhiên phục vụ việc tham quan – tìm hiểu (từ Phòng Nha đến Huế, Hội An, Mỹ Sơn…); Những thương hiệu ẩm thực miền Trung tập trung vào các món ăn Huế và nhất là các món ăn đặc sản nổi tiếng biển; Những trung tâm sắm sửa, sản xuất hàng lưu niệm thỏa mãn nhu cầu mua bán của khách du lịch; Các lễ hội được tìm hiểu và mở rộng trong nhiều địa phương. Chính là những điều kiện đã trở thành chuỗi sản phẩm du lịch thu hút sự phát triển kinh tế cho toàn vùng.
Tổng nguồn vốn đầu tư cho kinh tế du lịch miền Trung và Tây Nguyên cho đến năm 2005 là 240,6 triệu USD và cho thời kỳ đầu tư phát triển tiếp theo từ năm 2006 đến năm 2010 là 1.131 triệu USD.[9]
Du lịch miền Trung, khách du lịch sẽ có thời cơ tận hưởng những bờ biển tuyệt đẹp như bờ biển Sầm Sơn, Cửa Lò, Thiên Cầm, Nhật Lệ, Cửa Tùng, Thuận An, Cảnh Dương, Lăng Cô, Mỹ Khê, Cà Ná, Cửa Đại, Quy Nhơn, Nha Trang, Mũi Né. Bờ biển Mỹ Khê (Đà Nẵng) còn được tạp chí uy tín hàng đầu của Mỹ, Forbes chọn là một trong 6 bờ biển quyến rũ nhất hành tinh. Vịnh Nha Trang (Khánh Hòa) và vịnh Lăng Cô (Thừa Thiên-Huế) là 2 trong số 3 vịnh biển của Việt Nam được kết nạp vào CLB các vịnh biển đẹp nhất toàn cầu. Vịnh biển còn sót lại là vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) nằm ở miền bắc Việt Nam. Du lịch sông nước là một trong những nét quyến rũ của miền Trung, khách du lịch có thể xuôi theo dòng sông Hương, ngắm cảnh sắc đẹp và tĩnh lặng như tranh thủy mặc. Phố cổ Hội An – một trong 10 điểm dừng chân tuyệt vời nhất châu Á do tạp chí Smart Travel Asia bình chọn. Một vị trí lý tưởng du lịch miền Trung nữa là Đại nội kinh thành Huế, đặc biệt sinh động với cảnh sắc Đại nội trong ánh đèn đêm. Nghề du lịch miền Trung mang cả sự hiện đại và năng động, phối hợp trong này là những nét văn hóa truyền thống dân gian, dân tộc.
Danh lam thắng cảnh
Khu vực duyên hải miền Trung
- Bờ biển Sầm Sơn: Thuộc tp Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Bờ biển Sầm Sơn do người Pháp khai thác từ năm 1906 và đã nhanh chóng trở thành nơi nghỉ mát của Ðông Dương.
- Bờ biển Cửa Lò: Thuộc thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An. Bờ biển Cửa Lò là một trong những bãi tắm đẹp ở Việt Nam, nằm giữa quần thể du lịch – văn hóa của xứ Nghệ.
- Ngã ba Đồng Lộc: Nằm ở giao điểm của tỉnh lộ số 5 và quốc lộ 15, thuộc địa phận huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Trong những năm chiến tranh, ngã ba Ðồng Lộc là cửa ngõ giao thông từ miền Bắc và đường mòn Hồ Chí Minh.
- Thiên Cầm: Nằm ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Từ đầu thế kỷ XX, người Pháp đã cho xây dựng Thiên Cầm thành một khu nghỉ mát.
- Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng (di sản thiên nhiên toàn cầu): Thuộc huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Đây là một phần của khu vực núi đá vôi cổ nhất ở châu Á được tạo lập từ hơn 400 triệu năm trước. Năm 2003, Phong Nha Kẻ Bàng được UNESCO thừa nhận là Di sản Toàn cầu. Di sản toàn cầu thứ năm của Việt Nam.
- Địa đạo Vịnh Mốc: Thuộc huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Địa đạo Vịnh Mốc được đào trong vòng 2 năm. Hệ thống đường hầm có tổng chiều dài gần 2 km, chia thành 3 tầng. Địa đạo được thiết kế như một làng dưới mặt đất với 94 căn hộ gia đình, có giếng nước ngọt, hội trường, nhà hộ sinh, phòng phẫu thuật, bếp Hoàng Cầm.
- Kinh thành Huế: Nằm ở bờ bắc sông Hương và thuộc địa phận Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Tổng thể di tích này đã được UNESCO thừa nhận là di sản văn hoá toàn cầu.
- Bảo tàng điêu khắc Chămpa: Xây dựng từ năm 1915 dưới sự bảo trợ của Viện tìm hiểu Viễn Ðông Pháp tại Việt Nam. Bảo tàng điêu khắc Chàm xây phỏng theo mô típ của các thiết kế Chămpa.
- Ngũ Hành Sơn: Thuộc phường Hoà Hải, quận Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng. Ngũ Hành Sơn gồm có 5 ngọn: Thuỷ Sơn và Mộc Sơn ở phía đông, Thổ Sơn, Kim Sơn, Hoả Sơn ở phía tây.
- Di sản văn hóa Thánh địa Mỹ Sơn: Thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Mỹ Sơn là thánh địa Ấn Độ giáo của vương quốc Chămpa. Những đền thờ một bộ Linga hoặc hình tượng của thần Siva, là Đấng bảo lãnh của các dòng vua Chămpa.
- Phố cổ Hội An: Là mẫu tiêu biểu về một cảng thị truyền thống Đông Nam Á trong thời kỳ thế kỷ XV – XVI. ι
- Vịnh Văn Phong: Thuộc huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, cách tp Nha Trang khoảng 80 km về phía bắc. Vịnh Văn Phong được Hiệp hội Biển toàn cầu thừa nhận là một trong bốn vịnh có vị trí du lịch biển lý tưởng nhất hiện tại.
- Bờ biển Đại Lãnh: Thuộc địa phận huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, cách Nha Trang khoảng 80 km. Là một trong những bờ biển có vẻ đẹp thiên nhiên vị trí thứ nhất.
- Khu bảo tồn biển Hòn Mun: Nằm ở phía nam vịnh Nha Trang, tp Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
- Tháp Bà Pô Nagar: Nằm bên cửa sông Cái và quốc lộ 1A, thuộc phường Vĩnh Phước, phía bắc tp Nha Trang.
- Mũi Né: Là tên một làng chài, cách trung tâm tp Phan Thiết 20 Km. Mũi Né có nhiều bờ biển nguyên thủy, chưa có sự khai thác của loài người, khung cảnh nguy nga, môi trường thiên nhiên trong lành.
Khu vực cao nguyên miền Trung
- Hồ Xuân Hương: Toạ lạc trung tâm tp Đà Lạt. Hồ được mang tên Xuân Hương từ năm 1953, là nữ sĩ thơ Nôm Hồ Xuân Hương người Việt Nam thế kỷ thứ XIX.
- Thung lũng Tình Yêu: Nằm cách trung tâm tp Đà Lạt chừng 5 km về phía bắc.
- Ga Đà Lạt: Tuyến đường tàu nối Đà Lạt với Tháp Chàm (Tourcham), khánh thành năm 1938 và được nhìn nhận là nhà ga đẹp nhất Đông Dương lúc bấy giờ.
- Thiền viện Trúc Lâm: Tọa lạc bên hồ Tuyền Lâm trên núi Phượng Hoàng, thuộc phường 3 tp Ðà Lạt. Chùa do hòa thượng Thích Thanh Từ tạo dựng từ đầu thập niên 90.
- Biển hồ Tơ Nưng: Nằm ở xã Biển Hồ, tp Pleiku, tỉnh Gia Lai. Biển hồ Tơ Nưng nguyên là một miệng núi lửa ngừng hoạt động đã hàng trăm triệu năm.
- Nhà mồ Tây Nguyên: Tồn tại ở hầu như các tỉnh khu vực Tây Nguyên. Nhà mồ Tây Nguyên được xây cất theo phong tục tang lễ, có trang trí nhiều tượng gỗ.
Hình ảnh Trung Bộ
<centervàgt;
-
Thành nhà Hồ
Thanh Hoá -
Phong Nha-Kẻ Bàng
Quảng Bình -
Chùa Thiên Mụ
Huế -
Ngũ Hành Sơn
Đà Nẵng -
Tượng Phật ngồi
Chùa Long Sơn
Nha Trang -
Đèo Cả
Đại Lãnh, Khánh Hòa -
Tháp Đôi
Quy Nhơn, Bình Định -
Tháp Hòa Lai
Ninh Thuận -
Các cô gái Chăm
Phan Rang -
Đèo Ngoạn Mục
-
Tp Nha Trang
-
Nhà người Chăm
-
Nhà dài người Êđê
-
Thiếu nhi Êđê
-
Thuyền độc mộc
của người Êđê
Xem thêm
Chú thích trang
Link ngoài
Ƭ
Ƭ
Thể loại: Vùng của Việt Nam
Xem thêm những thông tin liên quan đến đề tài các tỉnh miền trung việt nam
Phân tách 63 tỉnh tp theo 3 miền Bắc Trung Nam || ĐỊA LÍ NEW
- Tác giả: ĐỊA LÍ NEW
- Ngày đăng: 2021-11-26
- Nhận xét: 4 ⭐ ( 8395 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Lãnh thổ Việt Nam trải dài từ Bắc xuống Nam, từ hơn ba trăm năm nay đã tạo nên 3 miền địa lý là Bắc Bộ, Trung Bộ, và Nam Bộ. Đây là kết quả của quá trình Nam tiến kéo dài suốt một ngàn năm trong lịch sử Việt Nam.Cách gọi Bắc Bộ, Trung Bộ, và Nam Bộ có từ những năm 1945; trước đó ba miền được gọi là Bắc Kỳ, Trung Kỳ, và Nam Kỳ. Hiện tại toàn lãnh thổ Việt Nam được tổ chức thành 63 nhà cung cấp hành chính cấp tỉnh, được xếp vào 3 miền , Miền Bắc. Miền Trung, miền Nam. Tuy nhiên không phải ai cũng nắm được ranh giới phân tách và danh sách các tỉnh theo 3 miền của nước ta, video ngày ngày hôm nay mình xin trình bày sự phân tách các vùng các tỉnh theo 3 miền, Bắc, Trung, Nam mời toàn bộ các bạn cùng xem hết video nhé.
DIALINEW
Danh sách các tỉnh Miền Trung Việt Nam
- Tác giả: jetstartour.vn
- Nhận xét: 3 ⭐ ( 6829 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm:
Các Tỉnh Thuộc Ba Miền Trung Gồm Những Tỉnh Nào, Miền Việt Nam
- Tác giả: hangjojo.com
- Nhận xét: 4 ⭐ ( 8619 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Bản đồ Miền Trung hay bản đồ các tỉnh tại miền Trung Việt Nam, giúp bạn tra cứu thông tin về vị trí tiếp giáp, ranh giới, địa hình cụ thể thuộc địa phận miền Trung Việt Nam, Chúng tôi BANDOVIETNAM
Danh Sách Các Tỉnh Miền Trung Việt Nam Hiện Nay
- Tác giả: mientrungcogi.com
- Nhận xét: 4 ⭐ ( 6338 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Danh sách các tỉnh miền Trung hiện tại bao gồm: 6 tỉnh Bắc Trung Bộ, 5 tỉnh Tây Nguyên và các tỉnh thuộc vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ.
Nam trung bộ gồm những tỉnh nào
- Tác giả: review.vnhomestay.com.vn
- Nhận xét: 3 ⭐ ( 2884 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Nội dung nội dung Miền trung Việt Nam, dải đất dài chịu nhiều thiên tai bão lũ nối liền hai miền Nam Bắc, danh sách các tỉnh miền Trung Việt Nam được chia làm ba miền địa hình chính bao gồm: Bắc Trung Bộ, Duyên Hải Nam Trung Bộ và
Danh sách các tỉnh thuộc ba miền Bắc, Trung, Nam | Sơ đồ điểm phượt
- Tác giả: thuylucnhattin.com
- Nhận xét: 4 ⭐ ( 5448 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Danh sách các tỉnh thuộc ba miền Bắc, Trung, Nam được chia thành 3 miền: Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ, bao gồm 63 tỉnh thành.
Miền Trung có bao nhiêu tỉnh thành
- Tác giả: bannenbiet.com
- Nhận xét: 3 ⭐ ( 9013 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm:
Xem thêm các nội dung khác thuộc thể loại: giải trí