– LƯỢC SỬ TỔ SƯ MINH ĐĂNG QUANG – tổ sư minh đăng quang

Tam Giáo Quy Nguyên –
Ngũ Chi Hiệp Nhất

Bạn đang xem: tổ sư minh đăng quang

– LƯỢC SỬ TỔ SƯ MINH ĐĂNG QUANG

bia

Ι – Thân thế : Từ niên thiếu đến trưởng thành 

 

Đức Tôn Sư Minh Đăng Quang – vị Tổ Sư khai sáng Giáo Hội Tăng Già – Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam thế danh Nguyễn Thành Đạt, tự Lý Huờn, sinh ngày 26 tháng 9 năm Quí Hợi (nhằm 04 tháng 11 năm 1923) tại làng Phú Hậu, tổng Bình Phú, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long . Ngài xuất thân từ gia đình có truyền thống trọng Nho kính Phật. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Tồn Hiếu. Thân mẫu là cụ bà Phạm Thị Tỵ (tự Nhàn). Khi Thành Đạt tròn mười tháng tuổi, cụ bà lâm trọng bệnh và lìa đời, được người cô và bà nội, sau đến kế mẫu Hà Thị Song giáo dưỡng cho ăn học đến lúc trưởng thành. Như đã sẵn có căn lành gieo trồng từ trước, cậu bé Nguyễn Thành Đạt thỉnh thoảng theo cụ ông đến Chùa thắp hương lễ Phật nghe Kinh, tập lần chay lạt. Nhờ đó tâm thương người mến vật được nẩy nở và phát triển. Lại thêm tác động phần nào việc nghe xem kinh sử và trào lưu “Cứu nhân độ thế” đương thời, nên có lần Thành Đạt xin theo cụ ông đi Cao Miên để tìm hiểu về tài phép hay lạ của Lục Tà Keo. Khi trở về Việt Nam, ấn tượng tài phép của Lục Tà Keo vẫn luôn ám ảnh tâm trí người trai trẻ có lòng thương đời mến vật. Đến năm 15 tuổi, bấy giờ tư tưởng “Cứu nhân độ thế” luôn thôi thúc tâm Người. Người quyết định xin phép gia đình sang Cao Miên cầu học pháp mầu. 



Suốt khoảng 3 năm theo thầy học nghiệm phép mầu. Ngài phải đón nhận với bao thử thách cực kỳ khổ sở, nhưng vẫn không sờn lòng, chỉ mong sao sớm được phép mầu. Nhưng Người đã thất vọng, vì những điều nghe biết chưa đủ thỏa mãn tâm nguyện mong cầu. Người quyết định xin thầy trở về Việt Nam. Bấy giờ tuổi đã trưởng thành. 

Trong lúc chờ duyên tiếp tục tầm cầu Chơn Lý độ đời, Thành Đạt xin phép gia đình tìm việc tạm sống. Người đến thăm ông Hội Đồng Nhiều vì đã có lần biết ông tận nơi Lục Tà Keo. Ông là chủ một nhà buôn làm ăn khá lớn ở Sài Gòn. Hội ngộ Thành Đạt, ông rất mừng rỡ mời người hợp tác quản lý việc sổ sách. 

Ông Hội Đồng Nhiều có người con gái nuôi tên Nguyễn Kim Huê, hương sắc mặn mà, khiến Lục Tà Keo đem lòng say đắm. Lục Tà Keo trước đó có tu học làm Lục ở Chùa, có sở trường về khoa phù chú, phù phép, trị bệnh, trừ ma ếm quỷ, và rất được đông đảo bà con hâm mộ, trong đó có Hội Đồng Nhiều. Ông nỗi danh là bậc “Cứu nhân độ thế”, về sau hoàn tục có gia đình, lập nghiệp làm ăn theo đời, nên gọi là Lục Tà. Vì ông có tên Keo nên thường gọi là Lục Tà Keo. Thời dịp ngàn vàng gặp người tâm đắc, ông Hội đồng Nhiều nhanh chóng bàn tính gia đình sớm gả người con gái nuôi mình cho cậu trai khôi ngô tuấn tú Nguyễn Thành Đạt, để cứu Kim Huê khỏi vòng tay háo sắc của Lục Tà keo. 

Thế là đã trở thành duyên nợ ! 

Lại thêm một dây trói buộc, ngày 23 tháng giêng năm 1943 hạ sanh Kim Liên. Vài tháng sau Kim Huê lìa đời. Càng thấm thía cuộc sống đầy vô thường ảo vọng, Người quyết chí tầm cầu Chơn Lý cứu khổ độ sanh. 

II – Xuất gia tầm cầu và chứng đạt đạo lý:

Thành Đạt bấy giờ không đang là một cậu thanh niên tầm thường, chỉ biết tìm vui, sống đuổi theo và tận hưởng những khoái lạc trần gian hạ liệt, mà đã trở thành người thanh niên có nguyện vọng tầm cầu chơn lý cứu khổ muôn loài. 

“Chúng tôi sanh trong thời loạn, Thấy cảnh thương tâm, mong tìm phương cứu chữa …” (Trích Đoàn Du Tăng Chơn Lý Hòa Bình 61). 

Đầu năm 1944, Người từ biệt gia đình, hướng về khu vực Hà Tiên, tìm tàu thuyền ra vùng hoang đảo vì nghe nơi ấy có nhiều ẩn sĩ đạo đức nổi tiếng. Nhưng trể tàu đành ở lại khu vực xuôi theo bờ biển Mũi Nai- Hà Tiên. Qua bảy ngày đêm thiền tọa nơi cảnh núi rừng hoang vắng hướng ra vùng trời biển mênh mông. Vào một buổi sáng tinh sương, khi vầng thái dương vừa ló dạng, tỏa chiếu ánh hồng tràn ngập không gian, Người hướng mắt nhìn xa vùng trời biển bạt ngàn, sóng nước chập chùng. Xa xa ẩn hiện vài chiếc thuyền buồm căng gió trồi hụp lướt phăng, rồi mất hút giữa biển trời hiu quạnh. Người suy niệm về bao nỗi thăng trầm của kiếp sống loài người và bừng sáng đoạn đường thoát ly khổ hải. Người chứng ngộ Lý Pháp nhiệm mầu: “Thuyền Bát Nhã”ngược dòng rẽ sóng cứu vớt chúng sanh”. 

Như để chuẩn bị một sứ mệnh thiêng liêng vô bờ bến, Người trở về viếng thăm gia đình với chiếc áo nâu sòng, đã phủi sạch tóc râu. Người thổ lộ sự chứng ngộ ban đầu và chí nguyện tầm cầu Chơn Lý toàn hảo để hoằng hóa độ sanh của mình, rồi cáo từ gia đình ra đi, đến vùng núi Trà Lơn Thất Sơn bên kia biên giới Cao Miên để ẩn tu, tầm Chơn Sư tham vấn đạo lý. “Năm 1946 nạn khói lửa chiến tranh danh lợi, đốt phá núi rừng, làm cho người tu không chỗ ở …” Minh Đăng Quang rời khỏi xứ Cao Miên, trở về Nam Việt thực hành Giới Luật Tăng Đồ tại tỉnh Mỹ Tho cho đến năm 1948” (trích nguồn Khất Sĩ – Chơn Lý đạo Phật Khất Sĩ 63). Từ vùng Thất Sơn Người về tạm nương ở nơi Linh Bửu Tự theo lời thỉnh cầu của một hiền sĩ, để mở đạo tại làng Phú Mỹ, quận Tân Hiệp, tỉnh Mỹ Tho. Thỉnh thoảng Người có đến viếng thăm tham vấn các bậc danh Tăng, cư sĩ nỗi tiếng đương thời ở vùng Bà Rịa Vũng Tàu và Sài Gòn Gia Định Chợ Lớn. Từ những trải nghiệm qua quá trình nghiên tầm kinh sử và tham vấn đạo lý đó đây, tu sĩ Thành Đạt quyết định đi sâu vào vườn rừng quanh vùng Linh Bửu Tự ẩn dật an định thiền tư, quán niệm ôn xét nhơn duyên và sau cùng đạt thành Chân Lý toàn hảo, LÝ SỰ viên dung. Người đã tỏ sáng dấu chân Chánh Pháp của ba đời, mười phương chư Phật là “Thánh Giới – Thánh Định – Thánh Huệ và Thánh Giải Thoát” . Ngay sáng hôm ấy, tu sĩ Thành Đạt trang nghiêm Tam Bảo điện, tôn trí GIỚI PHÁP CỤ TÚC, TỨ PHẦN LUẬT TẠNG cùng các tư cụ У BÁT … nơi chỗ tôn quý. Thật tâm phát đại nguyện Quy У Tam Bảo thọ trì GIỚI PHÁP. Nguyện vĩnh viễn Tam У Nhất BÁT không lìa thân như chim có hai cánh. Nguyện y cứ Trung ĐẠO TỨ У CHÁNH PHÁP truyền thống, của ba đời chư Phật hướng tới lợi mình lợi người không bỏ sót một ai. Ngài đã xác chứng Chánh Pháp Phật Đà và phát nguyện “Nối Truyền Thích Ca Chánh Pháp”. Từ đó trở thành Tổ Sư khai sáng “Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam” với pháp hiệu Minh Đăng Quang. 

III Thông báo giáo pháp 

Sau thời điểm phát Đại Nguyện Quy У Tam Bảo và thọ trì Giới Pháp. Ngài đắp y mang bát vào xóm khất thực hóa duyên, chiều Ngài nói pháp khuyến tu. Với hạnh tu ít thấy này, đã gây chấn động dân làng Phú Mỹ và lan dần rộng khắp. Có khá nhiều bà con sanh lòng quy ngưỡng. Trong những tháng đầu năm 1947, Ngài đã nhiếp độ đầy đủ cả hai chúng Nam Nữ cư sĩ và hai chúng xuất gia Tăng Ni Khất Sĩ. Cũng tại đấy Ngài soạn thảo nghi thức tụng niệm lễ cúng, chương trình tu học, hành đạo cơ bản cho cư sĩ và Tăng Ni. Ngài quan tâm giáo dưỡng, xây dựng cơ bản hai Tăng Ni Đoàn, tốt về Đạo Hạnh, vững về tri thức Chánh Pháp Phật Đà. Đầu năm 1948, nhân duyên tập hợp đủ Đức Tổ Sư rời Phú Mỹ, khởi phát chuyến du hành trước nhất do Ngài hướng dẫn có hơn 20 Tăng Ni trực chỉ vùng Sài Gòn, Gia Định – Chợ Lớn. Cũng với phương tiện khất thực hóa duyên và thuyết giảng Kinh Pháp khuyến tu nêu trên, Đoàn Du Tăng Khất sĩ do Ngài hướng dẫn đã tác động sâu rộng quần chúng trong vùng. Hội Đình Phú Lâm – Cây Gõ đã phát tâm hiến nền tảng cho Ngài thành lập Tịnh Xá Ngọc Lâm. Thứ đến Hội Chùa Kỳ Viên Bàn Cờ cũng thỉnh cầu như vậy, để cho Đoàn có nơi nương ở tu hocï và mở đạo. Đây là điểm trước nhất Đức Tổ Sư và Đoàn tác pháp An Cư Kiết Hạ 3 tháng.

Sau đó Đoàn xoay hướng hành đạo về vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Ánh Đạo Vàng do Đức Tổ Sư nối Truyền đã nhanh chóng lan toả khắp các tỉnh sông Tiền, sông Hậu và các tỉnh giáp biên giới Cao Miên. Chỉ trong vòng những tháng cuối năm 1948 các Đạo Tràng Tịnh Xá như Pháp Vân, Trúc Viên (Ngọc Thuận) và Ngọc Viên tại trung tâm thị xã Vĩnh Long được thành lập. Cũng với hạnh môn này, nền Đạo Khất Sĩ lan rộng đến các tỉnh miền Đông, nhất là vùng Sài Gòn, Gia Định – Chợ Lớn. Những thành tựu đáng kể nêu trên, đều nhờ ân huệ cao trọng và tôn chỉ mục đích theo đúng Chơn Lý Chánh Pháp của Tổ. Ngoài ra Ngài còn khéo léo ứng dụng phương tiện truyền thông và cơ giới hiện đại đương thời vào công việc hoằng pháp. Ngài đã sử dụng máy vi âm khuyếch đại tiếng động, những đĩa hát được thu âm các bài kệ pháp mang theo xe để phát ra cho nhiều người nghe biết. Ngài minh chứng cho Cư Sĩ Hộ Pháp thành lập nhà máy in Pháp Ấn để in ấn thông dụng những bài giảng Chơn Lý. Mạnh dạn hơn nữa Ngài cho sử dụng xe con, xe 20 chỗ ngồi, để mang Đoàn đi hành đạo khắp xứ. 

IV- Những lời dạy của Đức Tổ Sư :

Xuyên suốt thời gian kể từ ngày Đức Tổ Sư xuất gia tầm Chơn Lý đầu năm1944 đến ngày Đức Tổ vắng bóng 01/02 Giáp Ngọ 1954, tính ra vừa tròn 10 năm. Trong số đó 3 năm đầu dấn thân nơi núi rừng, vườn vùng Thất Sơn Việt Miên và cuối cùng làng Phú Mỹ – Mỹ Tho để tầm cầu Chơn Lý Chánh Pháp Phật Đà, ẩn tu chiêm nghiệm và sau cùng chứng ngộ Chơn Lý toàn hảo. Bảy năm còn sót lại Ngài thực hiện tâm nguyện hành trì Bồ Tát hạnh У Bát khất thực hoá duyên theo Trung Đạo Tứ У Chánh Pháp như Phật Tăng xưa. Suốt 7 năm ròng rã đầy tích cực bằng mọi phương tiện, Đức Tổ đã gầy dựng và phát huy một Tăng Thân tốt đẹp phát triển về số lượng lẫn chất lượng, nhất là về mặt giới hạnh tri thức đều kiêm ưu, có hơn 100 vị. Ngài đã mở mang và thành lập Đạo Tràng Tịnh Xá khắp các tỉnh vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long và miền Đông Nam Việt có trên 30 ngôi. Đức Tổ Sư đã lưu lại nhiều lời dạy quý hiếm qua nhiều hình thức tư liệu lẽ tẻ đó đây. Đặc biệt và nỗi bật nhất là 69 đề tài Pháp Chơn Lý mà Đức Tổ đã tuyên thuyết khắp nơi và lắng đọng lại thành văn bản được in ấn thông dụng cùng khắp. 69 đề tài Pháp Chơn Nguyên nhân Đức Tổ tuyên thuyết đã phản ánh đầy đủ các ý kiến từ tư tưởng nhận thức, đến thực tiễn cuộc sống lợi mình lợi người một cách rõ ràng khế hợp giáo lý chơn truyền của Đức Bổn Sư. 10 quyển đầu, từ Chơn Lý số 1 Võ Trụ Quan đến Chơn Lý Số 10 Chánh Đẳng Chánh Giác, là phần nhận thức cơ bản về các pháp hiện hữu có thắng liệt, khổ vui … của toàn cầu và chúng sanh, trong đó chủ đạo là loài người. Rồi từ đó Đức Tổ nêu rõ những ý kiến, tư tưởng, nhận thức thực tiển đi vào cuộc sống. Ngài phản ảnh những ý kiến, tư tưởng, nhận thức sai lệch mang muôn loài vào cảnh khổ sanh tử và xác nhận những ý kiến, tư tưởng, nhận thức chơn chánh theo chánh pháp Phật Đà mang chúng sanh đến giải thoát chấm hết khổ đau. Từ bài Chơn Lý số 11 đến 20, Đức Tổ trình bày về lối sống cơ bản cho người tu cư sĩ áo trắng và hàng đồ đệ xuất gia Khất Sĩ. Từ bài Chơn Lý số 65 đến bài cuối Chơn Lý số 69 là những bài học cơ bản thiết yếu cho những ai đã trở thành Phật tử cư sĩ và Sa Di tập sự xuất gia Khất Sĩ nam, nữ. Phần Chơn Lý còn sót lại nhằm phân tích xác nhận sự thật hiện hữu: chánh tà, chơn vọng, đời đạo, khổ vui, thiện ác, phải trái, tốt xấu, hay dở..vv.. tương đối và nêu rõ đoạn đường Trung Đạo Chánh Đẳng Chánh Giác giải thoát rốt ráo của bậc Hiền Thánh nhằm xây dựng một toàn cầu Thánh Đức hiền lương và khỏi khổ. Xác nhận pháp môn tu học lợi mình lợi người là : “Người Khất Sĩ chỉ có ba pháp tu vắn tắt là Giới Định Huệ” để hướng tới giải thoát chấm hết toàn thể khổ đau. 


𝒱. Thời Tổ Sư vắng bóng :

Như đã biết trước thời vắng bóng của Ngài không xa và việc hoằng khai mối đạo cơ bản như vậy cũng tạm đủ, Đức Tổ Sư đã chuẩn bị chu đáo mọi tâm nguyện, để thời vắng bóng của Ngài, chúng đồ đệ sẽ không cảm thấy lẻ loi lạc lỏng. Dựa trên dấu ấn Chánh Pháp của ba đời chư Phật là Giới, Định, Huệ và Giải Thoát mà Ngài đã chứng ngộ, Ngài hoàn bị hệ thống trọn bộ bài giảng Chơn Lý Chánh Pháp gồm 69 đề tài để làm“Kim Chỉ Nam” cho đồ đệ khỏi sợ chệch hướng trên lộ trình tu học và hoằng pháp lợi sinh. Ngài đã xây dựng giáo dưỡng các Tăng Ni Đoàn xứng đáng có tri thức giáo pháp cơ bản, đạo hạnh trang nghiêm và đạo lực vững chãi để sẵn sàng thay Ngài lèo lái con thuyền Giáo Hội cứu độ chúng sanh. Hàng bạch y cư sĩ cận sự Nam Nữ nòng cốt, đã có niềm tin vững chắc với nền đạo của Ngài, sẽ là những rường cột hộ pháp trợ duyên đắc lực để bảo tồn và phát huy Chánh Pháp. Ngài đã chọn lựa, xếp đặt các đồ đệ Tăng Ni xứng đáng lãnh đạo các Giáo Đoàn kể cả hành xứ và trụ xứ. Như vậy tâm nguyện hoằng truyền Chơn Lý Chánh Pháp của Ngài bấy giờ được xem là viên mãn. Ngài vẫn bình thường tới lui thăm viếng các Đạo Tràng Tịnh Xá để nói pháp trợ duyên cho cư sĩ và nhắc nhở sách tấn hàng Tăng Ni Khất Sĩ đồ đệ. Một hôm sau thời điểm viếng thăm các tỉnh vùng tiếp giáp biên giới Cao Miên tại Châu Đốc, Long Xuyên, Ngài quay về Tịnh Xá Ngọc Quang – Sa Đéc. Nhân ngày cúng hội 30 tháng Giêng, Ngài tập hợp Tỳ Kheo hành lễ bố tát tụng giới bổn và minh chứng cúng hội, thuyết pháp khuyến tu như thường lệ. Xế chiều Ngài tập hợp các đồ đệ quây quần dưới tàng cây bả đậu để nhắc nhỡ dặn dò những điều tâm quyết về chuyến du ngoạn tu tịnh của Ngài tại “Núi Lửa”. Các đồ đệ ngạc nhiên trước câu nói của Ngài nhưng vẫn chưa hiểu được ý nghĩa sâu xa như vậy nào. Sáng sớm ngày 01 tháng 02 năm Giáp Ngọ 1954 Ngài cùng 3 đồ đệ Giác Thuỷ và chú huệ Giác Pháp cùng tài xế Giác Nghĩa lên chiếc xe con 4 chỗ thẳng tiến về Tịnh Xá Ngọc Viên – Vĩnh Long, đến nơi vào lúc 7 giờ 30 phút. Ngài đến minh chứng một cốc lá bằng cây ván do Phật tử làm xong dâng cúng. Ngài dạy đồ đệ Giác Hội mang mấy ngàn quyển Chơn Lý ra xe, thăm hỏi sách tấn vài Phật Tử cư sĩ thâm tín, rồi lên đường hướng về các tỉnh Hậu Giang. Xe đến bến phà Cái Vồn – Bình Minh thì có lệnh tướng Trần Văn Soái (tức Năm Lửa) cho thuộc hạ mời Ngài và đoàn xe về Tổng Hành Dinh và từ đó biệt tích đến nay. Năm ấy Ngài vừa tròn 32 tuổi. Bấy giờ mới hay lời nói của Ngài đi tu tịnh ở “Núi Lửa” này là lời cảm nhận mầu nhiệm. Sự ra đi đột ngột của Đức Tổ Sư đã để lại trong lòng đồ đệ xuất gia Tăng Ni và Nam Nữ cư sĩ chịu ơn đức dẫn dắt của Ngài một xúc cảm đau buồn vô hạn. Trong giờ phút thiêng liêng trước di ảnh Đức Ngài, chúng con Tăng Ni và Nam Nữ Phật tử khắp các miền Tịnh Xá trên quê hương Việt Nam đồng vân tập về đây thắp nén tâm hương tưởng niệm 53 năm Đức Ngài vắng bóng. Nguyện hồng ân Tam Bảo gia hộ cho chúng con, được ân Đức Tổ Sư từ bi chiếu cố, lai đáo ta bà, dìu dắt chúng con và chúng sanh sớm mau về bến Giác . Chúng con đồng thực tâm cảm niệm.

(Liên Thanh Sưu Tập)

Tư tưởng Phật học của Tổ sư Minh Đăng Quang trong bộ Chơn Lý

(PGVN)

Qua sự tu chứng của chính mình, Tổ sư Minh Đăng Quang đã khéo léo tùy thuận vào hoàn cảnh của quốc gia và loài người mà khai sáng một hệ phái Khất sĩ mang đậm bản sắc đạo Phật của quốc gia và loài người Việt Nam.

Từ hàng ngàn năm qua, sự ra đời của tôn giáo được xem là một trong những là hình thái dấu hiệu ý thức phát triển xã hội. Cũng chính vì vậy mà ngoài việc thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng tâm linh của một phòng ban quần chúng, tôn giáo còn đóng vai trò trọng yếu bởi tác động trực tiếp đó các giá trị văn hóa, đạo đức, nếp tư duy và phương lối sống của loài người. Ở nước ta, tôn giáo rất phong phú, phong phú, mang đậm dấu ấn tâm linh đặc trưng của dân tộc, nhất là các tôn giáo  trong lòng dân tộc. 

Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nước ta bị thực dân Pháp đô hộ, chiến tranh liên tục, dân chúng lầm than, lòng người hoang mang và sợ hãi trước một triều đình thối nát lúc bấy giờ. Xen vào này là những tư tưởng nô dịch của bọn thực dân Pháp càng làm cho lòng người sợ hãi, mất ý chí, bỏ mặc số phận, sống cầu an với thân phận của một người dân trong một quốc gia đang bị nô lệ. 

Lúc này, người dân chỉ biết gởi gấm niềm tin vào đấng thiêng liêng để nguyện cầu sự bình an, từ đây nhiều hình thức mê tín, dị đoan xuất hiện, nhiều người lợi dụng vào niềm tin này mà tạo ra nhiều mê hoặc để mưu cầu cá nhân trong đó có cả nhà sư: “Thầy chùa không hiểu đạo Phật, khinh thường giới luật, có kẻ mượn Phật làm danh, cũng ngày đêm hai buổi công phu, sóc vọng, cũng sám hối như ai, nhưng lại thủ dị cầu kỳ, học thêm bùa ngãi, luyện roi thần, làm bạn với thiên linh cái, đồng nhi, ông lên bà xuống, ngắp vắn, ngắp dài, thư phù niệm chú, gọi là cứu nhân độ thế, nhưng thật ra lợi dụng lòng mê muội của thiện nam tín nữ, mở rộng túi tham, quơ vét cho sạch sành sanh”. 

Trong hoàn cảnh thống khổ như vậy, thì có sự xuất hiện của các bậc chân tu, huyên thâm phật học như: Thích Chí Thành, Thích Thanh Kế, Khánh Anh, Khánh Hòa, Thiện Chiếu và cư sĩ Nhật Sắc… đã mang lại phần nào niềm tin Phật chánh tín cho người dân nói chung và miền Tây Nam bộ nói riêng trên trí não của phật giáo nhập thế. 

Như cư sĩ Nhật Sắc – Thiện Thành (Nguyễn Sinh Sắc) đã nói: “Tu là phải nhập thế, phải xả thân cứu đời mới phát triển đạo được. phật dạy, tu là cứu khổ, cứu nạn chúng sinh. Cái nạn lớn nhất là mất nước, là đem thân làm nô lệ ngoại bang. Chúng sinh hiện đang lầm than, rên siết, đã là người chân tu thì phải ra tay cứu dân, cứu nước…” . 

Nếu như các tôn giáo khác phát triển trên phép tắc và truyền thống giáo điều, thì sự phát triển của Phật giáo lại khởi nguồn từ nền tảng tư tưởng đạo đức truyền thống đặc trưng của dân tộc phối hợp hài hòa với giáo lý Phật-đà. Trong hoàn cảnh xã hội vào những thập niên 40 của thế kỷ trước, dù ở nước ta đã có mặt các tôn giáo nội sinh nhưng sự xuất hiện thêm một tôn giáo nội sinh mới nữa, đó chính là Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam do Tổ sư Minh Đăng Quang sáng lập vào năm 1944, mà ngày nay tất cả chúng ta gọi là Hệ phái Khất sĩ. Vậy sự ra đời của đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam mang ý nghĩa như vậy nào? 

Cũng chính vì nét đặc trưng này đã làm cho 

Sự ra đời của Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam là sự vận dụng một cách sáng tạo từ hai nguồn giáo lý Phật giáo Nam tông và Phật giáo Bắc tông trong sứ mệnh hoằng pháp độ sanh của 

 

Theo nhận định chủ quan của chúng tôi thì Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam vừa là tôn giáo nội sinh của dân tộc, vì nó phát khởi trong lòng dân tộc, lại vừa là một nhánh đạo phát sinh ngay trong lòng Phật giáo tại Việt Nam, điều nhất là nó không xuất phát từ Phật giáo Bắc tông, cũng không phải xuất phát từ Phật giáo Nam tông, đã vậy nó còn phối hợp và ứng dụng hiệu quả hai nền tảng giáo lý vào đoạn đường tu hành của hệ phái một cách hài hòa.Cũng chính vì nét đặc trưng này đã làm cho Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam mang nhiều ý nghĩa sâu xa và thực tiễn, trước hết là nó giải quyết được nhu cầu tu nhân học Phật của một phòng ban quần chúng ở miền Nam nước ta, thứ nữa nó đã góp phần bổ sung cho một số tôn giáo nội sinh đương thời, đồng thời định hướng cho tín đồ đơn giản hơn trong việc hướng tới đoạn đường tỉnh ngộ giải thoát của đạo Phật.Sự ra đời của Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam là sự vận dụng một cách sáng tạo từ hai nguồn giáo lý Phật giáo Nam tông và Phật giáo Bắc tông trong sứ mệnh hoằng pháp độ sanh của Đức Tôn sư Minh Đăng Quang . Sự vận dụng linh hoạt sáng tạo này đã tạo thành nét đặc trưng rất mới lạ của đạo Phật tại Việt Nam.

Sau ngày tạo dựng, Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam không ngừng phát triển và phát triển vượt bật để rồi trở thành Hệ phái Khất Sĩ, một trong những thành viên sáng lập của GHPGVN. Nhìn lại suốt chiều dài lịch sử tạo dựng và phát triển trong suốt 70 năm qua, Hệ phái Khất Sĩ đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp chấn hưng Phật pháp, vào quá trình bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam. 

Những kết quả vô cùng khả quan này đã chứng tỏ chánh kiến, định hướng và phù phù hợp với nhu cầu học Phật thực tiễn của một phòng ban quần chúng ở nước ta. Từ sự phát triển không ngừng cả số lượng lẫn chất lượng của Tăng ni Phật tử trong Hệ phái Khất Sĩ và nhất là từ những kết qủα đã đoạt được trong suốt 70 năm qua, tất cả chúng ta có thể mạnh dạn nói rằng, Hệ phái Khất sĩ đích thực là một tổ chức Phật giáo có xu hướng phát triển và rất đặc trưng của Phật giáo tại Việt Nam.

Nhân dịp “ Đại lễ tưởng niệm 60 năm Đức Tổ sư Minh Đăng Quang vắng bóng ”, Hệ phái Khất sĩ phối phù hợp với Viện Tìm hiểu Tôn giáo thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam và Viện Tìm hiểu Phật học Việt Nam tại Tp Hồ Chí Minh tổ chức Hội thảo Khoa học với đề tài “Hệ phái Khất sĩ: Quá trình hình thành, phát triển và hội nhập”. Để thổ lộ lòng nhớ ơn so với Tổ sư Minh Đăng Quang đã tạo thành một truyền phái Phật giáo mang đậm bản sắc dân tộc Việt, cũng như ghi nhận những đóng góp của ngài nói riêng, của Hệ phái Khất sĩ nói chung với Đạo pháp và Dân tộc, chúng tôi mạo muội đóng góp cùng hội thảo bài tham luận “Tư tưởng Phật học của Tổ sư Minh Đăng Quang trong bộ Chơn Lý”.

Trước khi nói đến “Tư tưởng Phật học của Tổ sư Minh Đăng Quang trong bộ Chơn Lý”, thiết nghĩ tất cả chúng ta cũng nên tổng quan đôi dòng về tư tưởng Đại thừa của Tổ sư Minh Đăng Quang. 

1. Vài nét về tư tưởng Đại thừa của Tổ sư Minh Đăng Quang

Như tất cả chúng ta đã biết, bổn hoài của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chính là độ thoát chúng sanh ra khỏi vòng luân phục sinh tử. Trên ý kiến Phật giáo Đại thừa thì sự thành đạo của đức Phật là kết qủα của một quá trình trải qua hằng hà sa số kiếp không ngừng tu tập và thành tựu hạnh nguyện Bồ Tát “vì xót thương chúng sinh”. Trong lúc đó, Tổ sư Minh Đăng Quang ngay từ khi khởi đầu khai sáng Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam, ngài cũng từng đề cao mục đích độ sanh với tâm nguyện “Nối truyền Thích Ca chánh pháp”. Đây là mục đích tối hậu để tạo dựng nên Hệ phái Khất sĩ ngày nay. Qua đó tất cả chúng ta có thể nhất định tư tưởng vì lợi lạc quần sanh, với tâm nguyện noi gương Phật tăng xưa “Nối truyền Thích Ca chánh pháp”, chính là tư tưởng Đại thừa của một bật Tổ sư khai sáng. 

Xuất phát từ tâm nguyện “Nối truyền Thích Ca chánh pháp”, cùng với sự tạo dựng của giáo đoàn Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam, là sự ra đời của bộ Chơn Lý, gồm 69 tiểu phẩm, nội dung chứa đựng sự hài hòa phối hợp giữa hai luồng tư tưởng Phật học Bắc truyền và Nam truyền Phật giáo. Đồng thời sự vận dụng linh hoạt tư tưởng Đại thừa vào đời sống tâm linh của giáo đoàn Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam đã tạo thành ấn tượng mạnh mẽ trong quần chúng Phật tử và trong giới học Phật đương thời về một bậc Tổ sư xuất hiện tại Việt Nam trong thời kỳ chấn hưng Phật giáo ở nửa đầu thế kỷ XX.

Tư tưởng Đại thừa nối truyền Thích Ca chánh pháp nhằm lợi lạc quần sanh của Tổ sư Minh Đăng Quang ngày càng phát triển sâu rộng trong đời sống tâm linh của Phật tử và Tăng Ni trong Hệ phái Khất sĩ. Ở đây tất cả chúng ta có thể nói ngắn gọn, tư tưởng Đại thừa của Tổ sư Minh Đăng Quang đã được trổ tài một lối sống động qua hai nội dung cơ bản của Hệ phái Khất sĩ, đó chính là “Pháp” và “Tăng”. “Tăng” này là sự kế thừa hành trạng của Phật Tăng xưa, hội nhập và phát triển không ngừng để rồi trở thành Hệ phái Khất sĩ ngày nay. Còn “Pháp” được xem là tư tưởng Đại thừa được dàn trải đều khắp trong bộ Chơn Lý. Cũng ngay trong bộ Chơn Lý, Tổ sư Minh Đăng Quang đã rất coi trọng Pháp bảo: “Pháp bảo là thầy của Phật, là thầy của Tăng và chúng sanh. Vậy nên chúng ta mau mở trí ra mà chứa đựng Pháp bảo. Vì trong đời Pháp bảo là qúy hơn hơn hết” . Đây cũng là nội dung chính mà tất cả chúng ta sẽ bàn sâu vào trong phần tiếp theo của tham luận này. 

Tư tưởng Đại thừa thường được trổ tài qua tâm lượng, hạnh nguyện và việc làm rõ ràng và cụ thể trong qúα trình nhập thế độ sanh. Do vậy một khi nói đến tư tưởng Đại thừa của Tổ sư Minh Đăng Quang, tất cả chúng ta không thể không nói đến hành trình dấn thân nhập thế độ sanh của ngài.

Như tất cả chúng ta đã biết, vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, quốc gia ta bị thực dân Pháp đô hộ, chiến sự triền miên, lòng người ly tán, trình độ dân trí của quần chúng chưa cao, hiện tượng mê tín dị đoan phát triển tràn ngập, trong hoàn cảnh đó thì tại các tỉnh Nam bộ xuất hiện các tôn giáo nội sinh đa số khuyên răn người đời làm lành lánh dữ, ăn chay niệm Phật, hòa trộn với xu thế tâm linh chưa nhất quán rõ ràng là những tư tưởng nô dịch của thực dân Pháp, điều này làm cho lòng người thêm hoang mang và sợ hãi mơ hồ, mờ mịt không điểm dựa. Trước tình cảnh điêu linh thống khổ này thì Tổ sư Minh Đăng Quang xuất hiện và Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam đã ra đời.

Sự có mặt kịp thời của Đạo Phật Khất Sĩ do Đức Tôn sư Minh Đăng Quang khai sáng vào thời điểm này, trước hết nó đã định hướng phương thức tu nhân học Phật một cách rõ ràng và cụ thể, phù phù hợp với gốc rễ trình độ của đại đa số quần chúng đang khao khát đoạn đường giải thoát, khai thông sự bế tắc trong đời sống tâm linh, tạo được niềm tin và sự phấn khởi của quần chúng Phật tử so với đạo Phật đương thời, điều này đã góp phần to lớn trong quá trình chấn hưng Phật giáo trong hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ.

 Trí não vì lợi nhuận tha nhân mang hạnh nguyện nhập thế độ sanh của tư tưởng Đại thừa Phật giáo từng được đức Phật chỉ dạy các vị Tỳ kheo trong giáo đoàn của ngài: “Này các Tỳ kheo, hãy đi khắp nơi vì lợi lạc và hạnh phúc của số đông, do lòng từ bi đối với cuộc đời, vì lợi lạc và hạnh phúc của trời và người” . Minh chứng về tư tưởng Đại thừa của Tổ sư Minh Đăng Quang, tất cả chúng ta có thể nhận thấy trong qúα trình hoằng pháp lợi sanh, dù chỉ thời gian rất ngắn ngủi, vỏn vẹn 10 năm (1944 – 1954) vậy mà Đức Tôn sư Minh Đăng Quang đã thành tựu nhiều Phật sự rất đáng trân trọng. Xuất phát từ tư tưởng Đại thừa, với tâm niệm “Nối truyền Thích Ca chánh pháp” rộng mở đạo tràng, phổ độ thế nhân vào đoạn đường chánh pháp, giáo đoàn du Tăng khất sĩ đã theo gót chân ngài tỏa đi khắp nơi, đến nơi nào thì thâu nhận thêm môn đồ đồ đệ nơi đó, cứ thế chỉ trong một thời gian ngắn, đoàn du Tăng càng ngày càng phát triển lên đến cả trăm người, hệ thống tịnh xá được xây dựng khắp cả miền Nam và mở rộng ra đến các tỉnh miền Trung. Có thể nói, sự tạo dựng nhanh chóng của giáo đoàn du Tăng khất sĩ và quần chúng Phật tử nương theo chư Tăng Khất sĩ tu học phát triển một cách rộng khắp là một minh chứng hùng hồn và thuyết phục về trí não nhập thế độ sanh của tư tưởng Đại thừa Phật giáo.

Thứ nữa, các dấu hiệu của hệ phái Khất sĩ thông qua phương cách tổ chức, điều hành giáo đoàn, công tác Phật sự, nghi thức hành lễ, sinh hoạt tu học cho đến các cụ thể nhỏ như cách ăn mặc, pháp phục… là cả một sự vận dụng uyển chuyển linh hoạt rất tinh tế, vừa mang tính kế thừa chân truyền của Phật Tăng xưa, lại vừa mang tính sáng tạo năng động phù phù hợp với điều kiện thực tiễn và hoàn cảnh thời kì. Đây là nét mới lạ của tư tưởng Đại thừa mà Tổ sư Minh Đăng Quang đã ứng dụng rất thành công trong Hệ phái Khất sĩ. 

Do vậy, trước sự phát triển không ngừng của Hệ phái Khất sĩ trong suốt 70 năm qua đã cho tất cả chúng ta thấy rằng, Tổ sư Minh Đăng Quang là một nhân tố Đại thừa rất tích cực trong quá trình chấn hưng Phật giáo, nhất là trong thời kỳ Phật giáo nước nhà đang gặp khó khăn do hoàn cảnh lịch sử và do cả yếu tố chủ quan ngay trong lòng Phật giáo thời bấy giờ.

Do vậy sự tồn tại của cụm từ Phật giáo Đại thừa tất cả chúng ta nên hiểu, đó không phải để so sánh hay đối lập với cụm từ Phật giáo Tiểu thừa, mà nó hàm ý chỉ về sự dấn thân nhập thế độ sanh theo xu hướng phát triển. Bởi hai chữ Đại thừa ở đây nó mang ý nghĩa là tâm lượng lớn, tầm nhìn lớn, hạnh nguyện lớn. 

Toàn bộ những phẩm chất cao qúy này đều có sẵn và luôn có thời dịp phát triển trong tâm thức của mỗi người con Phật dù họ đang có duyên gắn kết với bất kỳ một tông phái nào trong ngôi nhà Phật giáo.

 

Nói đến Đại thừa Phật giáo, thiết nghĩ tất cả chúng ta cũng nên làm rõ thuật ngữ này một cách chuẩn xác sao cho phù phù hợp với tình hình thực tiễn. Như tất cả chúng ta đã biết, vào năm 1950, Đại hội Phật giáo Toàn cầu khai mạc ở Colombo đã chính thức mang ra quyết định xóa bỏ hẳn danh từ Phật giáo Tiểu thừa, vì nó không còn phù phù hợp với tình hình thực tiễn, nhất là tác động không nhỏ đến sự phát triển của đạo Phật tại một số nước như Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện, Campuchia, Lào… Tuy nhiên kể từ đó đến nay, trong sinh hoạt Phật giáo, tất cả chúng ta vẫn còn sử dụng thuật ngữ Phật giáo Đại thừa một cách rộng rãi trong giáo lý và trong nội dung hoằng pháp.Do vậy sự tồn tại của cụm từ Phật giáo Đại thừa tất cả chúng ta nên hiểu, đó không phải để so sánh hay đối lập với cụm từ Phật giáo Tiểu thừa, mà nó hàm ý chỉ về sự dấn thân nhập thế độ sanh theo xu hướng phát triển. Bởi hai chữ Đại thừa ở đây nó mang ý nghĩa là tâm lượng lớn, tầm nhìn lớn, hạnh nguyện lớn.Toàn bộ những phẩm chất cao qúy này đều có sẵn và luôn có thời dịp phát triển trong tâm thức của mỗi người con Phật dù họ đang có duyên gắn kết với bất kỳ một tông phái nào trong ngôi nhà Phật giáo.

Xuất phát từ khái niệm trên, tất cả chúng ta có thể hiểu theo một cách nhìn khác súc tích hơn, Đại thừa chính là sự khéo léo tùy duyên, thuận theo tình cảnh mà linh hoạt diệu dụng để làm tốt hơn nữa sứ mệnh hoằng pháp lợi sanh. Và điều này Tổ sư Minh Đăng Quang đã rất thành công trong việc tổ chức, điều hành, phát triển giáo đoàn trong suốt thời gian ngài còn tại thế. 

Thật vậy, khi nhìn vào những dấu hiệu nổi trội trong tổ chức cũng như qúα trình phát triển giáo đoàn của hệ phái Khất sĩ, tất cả chúng ta cũng không thể ngờ trước sự vận dụng rất sáng tạo và phối hợp hài hòa giữa hai truyền thống Phật giáo Nam tông và Phật giáo Bắc tông của Tổ sư Minh Đăng Quang. 

Ví dụ so với việc kế thừa truyền thống Phật giáo Bắc tông, Tổ sư Minh Đăng Quang đã thực hiện việc ăn chay nhằm tăng trưởng lòng từ bi thương xót muôn loài cũng như trợ duyên cho công phu tu tập, trong công tác tổ chức giáo đoàn ngài đã thâu nhận đồ đệ nữ giới, cho họ xuất gia tạo dựng đoàn Ni giới của hệ phái. Về mặt giáo lý, ngài đã tận tâm thuyết giảng kinh Pháp Hoa, kinh 𝓐 Di Đà… để triển khai về các khái niệm Chân như, Phật tính. 

So với việc kế thừa truyền thống Phật giáo Nam tông, ngài đã chọn hình thức y bát, khất thực, ăn đúng giờ ngọ theo truyền thống Phật Tăng xưa như thời Phật còn tại thế. Về mặt giáo lý, ngài đã nêu cao trí não y bát chơn truyền, cũng như lưu tâm đến đoạn đường tu tập hướng tới đạo qủα tối thượng là 𝓐 la hán. 

Một dấu hiệu nổi trội nữa, này là sự thực hành Tứ У Pháp Trung Đạo, nghĩa là người xuất gia chỉ được ăn thực phẩm khất thực được, tuy nhiên vẫn có thể được thọ thực tại tịnh xá vào những ngày lễ hội hay thuyết pháp, người xuất gia đúng Luật khất sĩ thì chỉ dùng y bát, tuy nhiên vẫn có thể tùy nghi nhận pháp phục nếu có người dâng cúng, người xuất gia phải nghỉ dưới cội cây, nhưng vẫn có thể trú ngụ nơi am cốc nếu có thí chủ cúng dường, người xuất gia trong lúc đau vẫn được dùng thuốc men nếu có người cúng. 

Tuy nhiên do hoàn cảnh và điều kiện xã hội ngày càng phát triển, trí não Tứ У Pháp Trung Đạo ngày nay đã mai một, nhưng chính sự cách tân để thuận theo thời kì cũng từng nói lên hướng tích cực nhạy bén của tư tưởng Đại thừa, đó chính là sự uyển chuyển linh hoạt để phù phù hợp với tình hình thực tiễn, nhằm thỏa mãn nhu cầu tu hành và hoằng pháp lợi sanh. 

 2. Tư tưởng Phật giáo Đại thừa trong bộ Chơn lý

Trước hết chúng tôi xin mang ra nhận định, bộ Chơn Lý là bộ giáo lý trước nhất của Phật giáo Khất Sĩ tại Việt Nam hoàn toàn được Việt hóa, là bộ giáo lý trước nhất đã phối hợp và dung hòa được hai nền tảng giáo lý Phật giáo Bắc tông và Phật giáo Nam tông. Đây là nét mới lạ trước nhất về mặt giáo lý của Hệ phái Khất sĩ.   

Như tất cả chúng ta đã biết, Tổ sư Minh Đăng Quang thành lập Đạo Phật Khất Sĩ trong hoàn cảnh quốc gia ta bị thực dân Pháp đô hộ, lòng người ly tán, trình độ dân trí của quần chúng còn thấp kém, hiện tượng mê tín dị đoan phát triển tràn ngập… Thập niên 30 – 45 là thời kỳ mà quốc gia ta chịu dưới hai tầng áp bức nửa thực dân, nửa phong kiến, các nhà địa chủ, cường hào ác bá ra sức áp bức bóc lột những người làm thuê, làm mướn. Trong hoàn cảnh khốn cùng như vậy điểm dựa trí não duy nhất cho mọi người là tôn giáo. 

Nhưng trong thời kỳ này, Phật giáo Việt Nam cũng suy vi đến mức độ cùng cực: “Các cảnh chùa trong nước đã trở thành là những cảnh gia đình riêng, không còn gì là tính cách đoàn thể của một Tôn giáo nữa. Họ sống trong Phật giáo chỉ còn là dốt và quên! Quên để khỏi biết đến bổn phận, bổn phận chơn chánh của một người tăng đồ…” ;  “ Phật giáo hiện thời đã có phần chấn hưng, nhưng có một trở lực mà chưa có Hội nào, hay một Sơn môn nào giải quyết, đó là cổ động thì hội nào cũng cổ động bằng quốc văn là nền văn phổ thông, nhưng kho tàng, kinh điển triết lý nhà Phật thì con  nằm nguyên khối bằng Hán văn. 

Vả lại dấu tích điêu tàn của ngày qua hiện nay vẫn còn lưu hành rõ rệt và có thế lực, nên thật ra cả mấy hội Phật học ấy ngoài mấy việc xây hội quán, làm chùa và cổ động một số đông người quy y, còn chưa hội nào làm được việc gì vĩ đại có vẻ đỉnh cách cho nền Phật giáo cả. Trong lúc này, đại đa số tăng đồ trong các sơn môn vẫn đương mơ màng thiêm thếp, chưa làm một việc gì tỏ rõ là người thức tỉnh. Cho nên, tuy hiện giờ có phong trào chấn hưng mà kỳ thật mới là chấn hưng hình thức và danh hiệu” .

Trong hoàn cảnh như vậy, bộ Chơn Lý đã được Tổ sư Minh Đăng Quang hướng tới những mục tiêu nối liền với yêu cầu nhận thức và tu tập của giáo đoàn, đồng thời định hướng cho đa số quần chúng có nhu cầu tìm hiểu về giáo lý nhà Phật đơn giản cảm nhận những tinh hoa của Phật pháp. 

Mặt khác, hệ thống giáo lý Phật đã thông qua bộ Chơn Lý đã được lắng đọng một cách súc tích bằng lối miêu tả thân thiện, dễ hiểu, mà không làm lệch đi chánh kiến cũng như không mất đi chánh nghĩa, vì vậy mà bộ Chơn Lý sớm trở thành kim chỉ nam tu hành cho chư Tăng ni cùng Phật tử của Hệ phái Khất sĩ trong suốt gần bảy thập niên qua. Đây cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ giáo lý của hệ phái Khất sĩ có tên Chơn Lý.  

Như chúng tôi đã trình bày, tư tưởng Đại thừa là tư tưởng vì lợi nhuận tha nhân, là tư tưởng xuất phát từ hạnh nguyện độ sanh và hoằng dương chánh pháp, mà tư tưởng này lại luôn sẵn sàng trong hành trang của mỗi người con Phật, do vậy không riêng gì so với hệ phái Khất sĩ mà so với toàn bộ tông phái khác cũng luôn hướng tới mục đích “Cứu khổ chúng sanh là cúng dường chư Phật” và lấy đó làm lý tưởng sống đạo. 

Mặt khác, tư tưởng Đại thừa nay đã không còn đối tượng Tiểu thừa để so sánh hay biện chứng, cũng chính vì điều này mà tất cả chúng ta nên tìm hiểu về tư tưởng Phật giáo Đại thừa trong bộ Chơn Lý ở góc độ những nét đặc trưng của nội dung giáo lý Phật đà đã được Tổ sư Minh Đăng Quang chuyển ngữ thành công trong bộ Chơn Lý và nhất là mục đích vì lợi nhuận cho tha nhân.    

Trên trí não vận dụng rộng rãi giáo lý Phật Đà theo phép tắc khế lý khế cơ, nghĩa là trên phù hợp với Phật lý, dưới ứng với gốc rễ của các tầng lớp quần chúng khác nhau trong đời sống xã hội, không ngoài mục đích dẫn dắt người đời quay về nẻo giác, do vậy trong bộ Chơn Lý, Tổ sư Minh Đăng Quang đã phủ nhận ngay những ý niệm phân biệt, phân tách giữa các tôn giáo có nền tảng từ bản ngã, đồng thời nêu cao trí não hòa hợp vì mục đích lợi tha, tư tưởng Đại thừa này đã được Tổ sư nhất định: “Đạo là con đường của tất cả chúng sanh chứ không có tên gì cả. Giáo là sự dạy học để tu hành chứ không phải tôn giáo gì cả. Phái là sự làm việc, giúp ích cho nhau chứ không phải phái gì cả” . 

Tầm nhìn xa trông rộng và với tấm lòng tha thiết độ sanh xuất phát từ tư tưởng Đại thừa, ngay từ những ngày đầu hành đạo, Tổ Sư đã mong mỏι sự thống nhất trong ngôi nhà Phật giáo ngõ hầu lợi lạc quần sanh: “Sự thống nhất Tăng đồ nhà Phật trên thế giới lại, để cứu thế, lập niết bàn hiện tại cho phải dịp… không có Đại hay Tiểu thừa gì, không có chia rẽ hơn thua chi chi nữa”. 

Tư tưởng Đại thừa trong bộ Chơn Lý càng trổ tài sắc nét hơn khi Tổ sư mang ra nhận định về Chơn lý: “Chơn lý là trường học chung của tất cả, không phải là đời hay đạo, không phải là tôn giáo, đảng phái, chủ nghĩa giáo phái nào cả”. Khi nói về đạo Phật, thông qua “Quyển Đạo Phật”, ngài miêu tả rất ngắn gọn nhưng đã nói lên đầy đủ ý nghĩa, mục đích cũng như bản chất của đạo Phật: “Quyển Đạo Phật này có ra là để chỉ rõ con đường giác ngộ, bởi giác ngộ mới là Đạo Phật. Quyển Đạo Phật này ra đời với tính cách siêu nhiên, không cần dư luận, không thiên tư, không chỉ trích. Mà chơn lý, công lý, chỉnh đốn chấn hưng, giác ngộ, khuyến khích theo ý muốn của khắp người người” .

Thật ra trí não Đại thừa là kế thừa nền tảng cơ bản của giáo lý và vận dụng nó một cách trí tuệ để khơi nguồn tuệ giác tuôn chảy vào đời sống nhân gian, chứ không phải cải biên, thay đổi hay hiện đại hóa, vì lẽ đó vì thế những lời dạy vàng ngọc của đức Phật đã được bảo lưu vẹn toàn trong suốt trên 2550 năm qua, tuy nhiên để thỏa mãn nhu cầu tu tập cho Tăng ni trong giáo đoàn, Tổ sư Minh Đăng Quang đã khéo léo trong việc truyền đạt nội dung, ví dụ so với giới xuất gia, khi khái niệm về Khất sĩ, ngài đã sử dụng từ ngữ thật đơn sơ, dễ hiểu nhưng vẫn lột tả được trí não giải thoát của Khất sĩ: “Các Ngài nói mình Khất sĩ là để giữ cái gốc vốn chơn như không tham vọng. Các Ngài nhớ mình Khất sĩ là để cho ý muốn tham chẳng còn sanh. Các Ngài thực hành Khất sĩ là để cho thấy rõ cái không không của tham vọng. Khất sĩ là giải thoát trói buộc, phiền não vô minh vọng động, để sống bằng chơn như, trí tuệ, an lạc, thong thả, rảnh rang không còn tạo nghiệp thì luân hồi sanh tử, khổ não mới đặng dứt”.

Cũng nói về Khất sĩ, nhưng trong một đoạn khác, ngài đã nêu lên hành trạng và bản hoài của hành giả Khất sĩ rất sâu sắc: “Người thật hành đúng theo chơn lý gọi là Khất sĩ. Khất ấy là xin, sĩ đây là học. Xin ấy rồi lại cho, học đây rồi lại dạy, xin thực phẩm để nuôi thân giả tạm, cho sự thiện lành bằng phước đức để bảo giữ sự sống dài lâu” . Còn so với giới cư sĩ tại gia, ngài đã khuyên răn họ đừng qúα đuổi theo đời sống vật chất thế gian mà hãy thực hiện một đời sống tri túc: “Ở đời có vật chất cũng chết khổ, không có vật chất cũng chết khổ. 

Trong lúc đang làm cũng chết khổ, lúc chưa có cũng chết khổ. Chi bằng chúng ta hãy làm để đủ nuôi sống vừa thôi, mới là không chết khổ”.

Ở đây tất cả chúng ta nhận thấy rằng, dù là dạy cho giới cư sĩ tại gia, nhưng ngài đã khéo léo gieo vào tâm thức họ hạt giống xuất gia rất tinh tế và thân thiện với đời sống, bởi “tri túc” là một trong những phẩm hạnh của giới xuất gia, như trong kinh Di Giáo, đức Phật đã giáo huấn chư vị Tỳ kheo về hạnh “biết đủ” như sau: “Các thầy Tỷ kheo, muốn giải thoát khổ não thì các thầy hãy cứu xét sự biết vừa đủ. 

Chính sự biết vừa đủ là giàu sang, vui thú và yên ổn. Biết vừa đủ thì nằm trên đất cũng thấy vui thích, không biết vừa đủ thì ở thiên đường cũng vẫn bất mãn. Không biết vừa đủ thì giàu mà nghèo, biết vừa đủ thì nghèo mà giàu. Không biết vừa đủ thì luôn luôn bị cả năm thứ dục lạc lôi kéo, làm cho người biết vừa đủ phải xót thương. Đó là hạnh biết vừa đủ” . Cũng qua lời dạy về hạnh biết đủ, Tổ sư Minh Đăng Quang như ngầm nhắc nhở các vị Tỳ kheo trong giáo đoàn, nếu đã xuất gia rồi mà còn mảι mê tạo tác thì cũng không khác gì người chưa xuất gia.

Giới luật là nền tảng cơ bản của đạo Phật, giới luật còn thì Phật pháp còn, điều trọng yếu này đã được Đức Phật dặn dò chư vị Tỳ kheo trong kinh Di Giáo: “Giới thì chính thuận với căn bản của sự giải thoát, nên Như Lai mệnh danh Ba la đề mộc xoa. 

Nhờ giới mà phát sinh thiền định, và trí tuệ có năng lực hủy diệt thống khổ. Thế nên, các thầy Tỷ kheo, hãy giữ tịnh giới, đừng cho vi phạm, thiếu sót. Ai giữ tịnh giới thì người đó có thiện pháp. Không có tịnh giới thì mọi thứ công đức không thể phát sinh. 

Do đó mà biết tịnh giới là chỗ yên ổn nhất, làm nơi trú ẩn cho mọi thứ công đức… Các thầy Tỷ kheo, sau khi Như lai diệt độ, các thầy phải trân trọng tôn kính tịnh giới, như mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc. Phải biết tịnh giới là đức thầy cao cả của các thầy. 

Nếu Như lai ở đời thì cũng không khác gì tịnh giới ấy…” . Nhận thấy sự hệ trọng của giới luật, nó tác động trực tiếp đó sự tồn vong của Phật pháp nói chung và của Hệ phái Khất sĩ nói riêng, nên ngay khi thành lập giáo đoàn, Tổ sư Minh Đăng Quang đã thiết lập hệ thống giới luật Khất sĩ, giúp cho các mặt hoạt động Tăng đoàn sớm đi vào nề nếp ổn định và làm nền tảng để phát triển hệ phái một cách vững chắc.

Luật Khất sĩ gồm có Giới bổn Tỳ kheo Tăng, Giới bổn Tỳ kheo Ni, giới Phật tử (thường gọi là giới Bồ tát), Bài học Sa di (môn oai nghi và những bài kệ chú nguyện), Pháp học Sa di (Kệ giới, Mười giới tập sự Sa di, Tứ y pháp Trung đạo), Bài học Khất sĩ (Nghi thức thọ trai và Nghi thức tụng kinh đều được Tổ sư biên soạn, toàn bộ đều lấy theo trí não của Luật Đàm Vô Đức bộ), Tỳ kheo Tăng 250 giới, Tỳ kheo Ni 348 giới… 

Thông qua hệ thống giới luật Khất sĩ trong bộ Chơn Lý, tất cả chúng ta thấy rất rõ là Tổ sư Minh Đăng Quang rất lưu tâm đến giới luật, điều mà tất cả chúng ta cần bàn ở đây, ngài vừa kế thừa nền tảng giới luật Phật tổ đã để lại một cách thận trọng nghiêm túc, lại vừa uyển chuyển để phù phù hợp với gốc rễ cũng như hoàn cảnh của người học Phật thời nay. Cách Việt hóa bộ luật thành chữ quốc ngữ và chọn lọc sắp xếp ngăn nắp dễ hiểu cũng là nét đặc biệt đã minh chứng xu hướng Đại thừa rất khế cơ khế lý mà Tổ sư đã trổ tài sinh động trong bộ Chơn Lý. 

Cái sống ấy mới thật gọi là bền vui và có được” . Trong lúc đó, trong kinh Pháp Hoa, Đức Phật đã nêu lên ý nghĩa giải thoát của các bậc 𝓐 La Hán: “Các vị đó đều là các bậc A La Hán, các lậu đã hết, không còn phiền não, việc lợi mình đã xong, dứt sự ràng rịt trong các cõi, tâm được tự tại”. 

Ở đây tất cả chúng ta nhận thấy, trạng thái giải thoát của các bậc 𝓐 La Hán mà Tổ sư Minh Đăng Quang diễn tả rất thân thiện với đời sống loài người mà không mất đi chánh nghĩa như trong kinh văn mà Đức Phật đã tuyên thuyết. Còn nói về Chơn Như Phật Tánh, trong kinh Pháp Hoa, Đức Phật đã dạy: “Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa, đức vô lượng vô ngại lực, vô sở úy, thiền định, giải thoát tam muội, đều sâu vào không ngằn mé, trọn nên tất cả pháp chưa từng có”. 

Đức Phật cũng từng nói về Chơn Như, Phật Tánh, trong một đoạn kinh khác: “Pháp đó không phải là suy lường phân biệt mà có thể hiểu được, chỉ có các Đức Phật mới biết được đó. Vì sao? Các Đức Phật Thế Tôn, chỉ do một sự nhơn duyên lớn mà hiện ra nơi đời…” . 

Trong lúc đó, Tổ sư Minh Đăng Quang đã đề cập đến ý nghĩa Chơn Như Phật Tánh như sau: “Thấy tánh thành Phật. Mà thấy tánh là thấy cái chơn như, không vọng động, thấy cái giải thoát các pháp, các sở chấp, do sự giác ngộ trí huệ là Phật của mình; chớ chẳng phải thấy bằng nói, nghe, chữ viết, suy gẫm tưởng tượng” . Ở đây tất cả chúng ta nhận thấy, những điều mà Tổ sư Minh Đăng Quang nói về Phật Tánh Chơn Như, ngài cho rằng “chớ chẳng phải thấy bằng nói, nghe, chữ viết, suy gẫm tưởng tượng”, này là một cách miêu tả lại lời Phật dạy trong kinh Pháp Hoa: “Pháp đó không phải là suy lường phân biệt mà có thể hiểu được”…  

 

Trong sự nghiệp tu hành của bất kỳ hành giả nào trên đoạn đường tỉnh ngộ thì qủα vị luôn là mục đích tối thượng. Trong bộ Chơn Lý, Tổ sư Minh Đăng Quang đã làm rõ các khái niệm Chơn Như, Phật Tánh, đồng thời cũng rất lưu tâm đến đoạn đường tu tập hướng tới đạo qủα 𝓐 La Hán. Khi nói về qủα vị 𝓐 La Hán, trong bộ Chơn Lý, ngài đã miêu tả: “A La Hán là bậc mà không còn sự vui khổ của bên ngoài trần thế, là bậc mà tâm sống với cái thật, cái không vọng động, vô vi của bề trong.Cái sống ấy mới thật gọi là bền vui và có được” . Trong lúc đó, trong kinh Pháp Hoa, Đức Phật đã nêu lên ý nghĩa giải thoát của các bậc 𝓐 La Hán: “Các vị đó đều là các bậc A La Hán, các lậu đã hết, không còn phiền não, việc lợi mình đã xong, dứt sự ràng rịt trong các cõi, tâm được tự tại”.Ở đây tất cả chúng ta nhận thấy, trạng thái giải thoát của các bậc 𝓐 La Hán mà Tổ sư Minh Đăng Quang diễn tả rất thân thiện với đời sống loài người mà không mất đi chánh nghĩa như trong kinh văn mà Đức Phật đã tuyên thuyết. Còn nói về Chơn Như Phật Tánh, trong kinh Pháp Hoa, Đức Phật đã dạy: “Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa, đức vô lượng vô ngại lực, vô sở úy, thiền định, giải thoát tam muội, đều sâu vào không ngằn mé, trọn nên tất cả pháp chưa từng có”.Đức Phật cũng từng nói về Chơn Như, Phật Tánh, trong một đoạn kinh khác: “Pháp đó không phải là suy lường phân biệt mà có thể hiểu được, chỉ có các Đức Phật mới biết được đó. Vì sao? Các Đức Phật Thế Tôn, chỉ do một sự nhơn duyên lớn mà hiện ra nơi đời…” .Trong lúc đó, Tổ sư Minh Đăng Quang đã đề cập đến ý nghĩa Chơn Như Phật Tánh như sau: “Thấy tánh thành Phật. Mà thấy tánh là thấy cái chơn như, không vọng động, thấy cái giải thoát các pháp, các sở chấp, do sự giác ngộ trí huệ là Phật của mình; chớ chẳng phải thấy bằng nói, nghe, chữ viết, suy gẫm tưởng tượng” . Ở đây tất cả chúng ta nhận thấy, những điều mà Tổ sư Minh Đăng Quang nói về Phật Tánh Chơn Như, ngài cho rằng “chớ chẳng phải thấy bằng nói, nghe, chữ viết, suy gẫm tưởng tượng”, này là một cách miêu tả lại lời Phật dạy trong kinh Pháp Hoa: “Pháp đó không phải là suy lường phân biệt mà có thể hiểu được”…

Về vấn đề xoay quanh các khái niệm về Thiên đường, Tây phương, Tịnh độ, Tịnh thổ, Niết bàn. Thời bấy giờ, mọi người đều cho các khái niệm trên là một, có thể dùng lẫn nhau. Phải nói là trong thời buổi nhiễu nhương, đói khổ, mọi người đều ngưỡng vọng về một toàn cầu ấm no, hạnh phúc, nên hầu hết không quan tâm nhiều đến các khái niệm xa vời thực tiễn này. Nhưng theo các nhà Phật học đương thời, thì này là các khái niệm khác nhau. 

Một số nhà tìm hiểu gọi Thiên đường là Niết bàn, gọi địa ngục là ngục tối, cách gọi này cũng dễ khiến người ta ngộ nhận, dễ dẫn theo mê tín, ảo tưởng. Trong lúc các nhà Phật học tiến bộ đã phê phán và mang ra luận điểm của mình, nhưng vẫn còn nhiều tranh luận về Toàn cầu Cực lạc thực chất này là gì? Nó có ở đâu? Nhân loại làm thế nào để đạt tới?… 

Thật ra khi đề cập đến toàn cầu Tây phương Cực lạc, này là một vấn đề vô cùng nhạy cảm chỉ có ở những người vốn có niềm tin tâm linh sâu sắc mới có thể tin nổi, còn người chưa thấu tỏ giáo lý Đại thừa thì e rằng khó có thể tin được, thế nhưng đây lại là toàn cầu chính kim khẩu của đức Phật Thích Ca đã nói ra, mà lời dạy của đức Phật thì chơn thật bất hư, vì thế để rõ ràng và cụ thể hóa toàn cầu này thật gần với đời sống loài người, sao cho thật dễ hiểu để dễ tu tập, do vậy Tổ sư Minh Đăng Quang đã viết trong bộ Chơn Lý: “Thế giới Tây phương Cực lạc của chư Phật cũng là một qủa địa cầu tứ đại, cỏ cây, thú, người thân, sắc có đủ y như các qủa địa cầu thế giới khác. Nhưng chỉ có tâm của các hạng bậc ấy là không giống với tâm của chúng ta thôi. Tâm chúng ta nơi đây thì khổ, còn tâm các ngài nơi đó lại vui. Cái vui của các ngài là do kỷ luật, giới răn, còn cái khổ của chúng ta là tại tuôn trào, lướt bụi đầu đuôi bất kể”. 

Như vậy với Tổ sư Minh Đăng Quang, Tây phương Cực lạc là một xứ sở, ở đó loài người sống có giới luật, giới năng sanh định, định năng minh tâm, minh tâm thì kiến tánh, mà kiến tánh tức là thành Phật. Một cách giải thích hết sức hợp tình, hợp lý, không những khế cơ, khế thời mà khế lý, nhất là giúp cho mọi người tin Phật sớm thu được tự tánh của chính mình là cảnh giới cực lạc, để họ nỗ lực, tinh tấn xây dựng cõi nhân gian đầy khổ đâu thành toàn cầu an lạc, đúng với câu: “Phật hiệu Di Đà, pháp giới toàn thân tùy xứ hiện. Quốc danh Cực lạc, Tịch Quang chơn cảnh cá trung huyền”.

Sinh thời, Tổ sư Minh Đăng Quang chủ trương nối truyền Thích Ca Chánh pháp, nên trí não lục hòa cộng trụ của Phật Tăng xưa rất được ngài lưu tâm ứng dụng vào sinh hoạt của giáo đoàn, cũng chính vì vậy mà Tổ sư đã mời gọi các đồ đệ: “Nên tập sống chung tu học, Đạo của sống là xin nhau sống chung, Đạo của biết là học chung, Đạo của linh là tu chung” . Đặc biệt, phẩm chất đạo đức và giới hạnh luôn được ngài xem trọng, có thể nói đây là vấn đề hàng đầu trong đời sống chư Tăng, Ni và phật tử; cũng chính vì vậy mà trong bộ Chơn Lý, đức Tổ sư đã dạy: “Chỉ có đạo đức mới có hòa bình, bằng không đạo đức thì chẳng có hòa bình, mà là những hòa bình tạm dối, không bền chặt” . Qua đó, ngài nhất định muốn mang lại sự hòa bình, độc lập, tự do cho dân tộc thì phải có sự góp phần của những nhà đạo đức chơn chánh, và đây chính là nguyên lý tất yếu. 

Ngài dạy: “Trong trường hợp Tăng già chia rẽ…, thì lột áo Tăng già, ấy không phải là vì ghét giận. Trong trường hợp Tông phái phân ranh…, thì việc đốt bàn thờ tông phái, không phải là vì ghét giận. Trong xã hội cũng vậy, một xã hội loạn ly, không thiện lành trong sạch, đàn áp phá sản thì chuyện bàn tay bóp chặt lọc dính lại, ấy không phải là sự ghét giận, mà là để chỉnh đốn xã hội tiến bộ…” ,  hay: “Thế thì nào tài trí, đức hạnh há phải chỉ đứng bên ngoài hay sao?”. 

Qua đó cho thấy tư tưởng tiến bộ của Tổ sư, người đã cho thấy được một luận cứ vừa khế cơ, vừa khế lý, nhất là mời gọi sự sống chung hòa hợp, đoàn kết, không phân biệt tông phái để góp phần mang lại sức mạnh, vừa trang nghiêm Tăng đoàn, vừa thanh lọc xã hội, qua đó góp phần giành lại độc lập tự do cho dân tộc bằng đạo đức, bằng sự chấn hưng Phật giáo.

Một điều cũng nên lưu ý nữa, này là trong hoàn cảnh xã hội thời bấy giờ, Phật giáo đang phải đối mặt với ý kiến “Thượng Đế là đấng sáng tạo ra vạn hữu” nghĩa là loài người sống hoàn toàn không có khả năng tỉnh ngộ, giải thoát, mà phụ thuộc vào đấng tối cao. Trên ý kiến này, Tổ sư Minh Đăng Quang đã mang ra khái niệm về Phật rất rõ ràng và cụ thể và rất thuyết phục như sau: 

                                        “Thân trong sạch ấy là xứ Phật. 

                                          Miệng trong sạch ấy là pháp Phật. 

                                          Ý trong sạch ấy là con Phật. 

                                          Tâm trong sạch tức là đức Phật. 

Như thế thì ai ai cũng sẽ là Phật hết. Phật ấy tức là tam nghiệp trong sạch, cho nên tu là trả nghiệp, tu là đoạn nghiệp” .

Qua đoạn văn trên, Đức Tổ sư đã nhất định Đức Phật không phải là một vị thần, mà Đức Phật là một người tu tập trong sạch ba nghiệp, dứt sạch tam nghiệp tham, sân, si nên gọi là Phật. Từ khái niệm trên đã cho tất cả chúng ta thấy ý kiến về giáo lý Phật đà của Tổ sư Minh Đăng Quang thật là sáng tỏ, không những phù phù hợp với những luận điểm Phật học cấp tiến cùng thời, mà còn phù phù hợp với đạo lý Phật pháp. Đặc biệt ý kiến này đã hỗ trợ cho nhiều người đương thời ý thức được trách nhiệm trong việc trau dồi tư cách, hoàn thiện bản thân, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của từng thành viên trong môi trường Phật giáo, tỉnh ngộ tỉnh thức trước những tư tưởng sai lệch của các tôn giáo ngoại lai, góp phần vào quá trình tranh đấu giành lại độc lập tự do cho dân tộc. 

 3. Thay lời kết      

Nhìn lại hành trạng của Tổ sư Minh Đăng Quang và tư tưởng Đại thừa trong nội dung bộ Chơn Lý, tất cả chúng ta càng thấy rõ Tổ sư Minh Đăng Quang qủα là bậc cao Tăng thạc đức, nơi ngài, không chỉ hàm tàng tri thức Phật học uyên thâm mà phương cách vận dụng rất sáng tạo, phản ảnh đúng nghĩa trí não và hạnh nguyện Đại thừa của một bật Tổ sư thâm chứng Phật pháp. Điều này thật phù phù hợp với trí não Đại thừa như trong kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật đã dạy: “Thanh tịnh bản nhiên, tùy thuận chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng”. 

Thật vậy, qua sự tu chứng của chính mình trên đoạn đường thực nghiệm tâm linh tầm cầu tuệ giác, Tổ sư Minh Đăng Quang đã khéo léo tùy thuận vào hoàn cảnh của quốc gia và loài người mà khai sáng một hệ phái Khất sĩ mang đậm bản sắc đạo Phật của quốc gia và loài người Việt Nam. 

Xin nhắc nhở lại, cái gọi là tư tưởng Đại thừa của ngài ở đây là không phân biệt Đại thừa hay Tiểu thừa mà là sự tiếp thụ một cách có chọn lọc những tinh hoa giáo lý, giới luật, kinh điển và cách hành sự Tăng đoàn giữa hai trường phái Nam và Bắc truyền để nhằm tôn vinh đời sống tuệ giác của đức từ phụ Bổn sư cách đây đã hơn 25 thế kỷ. 

Tư tưởng, đời sống phạm hạnh của đức Tổ Sư không chỉ đã góp phần to lớn vào quá trình chấn hưng Phật giáo Việt trong nửa đầu thế kỷ XX, mà còn làm cho bản sắc văn hóa Phật giáo Việt Nam ngày càng lung linh, nguy nga, tráng lệ, phong phú và phong phú. Hào quang của ngài không chỉ tỏa sáng trong thời kỳ ngài hành đạo, mà còn tiếp tục lan rộng trên khắp các vùng, miền quốc gia Việt Nam thân yêu. 

Thật vậy, chỉ trong khoảng thời gian chưa đầy thế kỷ, đạo Phật Khất sĩ Việt Nam đã nhanh chóng phát triển và hòa nhập vào dòng chảy của lịch sử Phật giáo Việt Nam qua từng thời kỳ ổn định và phát triển. 

Nhất là sự kiện lịch sử thống nhất Phật giáo toàn quốc năm 1981, tổ chức hệ phái Khất sĩ của Tổ sư Minh Đăng Quang đã trở thành một trong chín tổ chức thành viên thống nhất trong lòng Giáo hội Phật giáo Việt Nam, góp phần đáng kể tô điểm cho trang sử vàng của Phật giáo Việt Nam càng rực rỡ trên đoạn đường hoằng dương chánh pháp, vươn tới tương lai. 

Tạm kết bài tham luận này, chúng tôi một lần nữa nhất định, trí não Đại thừa là trí não nhập thế, hạnh nguyện đại thừa là hạnh nguyện độ sanh, xu hướng đại thừa là sự kế thừa và phát huy những truyền thống đã có, uyển chuyển linh hoạt trong mọi hoàn cảnh để thăng hoa và phát triển. Toàn bộ những tính chất cao qúy mang lại lợi nhuận thiết thực cho chúng sanh, đều dàn trải bàng bạc trong toàn thể nội dung bộ Chơn Lý. 

Đó chính là tư tưởng Đại thừa “Nối truyền Thích Ca chánh Pháp”, noi theo gương Phật tăng xưa, dấn thân nhập thế phụng sự đạo đời của Hệ phái Khất Sĩ Việt Nam.

Thượng tọa Thích Huệ Thông


Xem thêm những thông tin liên quan đến đề tài tổ sư minh đăng quang

Bồ Tát Minh Đăng Quang- Chơn Lý- Sống và Chết

alt

  • Tác giả: Buddha in You
  • Ngày đăng: 2018-09-08
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 5643 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Bồ Tát Minh Đăng Quang luận giải Sống và Chết
    Chơn lý Tổ Sư Minh Đăng Quang
    Phần tiếng động được thực hiện bởi Trung tâm Diệu Pháp Âm
    Quý vị đạo hữu có thể xem thêm về Bồ Tát tại trang http://daophatkhatsi.vn
    Hoặc tải về nội dung của Chơn Lý này dạng văn bản tại đây: https://drive.google.com/file/d/1yEh8efiHp1Eq9yOvDj7zicEfqAXYqn2T/view?usp=sharing
    Nam Mô Di Lặc Bồ Tát!

GÓC TÌM HIỂU: TOÀN BỘ THÔNG TIN VỀ TỔ SƯ MINH ĐĂNG QUANG

  • Tác giả: traihommartino.vn
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 2248 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Tổ sư Minh Đăng Quang chính là người đã truyền bá và khai sơn ra hệ phái khất sĩ. Vậy thì rõ ràng và cụ thể cuộc sống của ngài từ khi sinh ra cho tới khi phái khất sĩ được thành lập là như vậy nào?

Chơn Lý – Tổ sư Minh Đăng Quang (Sách PDF)

  • Tác giả: nigioikhatsi.net
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 5278 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Bộ Chơn nguyên nhân Tổ sư biên soạи đượͼ hầu hết các bậc trí thứͼ khi nhận thấy giá trị đều nóι rằng đây là kho Pháp bảo quý báu vô giá trong vũ trụ. Nay đứͼ Ngàι có chìα khóα và đã mở đượͼ cửa, và chính những quyểи Chơn lý triết lý này là những vật báu trong kho tàng ấy.

Ai đã giết Tôn Sư Minh Đăng Quang (Phật giáo Khuất Sỹ)?

  • Tác giả: vquix.com
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 4609 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Sau thời điểm đức thầy Huỳnh Phú Sổ chết, người lên thay thế chính là ông thân sinh ra đức Thầy, ông Huỳnh Công Bộ. Ông Bộ chỉ lo việc đạo, trụ trì đền thờ Đức thầy tại xã Hòa Hảo, thuộc tỉnh Châu Đốc, danh xưng là “thánh địa” với gần một triệu tín đồ rải khắp các tỉnh miền Tây. Mời chào tín đồ không nên dính vào chính trị nửa, hảy bỏ những oán thù. Nhưng trái lại thì lại có một số đồ đệ của ông đua nhau tập hợp tín đồ, thành lập lực lượng vũ trang (quân đội Hòa hảo) riêng, được sự giúp đở của Pháp chiếm cứ từng vùng :• Lực lượng Trần Văn Soái, tức Năm Lửa, đặt bản doanh tại Cần Thơ chiếm vùng Cần Thơ, Vĩnh Long, Sa Đéc• Lực lượng Lâm Thành Nguyên, tức Hai Ngoán, bản doanh đặt tại Cái Dầu, hoạt động tại 2 tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc.• Lực lượng Lê Quang Vinh ( tức Ba Cụt) đóng bản doanh tại Thốt Nốt (Long Xuyên), kiểm tra vùng Rạch Giá, Long Xuyên.• Lực lượng Nguyễn Giác Ngộ đặt bản doanh tại Chợ Mới, đóng quân tại một vài khu vực trong tỉnh Long Xuyên. Nghe và đọc lịch sử thành tựu của mấy ông này mà toát mồ hôi. Cả bốn đều xuất thân từ các gia đình trung bình ở nông thôn, nhưng không chiu làm ruộng, chẳng chịu học tập, chỉ ăn chơi, luyện võ tự đo phóng túng từ thuở thiếu thời. Họ luyện được ba “miếng nghề”, muốn ra làm cha thiên hạ. Ba tướng kia khi có danh phải cố học để biết qua loa. Còn riêng Năm Lửa chỉ biết độc nhất chữ ký tên mình, hoàn toàn vô học. Từ thái độ, cử chi, cách ăn nói, giao dịch, đến lối suy diễn, giống như một phú ông, nhưng là phú ông “hiện đại”, nên thâm hiểm, tàn bạo, ghê gớm hơn nhiều mặc dù biết lần chuổi niệm Phật Dozey. Chính ông Bộ cũng như đa số tín đồ không ưng ý về hành động của nhóm tướng lĩnh, vì các lực lượng vũ trang này vẫn không ngoại trừ các việc hiếp đáp, bóc lột thuế má cả của họ. Nói chung giáo phái Hòa Hảo phân tách ra bên đạo, bên vũ trang khá rõ rệt, tranh chấp trầm trọng giữa bốn cánh quân, đó, là chỗ suy yếu nghiêm trọng, tuy bên ngoài nhìn vào vẫn nghĩ rằng một tổ chức có lực lượng hùng hâu.Update:Ngài đến minh chứng một cốc lá bằng cây ván do Phật tử làm xong dâng cúng. Ngài dạy đồ đệ Giác Hội mang mấy ngàn quyển Chơn Lý ra xe, thăm hỏi sách tấn vài Phật Tử cư sĩ thâm tín, rồi lên đường hướng về các tỉnh Hậu Giang. Xe đến bến phà Cái Vồn – Bình Minh thì có lệnh tướng Trần Văn Soái (tức Năm Lửa) cho thuộc hạ mời Ngài và đoàn xe về Tổng Hành Dinh và từ đó biệt tích đến nay. Sau đó có một số người trong thấy bóng ngài trong rừng cây, không biết thực hư ra sao, có người nói ngài thị hiện cho biết sự linh ứng và khuyến khích người tu.Tướng Năm Lửa đã lầm, phái Khất Sĩ vẫn tồn tại đến nay và giữa hai phái Hòa Hảo và Khất sĩ vẫn không hận thù… Tháng 5-1956 Ngô Đình Diệm biết ông này củng già yếu binh không nhiều, giết ông ta không khó nhưng còn những người khác và không muốn kéo dài thêm, nên đã nhờ ông Nguyễn Ngọc Thơ quen biết với cậu ruột của Ba Cụt qua đó dùng tiền mua chuộc bà xã thứ ba là Lê Thị Gấm tức Phàn Lê Huê của ông năm lửa và chức tước cùng lời hứa giữ và phát triCập nhật 3:Những năm sau đó Ông Ngô đình Diệm muốn Thiên chúa giáo của ông độc tôn, muốn anh của ông là Tổng giám mục Ngô đình Thục làm Hồng y giáo chủ, nên ông kỳ thị đàn áp Phật giáo. Ấp kế hoạch chỗ thì rào chùa vào trong để hạn chế đi lại, chỗ thì rào chùa ra ngoài để tự do bắn phá. Bắt quân dịch các Tăng sĩ Phật giáo làm những chức vụ nguy hiểm mà không quyền hành, để tu sĩ Thiên chúa nắm quyền lãnh đạo ngay từ hạ tầng. Sau đó đã dẫn theo cuộc biểu tình ở Sài Gòn và sự tự thiêu của Hòa Thượng Thích 𝒬. Đức. Cuối cùng ông Ngô Đình Diệm củng nhận cái quả là bị người khác giết và ắt hẳn đang nhận chịu cái quả mà ông ấy đã làm nơi địa ngục. Ông ấy đã làm những việc chẳng khác vì những kẻ khủng bổ vô loại giống như những người Hồi Giáo quá khích, Chúa củng không cứu ông ta lên nổi và Chúa củng không dạy ông ta làm những trò ác ôn này… Bao nhiêu máu đã đổ xuống vì cái gì? Chính trị, vô thần, tư lợi, tư thù… Bất kì là vì nguyên nhân gì, đã đủ rồi, xin toàn bộ hảy ngừng tay không để bất kể lòng vị. Created by Ẩn danh. van-hoa-xa-hoi-vn – ton-giao-tam-linh-vn

Đức Tổ sư Minh Đăng Quang và Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam (Vĩnh Thông) – Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo

  • Tác giả: tapchivanhoaphatgiao.com
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 999 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: – Đơn vị chủ quản: Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam – Trụ sở tòa soạn: 294 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Q3, TPHCM – Giấy phép hoạt động tạp chí của Bộ Thông Tin và Truyền Thông Số 1878/GP.BTTTT Ghi và in tận nơi in Trần Phú, Q1, TPHCM

Tổ Sư Minh Đăng Quang Vắng Bóng Lần Thứ 68, Tưởng Niệm Tổ Sư Minh Đăng Quang

  • Tác giả: daiquansu.mobi
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 5683 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: SANTA ANA, California (NV) – Sáng Thứ Bảy, 5 Tháng Ba, 2022, đông đảσ chư tôn giáo phẩm và đồng hương Phật tử tham gia Đại Lễ Tưởng Niệm Phật Nhập Niết Bàn của Lịch Đại Tổ Sư, và Đức Tổ Sư Minh Đăng Quang, Hệ Phái Khất Sĩ vắng bóng lần thứ 68, Chân dung Tổ Sư Minh Đăng Quang

Tổ Sư Minh Đăng Quang, chiếc bóng bên trời trăng khuyết

  • Tác giả: quangduc.com
  • Nhận xét: 5 ⭐ ( 4900 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Tổ sư Minh Đăng Quang sinh ra (năm Quý Hợi 1923) và lớn lên trong thời kỳ quốc gia nói chung và Nam Kỳ Lục Tỉnh nói riêng, quá trình chiếm cứ, thực hiện kế sách bảo lãnh lâu dài của thực dân Pháp đã đi vào thế ổn định, và đang tự tin cho bước phát triển tiếp theo tưởng chừng mạnh mẻ ấy. Bởi lẽ trước đó hai năm ( năm Canh Thân 1920) quan toàn quyền Maurice Long

Xem thêm các nội dung khác thuộc thể loại: giải trí