GIA ĐÌNH TRONG TRUYỀN THỐNG VĂN HOÁ VIỆT NAM – truyền thống gia đình là gì

Bạn đang xem: truyền thống gia đình là gì

, và hiện là chánh xứ Our Lady Queen of Martyrs, Pensacola, Florida.)

(Linh mục Phanxicô Xavie Hồ Văn Mậu thuộc tu đoàn giáo sĩ Nhà Chúa (Domus Dei), tiến sĩ mục vụ, Graduate Theological Foundation, South Bend, Indiana, đã xuất bản các sách, và hiện là chánh xứ Our Lady Queen of Martyrs, Pensacola, Florida.)

Mọi
người biết điều gì đó về gia đình. Các hiểu biết có thể tới từ những sưu tập
album để tìm những kỷ niệm; có thể tới từ những kinh nghiệm quý báu của một cuộc
sống trưởng thành và ổn định. Các hiểu biết cũng có thể tới từ những tình cảm
thân thương, trìu mến, chua chát hay cay đắng của những tháng ngày sống chung.
Truyền thống xã hội và văn hóa lại cho tất cả chúng ta những điều hiểu biết khác về
gia đình. Các chương trình truyền hình lại giới thiệu cho tất cả chúng ta các bức
tranh gia đình truyền thống hay không theo truyền thống, kể cả các thứ hình thức
gia đình pha tạp khác. Các nhà vận động chính trị lại dẫn mang tất cả chúng ta vào những
slogan mạnh mẽ: “giữ vững các giá trị gia đình,” “củng cố giá trị gia đình”
như là những chiêu bài chính trị. Gia đình qủa thực có ý nghĩa rất trọng yếu,
này là điều không ai chối bỏ. Gia đình tồn tại trước khi các đoàn thể và các
chính phủ được tạo dựng. Chắc cú gia đình vẫn trường tồn ngay cả khi các
đoàn thể ấy bị suy tàn. Ngay cả khi người ta chưa tán thành với nhau tính năng và
tính chất cơ bản của gia đình thì gia đình vẫn mang trong chính nó một ý nghĩa
trọng yếu. Điều nầy dẫn tất cả chúng ta về với một truyền thống gia đình mà một thời
đã làm cho xã hội Việt nam ổn định. Nghiên cưú ngắn gọn nầy tập chú vào Gia
đình trong truyền thống Việt nam với niềm vui và trằn trọc.

 

Các
hình thức tổ chức các gia đình đã biến dạng theo lịch sử, và vì vậy người ta
không dễ gì tán thành với nhau về khái niệm của gia đình, ngay cả khái niệm của
George Murdock, một Chuyên Viên Hoa Kỳ về lịch sử xã hội. Murdock khái niệm gia
đình là một nhóm xã hội được xác nhận bởi một nơi cư trú chung có sự hợp tác
và tái sản xuất về kinh tế, bao gồm những người trưởng thành của hai giới,
trong đó có tối thiểu là hai người duy trì mối quan hệ tình dục được xã hội công
nhận và một hoặc nhiều đứa trẻ, là con đẻ hay con nuôi của những người trưởng
thành có mối quan hệ như vợ chồng với nhau.[1] Theo khái niệm nầy, gia
đình được tạo thành từ những người sống chung với nhau trong một thời gian kéo
dài. Họ được gắn kết bởi những trao đổi pháp lý hay những cam kết tình cảm,
hoặc cả hai. Và cuối cùng, họ có thể chăm sóc cho một hoặc nhiều hơn các thân
quyến phụ thuộc là trẻ con, người tàn tật hay già cả. Khái niệm trên đã bỏ qua
nhiều vai trò và tính năng cơ bản của gia đình, cũng như không cho thấy sự
phân công trách nhiệm vốn là thực tiễn trong các gia đình, vì do đó, mà nảy sinh
ra trong lịch sử các cơ chế mẫu hệ, phụ hệ và gia trưởng. Trọng yếu hơn, định
nghĩa trên không chứng tỏ đươc tính chất nòng cốt của gia đình vốn mang trong
chính nó mối tương quan hòa thuận và gia giáo, thông qua giáo dục. Dầu sao ý tưởng
chính vẫn là sự gắn kết trong cuộc sống vật chất và trí não, nhờ sự gắn kết
này mà các quyền lợi của cá nhân và gia đình được đảm bảo.[2] Tình yêu và trách nhiệm
trong hôn phối là phẩm chất chủ đạo và tốt đẹp nhất của đời sống gia đình.

Nhưng
với Trost, tác giả của tác phẩm Married and Unmarried Cohabitation đã cho ta một
nhận định khác về hai quan hệ hầu hết nhất “quan hệ vợ chồng” và “quan hệ bố mẹ
– con cháu.”[3] Theo Trost, khi nói về gia
đình người ta thường nghĩ tới một nhóm người sống chung một mái nhà, có mối
quan hệ huyết thống qua hôn phối hay cam kết. Ta cũng nghĩ tới gia đình như một
tập thể nhằm mục đích chung là nuôi nấng dậy dỗ, kế thừa truyền thống, giá trị và
trách nhiệm so với hạnh phúc của các thành viên gia đình. Sự gắn bó với nhau
và chung lưng đấu cật là để phong phú hóa cuộc sống của gia đình và của mỗi
thành viên. Tiến sĩ Mortimer Ĵ. Adler, trong tác phẩm Great ideas from the great
books đã thừa nhận rằng từ thế chiến thứ II, cuộc sống gia đình có một tầm quan
trọng rất lớn, ngay cả những người trí thức và bọn trẻ con cũng muốn có một cuộc
sống gia đình lành mạnh. Trong các thời kì và những nơi chốn khác nhau thì gia
đình có khác nhau về tổ chức, điều hành và vai trò xã hội, nhưng luôn luôn có
tính năng cơ bản là sinh sản và nuôi dưỡng. Đây là mục đích tự nhiên của gia
đình.[4]

Chúng
ta có vẻ dễ đồng thuận hơn khi hiểu gia đình là một nhóm cơ bản xã hội, hình
thành qua một nghi lễ được xã hội hay truyền thống thừa nhận. Như vậy gia đình
nhằm mục đích thực hiện một số tính năng mà xã hội ấn định như [5] [6]: Tính năng truyền sinh: lưu
truyền sự sống thông qua mối liên hệ trong hôn phối; Tính năng giáo dục (Xã hội
hóa), giáo dục và truyền ban những giá trị được gia đình, gia tộc hay cộng đồng
xã hội thừa nhận; Tính năng lao động: nuôi sống mọi người trong nhà bằng
đóng góp công và sức lao động. Tính năng tôn giáo, tín ngưỡng: gia đình là nơi
tôn kính, thờ tự, (đặc biệt trong các gia đình theo đạo thờ kính ông bà), bảo tồn
và lưu truyền niềm tin tín ngưỡng cho các thế hệ kế tục. Những giá trị của gia
đình trên, đương nhiên chưa phải là toàn bộ nếu nhìn dưới góc độ giá trị của cộng
đoàn nhân vị, sự sống và dâng hiến phục vụ, dầu sao, cũng từng kết thành ý nghĩa
phổ quát của cơ cấu gia đình; chính những giá trị nầy làm ra nét đặc trưng của
hôn phối và gia đình.[7]

 

Phạm
Côn Sơn để cả đời phân tích và giảng dạy về Văn Hóa Việt Nam cho rằng gia đình
Việt Nam là một tổ hợp lớn, luôn phát triển không chỉ bao gồm vợ chồng con cháu
như kiểu Tây phương, nhưng gia đình còn tồn tại ông bà, cháu, chắt, chút chít nữa.[8] Phạm Côn Sơn đã trích dẫn
nhận định của giáo sư Vũ Ngọc Khánh trong tác phẩm của mình: [9]

Từ
lâu truyền thống Việt Nam đã giành cho gia đình một chỗ đứng trọng yếu không chỉ
trong công việc xây dựng xã hội quốc gia, mà cả trong việc huấn luyện nhân loại nữa.
Truyền thống văn hóa Việt Nam coi gia đình là đoạn đường phải qua nếu các cá
nhân muốn thành đạt và được kính trọng ngoài xã hội. Tư tưởng này đã ăn sâu
trong tư tưởng thăng tiến xã hôi của nhân loại Việt Nam: muốn ổn định thiên hạ
thì phải có khả năng trị quốc; muốn trị được quốc điều trước tiên là phải tề
gia.[10] Phần trọng yếu nhất trong
văn hóa làm người Việt Nam là phải tuân thủ gia đạo. Đạo là đoạn đường dẫn từ khởi
điểm tới đích điểm. Gia đạo chính là những phép tắc cơ bản và ổn định, những
bổn phận phải làm và những điều phải tránh trong sinh hoạt gia đình. Đây chính
là cái khung tiêu chuẩn của đạo lý nhân loại. Những điều nầy được chỉ dạy cho mọi
thành viên trong nhà. Khi mọi người một mực trung thành tuân giữ, người ta
gọi là người có gia giáo. Một cách đơn giản, gia giáo là sự chỉ dạy cách ăn nết
ở trong nhà, ngoài xã hội, nơi làng nước. Thường những lời chỉ dạy nầy xuất
phát từ kinh nghiệm sống của người trước về cách xử sự, phép tắc, thói tục; các
kinh nghiệm này đã được xã hội hóa. Người lớn trong nhà đóng vai trò làm
gương sáng, chỉ dạy cho trẻ nhỏ. Một gia đình có gia giáo là gia đình có nề nếp,
tôn ti trật tự, kính trên nhường dưới.[11]


hội Việt Nam chịu ràng buộc Nho giáo của Trung Hoa, nên gia đình Việt Nam truyền
thống cũng tác động “lễ” của Nho giáo. Lễ (một trong năm đức tính giữ gia
đình, quốc gia an khang bình trị) có tác động tới đối nhân xử thế, tới những mối
quan hệ, giao dịch. Mỗi người sống trong xã hội ít nhiều gì cũng phải tuân theo
những quy ước, những tục lệ của xã hội ấy trong việc giao tiếp liên hệ với mọi
người xung quanh, từ thân đến sơ, từ ông bà cha mẹ đến bạn thân con cháu. Dân tộc
ta từ xưa đến nay vẫn tôn trọng lễ giáo. Xin đừng hiểu “lễ” là những tập tục
ràng buộc của gia tộc, cũng đừng hiểu rằng “lễ” là những lễ nghi xưa cũ, càng
không phải là lễ nghi của Tàu. Phạm Côn Sơn cắt nghĩa: “Lễ là tình trạng kiến
văn của một hành vi trọng yếu trong mọi xã hội, mọi tư tưởng tiến bộ đã có từ
khi nhân loại được khai hóa.” Học giả Thu Giang Nguyễn Duy Cần nhận định: “Lễ,
theo Á đông, không chỉ có ý nghĩa là tự trị, tự chủ, mà cũng có nghĩa là nhân
nữa. Nói tắt một lời, thì:“toàn bộ thuật xử thế của người Á đông, đều ở trong một
chữ lễ.” [12]

 

Để
có một cái nhìn tương đối chuẩn xác và tổng quát, tất cả chúng ta nhìn vào các yếu tố ảnh
hưởng của Nho giáo trên gia đình Việt Nam.[13] Sau hàng ngàn năm Bắc thuộc,
với ý đồ đồng hóa người Việt Nam như là một phòng ban, Trung Hoa luôn tìm mọi
phương pháp để tẩy não di sản Bách Việt từ trong cơ cấu xã hội đến nếp sống, nếp nghĩ
của người dân Việt Nam. Hệ thống giáo dục nhân loại và xã hội của Nho giáo là một
phương tiện để thực hiện cho ý đồ nầy.[14] Thậm chí có nơi và có thời
hệ thống giáo dục Nho giáo đã trở thành mực thước, tiêu chuẩn và lối sống của
người Việt, từ thượng từng nền tảng tới sinh hoạt cơ bản của người dân, từ ngoài
xã hội đến trong tình cảm gia đình. Tư tưởng xã hội trọng nam, khinh nữ (nhất
nam viết hữu, thập nữ viết vô), tư tưởng nhất vua, nhì thầy, thứ ba mới tới
cha mẹ (quân, sư, phụ), tam cương ngũ thường, tam tòng tứ đức, đã nung đúc nên nề
nếp và gia phong, gia đạo của người Việt Nam.[15] Một cách tổng quan, dưới ba
góc độ: đời sống nông nghiệp, hệ thống luân lý và ý kiến nhân văn, tất cả chúng ta
có thể nhận thấy các yếu tố nho giáo tác động đến bản sắc gia đình Việt nam như
thế nào.

  • – Dưới góc độ kinh tế, hơn 80% Người Việt Nam gắn
    liền và chọn nông nghiệp làm kinh tế hầu hết. Đời sống của họ có lo toan bận rộn
    với ngày mùa nhưng cũng thanh thản để tổ chức hội hè, đình đám, và lễ nhạc. Tất
    cả nhịp sống người Việt xoay quanh những biểu tượng thôn trang, làng xã, lũy
    tre làng, cái đình, gốc đa, bờ chuối. Tư tưởng gia đình đông con là phúc đức của
    ông bà, cũng từng xuất phát từ thực tiễn của cuộc sống nông nghiệp. Sinh con là để
    có người lo việc đồng áng, và lập gia đình để có người phụ giúp nông trang.
  • Hệ thống luân lý Nho
    giáo
    đã ăn sâu và trở thành chuẩn mức của các cách xử sự giữa người với người.
    Nhân, Giáo và Đạo này là một loạt giá trị đạo đức theo tiêu chuẩn Nho giáo. Người
    ta không theo chuẩn mức đó sẽ bị khinh bỉ, không đạo đức, bất nhân, và vô giáo.
    Nền luân lý gia đình và xã hội Việt Nam đặt nặng trên tình tương thân tương trợ,
    trên trật tự chung, trên quyền lợi gia đình và tập thể, trên khế ước và giao
    kèo, trên hy sinh, hiếu hòa và lấy gia đình làm trọng yếu nhất. Những mẫu số
    chung giá trị của truyền thống văn hóa Việt Nam ấy đã va chạm không ít với môi
    trường mới, lối sống và cấu trúc thành thị mới trong thời cận và hiện đại;
    trong đó, hệ thống gía trị đặt nền tảng trên đồng đẳng, trí não dân chủ, tự
    do cá nhân, luật lệ, thụ hưởng, cá nhân là trọng yếu.

    [16]


  • Xã hội Việt Nam
    nhìn nhận gia đình là một thực thể nền tảng của xã hội. Trí não Nho
    giáo với tư tưởng, học thuật, nếp sống, phong tục đã chi phối và trở thành nền
    tảng cho việc xây dựng xã hội, quốc gia Việt Nam. Xã hội là một đại gia đình,
    trong đó vua là thiên tử, và có sứ mệnh truyền mệnh trời xuống cho toàn dân.
    Vua coi dân như con đẻ, và thống trị dân bằng Nhân và Đức. Xã hội Việt Nam được
    chi phối bởi nhân trị thay cho pháp trị. Mỗi người, mỗi giai cấp sống đúng với
    Danh của mình.

    [17]

  • – Trí não Việt Nam tác động bởi Nho giáo thật
    khác xa với trí não xã hội Âu Mỹ. Nơi đây, chữ hiếu, chữ trung, không đang là
    đạo đức và tiêu chuẩn hàng đầu để nhận xét một nhân loại. Tình cảm và hạnh phúc
    nhân loại trong xã hội mới là cơ bản; nam nữ đồng đẳng trước pháp luật. Xã hội
    có pháp luật chi phối mọi thành phần và mọi ứng xử, đảm bảo quyền lợi đồng đều,
    ngay cả quyền được ly hôn và quyền của cha mẹ cũng bị hạn chế.[18]

 

Sự
tạo dựng gia đình là cơ bản trong tiến trình tiến hóa xã hội. Chính sách mẫu hệ được
nhận thức từ trong cơ chế công xã thị tộc và là bước phát triển khi nhân loại
bước ra khỏi cuộc sống quần hôn, mối liên hệ trai gái chưa tư tưởng được là vợ
chồng, và con cháu chỉ biết có mẹ.[19]  Ý niệm gia đình được sáng rõ hơn khi nhân loại
ý thức được mối tương quan vợ chồng, con cháu. Trong xã hội mà gia đình chưa đòi
hỏi phải tích lũy nhiều tài sản, cuộc mưu sinh hầu hết cấy cầy và gặt hái. Đây
là công việc thường xuyên người phụ nữ đóng vai trò chủ động bên cạnh sinh sản
và chăm sóc nuôi dưỡng con cháu. Gia đình Trung Hoa theo cơ chế phụ hệ từ thời
nhà Hán (hai ngàn năm trước Tây lịch) và truyền sang Việt Nam từ thời Bắc thuộc
lần thứ hai, khoảng 1000 năm trước Tây lịch.[20] Hẳn nhiên đây không phải là
tiến trình tự nhiên mà là do bởi stress chính trị và xã hội của Trung Hoa áp đặt.
Ngay trong stress nầy, xã hội Việt Nam cũng không hoàn toàn nhắm mắt mang chân.
Các gia đình Việt Nam vẫn giành cho người mẹ, người vợ một lòng trân trọng đáng
kể. Nói chung, gia đình trên phương diện xã hội bao gồm một số các tính năng
cơ bản. Theo giáo sư Phạm Hồng Lam, này là:

  • [21]

    Ngoài ra người ta còn đề cập tới tính năng điều hòa tình cảm và tiêu khiển của gia đình. Các tính năng cổ kính của định chế gia đình là phổ quát và quyết định trong xã hội thượng cổ lấy nông nghiệp làm cơ bản.

Theo
Lê Ý Thu trong tác phẩm được biên soạn theo tác phẩm của nhà xuất bản Simons Shuster, 1992, thì chứa đựng sau những ngôn từ khô
khan triệu chứng các tính năng gia đình, người ta nhận thấy được ý nghĩa gắn kết,
chăm sóc và dậy dỗ. Những ý nghĩa sau đây luôn đi liền với tình cảm và giá trị của
gia đình ở mọi thời kì và mọi nơi.

 

.”[23]

Làn
sóng di dân, tình trạng dô thị hóa, xu thế toàn thế giới hóa, đã xúc tiến hàng triệu
người Việt nam chuyển mình và ra đi để mưu sinh và tồn tại. Tình trạng nầy
không thể đảo ngược; do đó, các gia đình Việt Nam phải đối mặt với những thách
đố hội nhập vào một văn hóa mới, một lối sống mới với những ứng xử khác biệt,
nhiều khi thật xa lạ với những gì mà họ đã được hấp thụ từ trong truyền thống.
Tình trạng xuất hiện những biến dạng về gia đình và Tình yêu – hôn phối, như ly
dị, sống chung, sống thử, tự do luyến ái… đã là những buồn thảm luôn ám ảnh.
Người ta luôn tự nhắc nhở với nhau cần phải hôi nhập để tồn tại. Nhưng hiểu và
sống thế nào cho đúng với hội nhập?

Hội
nhập (integration) khác xa với đồng hóa (assimilation). Đồng hóa là hòa tan, biến
mất căn tính của mình trong lúc hội nhập là một tiến trình thâu hóa, chọn lọc.
Phạm Hồng Lam đã khái niệm đồng hóa là sự tan biến của một thiểu số vào trong
đa số. Hội nhập cũng không hẳn là thích ứng, vì thích
ứng là sự điều tiết một chiều của một yếu tố vào một toàn thể. Hội nhập là một
tiến trình thâu hóa hai chiều có ý thức, trong đó đa số chấp thuận thiểu số với
cái cá biệt của họ và trái lại, thiểu số chấp thuận quy luật của phần đông nhưng đồng
thời vẫn không để mình bị biến mất trong cái đa số ấy. Một hội nhập văn hóa
thành công là khi văn hóa thiểu số sẵn sàng hòa mình vào văn hóa đa số, chấp thuận
thâu hóa những cái đáng theo của người mà vẫn giữ được cái mới lạ của mình.[24]

 

Giữ
gìn bản sắc dân tộc
là một đòi hỏi thiết yếu để gia đình Việt nam không bị tan biến.Văn
hóa là đặc trưng của xã hội loài người, luôn mang dấu vết của nhân loại. Văn
hóa truyền thống Việt Nam xây dựng trên nền tảng nông nghiệp, thì cũng từng định
hình nên nhân loại Việt Nam. Người Việt gắn bó mật thiết với thiên nhiên và vũ
trụ, sống hiền hòa, tình cảm, mềm dẻo, kín đáo, tinh tế, linh hoạt. Quy tắc xử
sự của Việt Nam ngày xưa là luật và lệ (luật vua thua lệ làng), nhờ thiên hướng
hiền hòa, nhu mì, mà tính cứng ngắc của pháp luật được làm mềm đi. Trí não
tương thân tương trợ đã tạo ra và chi phối mối tương quan mật thiết trong
gia đình, làng xã, và xã hội. Sự link chặt chẽ cũng phát xuất từ môi trường
thiên nhiên vốn dĩ hay gây lụt lội, bão táp. Yếu tố gia tộc có một sức mạnh
đoàn kết, yêu thương, đùm bọc nhau. Có vẻ trong ngôn từ loài người không có quốc
gia nào có đủ ngôn từ để chỉ gia tộc lên tới chín đời (thế hệ): kị, cụ, ông,
cha, tôi, con, cháu, chắt, chít. Hệ thống gia tộc như vậy cho phép người ta đùm
bọc, yêu thương, dù có sa cơ thất thế, xấu số thế nào, người ta cũng không bơ
vơ côi cút.[25]  Sự nâng đỡ thương yêu đùm bọc không chỉ ở mặt
vật chất mà cà mặt trí não nữa. Vì vậy chữ Hiếu được xem như chất keo sơn gắn
bó các thành viên gia tộc, gia đình; bất hiếu luôn được xem như là trọng tội. Hệ thống
tổ chức gia tộc, gia đình, tâm tình yêu thương đùm bọc, kính trên nhường dưới;
gia đình ổn định hài hòa là những nét nổi trội và cơ bản của văn hóa Việt Nam.[26]

Gìn
giữ bản sắc văn hóa gia đình là nhiệm vụ hàng đầu và thiết yếu so với các gia
đình Việt Nam.[27]  Mô hình nầy đã được phát huy và thành công ở
nhiều cộng đồng người Việt. Nhờ đó, họ đã đùm bọc nhau không chỉ vượt qua được
thời kỳ đầu nhập cư ở xứ lạ, mà còn làm nhau thăng tiến trong cuộc sống ở những
môi trường xã hội mới lạ. Thật là may mắn, các giá trị đạo đức, các tập tục
truyền thống tốt đẹp của gia đìnhViệt, người Việt vẫn còn tiếp tục và trân trọng
trong các thế hệ con cháu ta ngày nay.[28]  Nhưng cũng thật tiếc, một số không ít gia
đình trong xu thế thời kì mới, đã không cho thấy được những nét dễ thương và những
giá trị đáng bảo tồn trong văn hóa Việt Nam. Xã hội càng ngày càng có cái nhìn
rộng rãi và bao dung hơn về mặt văn hóa. Nhiều truyền thống văn hóa sống chung
trong hài hòa muôn vẻ thì vẫn tuyệt vời hơn là mỗi người một lối sống đóng
kín. Vì vậy, trong những biến chuyển gay gắt của xã hội ngày nay, nhiệm vụ giáo
dục của cha mẹ so với con cháu là làm sao để sau này đứa trẻ lớn lên, chúng có
dịp so sánh phân tích các nền văn hóa, chúng không than trách, oán hận là cha mẹ
chúng đã không dạy gì cho chúng về truyền thống văn hóa Việt Nam.

 

Trong
tác phẩm ɢ, tiến sĩ
Phil McGraw, tác giả của những quyển sách về gia đình bán chạy nhất của New York
Times, đã ngỏ lời với các bậc cha mẹ: Theo Phạm Côn Sơn, trong quá trình hội nhập
vào xã hội mới, trong thời kì mới, các gia đình Việt Nam đang khi du nhập một
số các yếu tố tích cực nhằm thăng tiến gia đình và cá nhân, họ còn giữ được nhiều
yếu tố tích cực của truyền thống Việt Nam. Chỉ có những rác rến và loại cây
rong rêu bị cuốn trôi đi trong dòng chảy cuộc sống.[30]

 

1. – Gia Đình Là Nền Tảng: Gia tộc, Xóm làng, Quốc gia

Gia
tộc:
Trong
nếp sống văn hóa dân tộc, sự tương thân tương trợ giữa mọi người theo tiến
trình gia đình, gia tộc, quốc gia, nhân loại. Ý thức gia tộc trong đời sống dân
tộc Việt nam thật đậm nét vì nông nghiệp là chính. Một gia đình lẻ tẻ sẽ khó có
khả năng đảm đương vụ mùa và ứng phó kịp thời với môi trường thiên nhiên. Gia tộc
và cộng đồng làng xã là một quần thể gồm các gia đình ruột thịt, họ hàng xa gần
nhằm trợ giúp lẫn nhau trong cuộc sống và việc làm ăn. Giáo sư Trần Ngọc Thêm nhận
xét: [31] Trong , Đào Duy Anh đã viết: “

Nhiều
ca dao tục ngữ đã diễn tả đậm nét vai trò và trí não dân tộc: . Mỗi
gia đình có bàn thờ ông bà, cha mẹ; trong mỗi giòng tộc có từ đường để thờ kính
tổ tiên năm đời. Từ năm đời trở lên thì thờ ở đình làng. Theo sách  bàn về vấn đề tang chế
của những người trong họ hàng, thì ta càng thấy tình họ hàng gia tộc thiêng
liêng và thắm thiết. Mỗi dịp ma chay, cưới hỏi, khao vọng, dịp vui, dịp buồn là
ta nhận thấy trí não đoàn kết gắn bó của gia tộc, gia đình.Theo truyền thống, với
tôn tri trật tự trong tổ chức gia tộc, vai trò tộc trưởng, gia trưởng giữ một vị
thế đặc biệt. Các truyền thống và tri thức cũng được truyền đạt theo tổ chức nầy.
Trong toàn bộ mọi mối quan hệ gia tộc, đạo hiếu được xem là đức tính cao thượng và
cơ bản nhất, là keo sơn nối kết mọi người dù sống hay chết.

Xóm
làng
: Theo
Nhất Thanh trong lịch
sử nguồn gốc làng xóm của ta khá rõ rệt. Vua Hùng Vương thứ III có 22 người
con, trừ Lang Liên được kế nghiệp vua, thống trị nước, còn sót lại các em khác được
vua cho giữ những phiên trấn, tử thủ núi sông, dựng hàng rào để chở che. Sau nầy
các vua tiếp theo phát triển các cơ cấu nầy, và tổ chức quy củ thành làng thành
xã. Làng xã (thôn xóm) là nhà cung cấp hành chính nền tảng của quốc gia. Thông thường,
làng là nơi tập trung người cùng huyết tộc, họ hàng xa gần, hoặc cùng một nghề
nghề tương đồng và nương tựa lẫn nhau. Vì hơn 80% người Việt sống với đồng lúa,
nông thôn, nên đại đa số đều xuất thân từ làng xã. Cây đa, bến nước, giếng nước,
bờ giậu, lũy tre, toàn bộ đã đậm nét trong lòng người Việt. Càng sâu đậm hơn,
nơi làng xã có mồ mả tổ tiên ông bà, là nơi chôn nhau cắt rốn, là nơi có họ
hàng thân thích bạn thân. Đi làm ăn xa, cũng mong trở về cố hương.Thành đạt trên
quan trường cũng phải trở về làng thôn để vinh quy bái tổ. Khi về già hưu dưỡng
cũng muốn quay về làng ở ẩn, tĩnh dưỡng tuổi già để rồi chết có làng nước chôn cất
bên cạnh mồ mả tổ tiên.Trí não làng xã của người Việt vẫn còn tồn tại, không
chỉ tại quê nhà mà ngay cả nơi người Việt hải ngoại. Nhiều hội đồng hương đã được
thành lập, và nhiều lễ hội được cử hành nhằm bảo vệ và phát huy truyền thống, giúp
người Việt gắn bó với dân tộc và quê hương. Nhưng người Việt cũng biết hội nhập
vào xã hội mới, để đừng biến thành những ốc đảo xa rời xã hội thực tiễn. Điều
trọng yếu hơn là giáo dục văn hóa cho thanh niên hiểu ý nghĩa tốt đẹp của truyền
thống dân tộc.

Công
việc đồng áng cầy cấy, gặt hái nặng nhọc và nhiêu khê, không ai một mình, một
gia đình có thể đảm đương mọi việc. Việc đổi công qua lại giữa gia tộc, chòm
xóm để phụ giúp nhau làm mùa dần dần dẫn theo thắm thiết tình nghĩa, tình đồng
hương, đồng bào từ đó đâm rễ sâu vào tâm hồn Việt. Trí não tương trợ, hợp quần
gây sức mạnh không chỉ xuất phát từ hoàn cảnh rõ ràng và cụ thể của xã hội vốn lấy nông
nghiệp làm cơ bản, nhưng còn biết bao nhiêu mối đe dọa khác, nhất là mối đe dọa
từ phương Bắc. Nhờ tình đồng bào ruột thịt, nhờ cùng một dòng máu Lạc Hồng tổ
tiên, dân tộc Việt đã đoàn kết, hợp quần chống trả để giữ gìn lãnh thổ giang sơn.

Quốc
gia:
Luân
lý và văn hóa Việt Nam không đề cao cá nhân, nhưng lấy gia đình làm nhà cung cấp căn
bản xã hội, dân tộc. Tiến sĩ Hồng Kim Linh, xét mối tương quan ngôn từ giữa tiếng
gia (nhà), và quốc (nước) như sau: Những giá trị của gia đình
truyền thống như phép tắc, gia giáo, lễ nghĩa, nhân ái, bao dung và tâm lý
trung dung hài hòa, đã làm cho xã hội ổn định, trật tự và dễ thương hơn. Gia
đình là trường dạy cho người ta biết kiềm chế mình, biết khắc phục khó khăn và
xung khắc, biết cởi mở và đón nhận trong tình tương thân tương ái và phục vụ lẫn
nhau. Xã hội thiếu vắng những giá trị nầy sẽ bị xáo trộn. Gia đình Việt Nam đã
và đang duy trì và phát huy những nét đặc trưng nầy, bất kể ở môi trường văn hóa nào.[35]

 

2 – Gia Đình Thừa Hưởng Phúc Đức Của Trời Đất, Ông Bà, Tổ Tiên:

Người
Việt Nam quen với đời sống nông nghiệp, thân thiện với trời đất, thiên nhiên và vạn
vật. Ngôi nhà của gia đình Việt Nam nép mình bên dòng suối, bờ sông, dưới gốc
đa, tàn lá, được bảo bọc chở che bởi lũy tre xanh, bởi đồng lúa vàng, luôn tìm
sự nương tựa vào thiên nhiên, đất trời. Người Việt luôn ý thức trên đầu mình,
trong nhà ngoài ngõ, nơi sông núi và ngoài đại dương luôn có những lực lượng thần
thiêng chi phối cuộc sống và an sinh của mình. Tình cảm tín ngưỡng nầy đã ăn
sâu trong văn hóa gia đình Việt Nam. Các lễ nghi cúng vái thờ thần luôn được thể
hiện trong cuộc sống gia đình và làng nước. Tin vào lẽ phải thiêng liêng và đó
là lẽ trời luôn thúc giục người ta biết ăn ở ngay lành, làm điều thiện được
phúc đức, làm điều ác sẽ bị quả báo trừng trị.[36]  Người thành công
trong công ăn việc làm, cha mẹ đông con, gia đạo bằng yên hạnh thông đều nhờ lộc
trời, ân đất. Quan niệm về phúc đức nầy đã ăn sâu vào tâm hồn Việt Nam: “.”
Nhưng phúc đức cũng có thể do bởi ông bà cha mẹ nữa, “

Phúc
đức của ông bà cha mẹ lưu lại cho con cháu được gọi là phúc ấm truyền đời, là
phúc tổ. Đào Duy Anh trong nhìn nhận nhân sinh quan nầy là nét văn hóa trong đời sống gia
đình: “ Tóm lại, phúc và đức từ trời,
từ ông bà cha mẹ là chất keo sơn đã nối liền nhân loại Việt vào cuộc sống xã hội,
và gắn bó cha mẹ với con cháu trong nhà Việt Nam.[38]

 

3 – Đạo Hiếu, Mẫu Số Chung Của Gia Đình Truyền Thống Việt Nam:

Văn
hóa Việt Nam chịu ràng buộc của Nho giáo trọng chữ tình chữ nghĩa, khác xa văn
hóa Âu châu đề cao duy lý, cá nhân chủ nghĩa. Đề cao tính tập thể gia đình làng
nước là nét đặc trưng nổi trội nơi gia đình Việt, và chữ Hiếu là nét sinh lực của
trí não tập thể đó. Có thể nói Hiếu là đạo sống của người Việt. Có người gọi
này là tính đạo Việt, là nguyên lý chi phối và nối kết mọi thế hệ trong xã hội
Việt Nam, là yếu tố quyết định mọi tương quan gia đình và xã hội. Chữ Hiếu cũng
lý giải mọi phong tục tập quán, tín ngưỡng trong xã hội truyền thống Việt Nam.
Theo của
Phạm Côn Sơn, thì:

Lịch
sử còn minh chứng nhiều nhân sĩ trí thức, quan lại đã từ chức để thọ tang cha mẹ.
Sách của triều
Nguyễn có chép nhiều chuyện về đạo hiếu. Và các vua chúa đã răn dạy nhiều về đạo
hiếu cho con dân, cũng như ra nhiều sắc chỉ, sắc phong cho những người nổi trội
giữ trọn đạo hiếu. Bộ luật Hồng Đức cũng công bố những án phạt cho những ai bất
hiếu. Hiếu không chỉ ràng buộc con cháu ruột thịt mà ngay cả con dâu cũng phải
vẹn toàn đạo hiếu bằng việc tôn thờ cha mẹ chồng. Tôn thờ ở đây có nghĩa là phụng
dưỡng, phục dịch, chăm sóc, tôn kính.[40]  Phát xuất từ tư tưởng rõ ràng và cụ thể và chân thực,
con cháu phải mang ơn nghĩa sinh thành của cha mẹ. Hiếu với cha mẹ thì cũng phải
hiếu với ông bà tổ tiên, cội nguồn của mình. Hiếu biểu lộ nơi việc thờ phụng tổ
tiên, ông bà, cha mẹ. Lúc sống phải phụng dưỡng, nghe theo lời dạy dỗ, khi chết
phải lo ma chay chôn cất, sau đó lập bàn thờ và cúng bái. Phong tục Việt Nam
cũng còn tin rằng vong hồn người đã khuất thường ngự trên bàn thờ để thân thiện
con cháu và trợ giúp con cháu trong cuộc sống.[41]

Trong
xã hội Việt Nam truyền thống hay trong xã hội đã đô thị hóa, các thách đố gia
đình không thiếu; may rủi, nghiêng ngả, khó khăn không hiếm, nhưng tỷ lệ gia đình
tan vỡ không cao so với những sắc dân khác.[42] Nguyên nhân dẫn tới sự bền
vững và ổn định hơn trong nhà Việt Nam chính là nhờ mối dây link tình
cảm mọi thành viên trong nhà, ngay cả nhờ những tình cảm của những người
thân tộc đã khuất. Điều rất tốt đẹp là gia đình và nhân loại Việt Nam đã đặt nặng
tình tương thân tương ái, biết kính trên nhường dưới, biết đặt quyền lợi và
danh dự gia đình, tập thể lên trên hết, nhất là lòng hy sinh quả cảm để lo cho
nhau. So với người Việt, gia đình là giá trị trọng yếu nhất. Gia đình ổn định
là mong ước to lớn hơn hết danh dự, lợi nhuận cá nhân.[43]

 

4 – Gia Đình Việt Nam Trân Trọng Phụ Nữ :

Đừng
dừng lại ở một vài vùng hoặc một thời kỳ lịch sử nào đó để tổng kết phụ nữ Việt
Nam có một chỗ đứng thấp kém trong nhà. Xã hội Việt Nam từ xưa đã lấy nông
nghiệp làm cơ bản. Nền văn minh nông nghiệp, cái nhà, cái bếp là nguồn gốc của
sự ổn định, và người phụ nữ giữ một vai trò trọng yếu trong sinh hoạt nền tảng
nầy.

Dưới
tác động văn hóa của Trung hoa suốt một ngàn năm, cơ chế phụ hệ đã du nhập vào
Việt Nam dẫn tới các định chế phụ hệ được thiết lập. Nhưng khi vào xã hội Việt
Nam, cơ chế và các định chế nầy cũng không chiếm ưu việt. Ngoài xã hội người phụ
nữ giữ một số vị trí, quan chức, thầy dạy, như nhà Nho giáo Ngô Chi Lan Đoàn Thị
Điểm. Trong lãnh vực sinh hoạt nông nghiệp, phụ nữ tiếp tục nổi trội nơi gia
đình khi họ tham gia trực tiếp sản xuất, cấy gặt, trồng hoa màu, quay tơ, dệt vải,
buôn bán. Yu InSum, trong “” đã viết:

Ngày
nay người phụ nữ trong xã hội Việt Nam làm việc ở công sở, xí nghiệp và chia sẽ
trách nhiệm xã hội với chông. Ở nông thôn người phụ nữ ngoài việc trực tiếp
tham gia việc đồng áng, còn đảm nhiệm việc nội trợ, nuôi dạy con cháu, cân đối
ngân sách gia đình. Đức tính hiền thục của người phụ nữ Việt Nam giúp họ giải
quyết các xung đột trong nhẫn nại, hy sinh và vị tha. Nhờ những tiết hạnh cao thượng
nầy mà người phụ nữ Việt Nam không chỉ điều hòa ấm êm trong nhà, nuôi dạy
con cháu thành đạt mà còn làm chồng thăng tiến.[45]

 

5 – Gia Đình Là Yếu Tố Quan Trọng trong Sự Thành Đạt Của Con Cái:

Không
ai phủ nhận môi trường gia đình đã có tác động trong việc tạo dựng tư cách
cũng như sự thành đạt của con cháu.[46]  So với xã hội truyền thống Việt Nam điều nầy
lại càng đúng hơn. Quả vậy, văn hóa gia đình Việt Nam chứng thực sự gắn bó mật
thiết giữa các thành viên gia đình. Nhất là giữa cha mẹ và con cháu đã là động
cơ để con cháu nỗ lực vươn lên. Môi trường gia đình ổn định, nề nếp, tôn trọng lẫn
nhau sẽ tạo ra một tâm lý ổn định làm nền tảng cho sự thăng tiến cuộc sống. Trong
mọi sự việc học tập và thành đạt của con cháu là mối quan tâm hàng đầu của cha
mẹ. Cha mẹ lam lũ cực nhọc để con được hơn người. Con cháu phấn đấu thành đạt để
cha mẹ vui, và cũng để đền ơn trả hiếu phần nào cho cha mẹ. Nhiều mẩu chuyện Hiếu
đạo trong lịch sử và xã hội Việt Nam đã minh chứng đậm nét ý kiến nầy. Nhiều
người sau thời điểm thành đạt trong nghề nghiệp, học vấn đã quay về nhà trước tiên để
lũ tỏ lòng mang ơn cha mẹ.[47]  Trong ngày ra trường, nhiều sinh viên tốt
nghiệp đã mạnh mẽ tuyên dương công lao cha mẹ đã hy sinh dưỡng dục và là động
cơ chính xúc tiến họ đi tới thành công.

Nhiều
gia đình Việt Nam nghèo túng, bản thân cha mẹ không được đi học hoặc không học
đến nơi đến chốn, họ đã đặt hoài vọng của họ trên con cháu. Họ ra sức làm việc cực
nhọc, quyết tâm đôn đốc, chăm sóc và dành mọi nỗ lực tài chánh cho con học tập
thành người. Nhiều gia đình Việt Nam không ngại bôn ba đất khách quê người; vì
tương lai của con cháu, nhiều khi chính bản thân họ đã trả bằng máu, bằng tù tội,
và cả bằng tử vong.[48] Sống trong bầu khí ấm êm của
gia đình, trong sự chăm sóc yêu thương của cha mẹ, anh chị em, con cháu làm sao
mà không vươn lên được. Giáo dục gia đình là ở chỗ đó và tác động gia đình là
vậy.

 

6 – Gia Đình Việt Nam Thể Hiện Lối Sống Tình Nghĩa :

Cho
đến nay, nhìn chung các gia đình Việt Nam, với truyền thống, tổ chức và quy định
tôn ti trật tự, biết kính trên nhường dưới, lối sống tình nghĩa yêu thương đã
giúp giữ được sự kiên cố được gia đình.[49] Truyền thống nầy cũng quy định,
không phải bằng văn bản, luật lệ, nhưng bằng tâm khảm, vai trò và nghĩa vụ người
chồng người vợ, con cháu, so với gia đình và so với nhau. Nói chung khi bước
vào đời sống gia đình mọi người hiểu là mình không còn chăm sóc cho mình nữa,
mà là cho “người ấy.” Mọi sự là của nhau và không khi nào nghĩ ngợi ký cóp để đề
phòng khi nguy hiểm, chia lìa, ly dị. Mọi người trong nhà nỗ lực vun đắp
theo cách thế và vị trí của mình. Cha mẹ không sinh con để hòng nương tựa tuổi
già, mặc dầu đạo hiếu ràng buộc nghiêm minh. Cha mẹ suốt đời lam lũ vì con và
cho con. Cha mẹ nào cũng thao thức làm sao để khi không còn làm việc được nữa
thì cũng có của ăn của để trao lại cho con cháu. Trái lại con cháu không vì đó
mà tỏ ra ỉ lại, lêu lổng, nhưng nỗ lực giữ gìn vun đắp di sản cha ông. Con cháu
ý thức được rằng di sản, tài sản của ông bà cha mẹ là hương hỏa cần bảo tồn và
phát triển.

Anh
chị em sống tình nghĩa ruột thịt vì cùng chung một núm ruột. Họ sống bao bọc
chở che nhau, chín bỏ làm mười, giữ được hòa khí yêu thương. Khi có chuyện xích
mích, họ cũng lấy chữ nhẫn làm đầu; vì sợ hàng xóm cười chê, xấu hổ gia đình.
Nghĩ về lối sống tình nghĩa gia đình, Giám mục Nguyễn Thái Hợp, Σ.ᴘ đã có nhận
xét rõ ràng và cụ thể và tinh tế: “

 

1 – Tinh Thần Gia Tộc Đóng Kín:

Tinh
thần dân tộc là nét văn hóa của xã hội nông nghiệp. Nhưng trong xã hội với xu
thế toàn thế giới hóa, thiên hướng cá thể, thôn làng không còn thích hợp cho sự phát
triển nhân loại và cuộc sống. Người ta phải bước ra khỏi sự đóng kín, nếu không
muốn đẩy lại đàng sau. Lối sống tình cảm, mềm dẻo, kín đáo, xuề xòa của đời sống
gia đình truyền thống không đảm bảo được sự kiên cố của gia đình trong một xã
hội hướng tới phát huy nền dân chủ, quyền tự quyết, và trách nhiệm liên đới. Mọi
sinh hoạt của xã hội mới phải được quy định và chi phối bằng pháp luật. Pháp trị
là xu thế hiện đại làm cho xã hội ổn định và phát triển. Tổ chức gia tộc,
làng xã, phường hội đã không còn đủ khả năng để giúp xã hội và nhân loại bắt kịp
với cuộc sống với thiên hướng toàn thế giới hóa.[51]

 

2 – Óc Gia Trưởng:

Nguyễn
Ngọc Thêm trong tác phẩm đã có nhận định:

 Nếu sự ràng buộc giữa cha mẹ và con cháu bằng lối
sống tình nghĩa là tốt thì lối sống nầy cũng có thể làm phát sinh quyền lực
trong nhà. Nếu óc gia

trưởng,
thói gia đình chủ nghĩa, bệnh ỉ lại, nương tựa, tùy tiện vốn là nhược điểm cố hữu
trong xã hội lấy nông nghiệp làm cơ bản, thì tình gia tộc có thể biến thành một
thứ ích kỷ, khép kín và óc địa phương hẹp hòi.[53]  Toàn bộ những phát sinh tiêu cực nầy rõ ràng
đi trái lại với các giá trị thời hiện đại: nhân vị và liên đới, sự tương tác giữa
trách nhiệm cá nhân và mưu cầu an sinh xã hội.

 

3 – Giá Trị và Hạnh Phúc Cá Nhân cần được trân trọng:

Một
số tư tưởng lễ giáo, tục lệ gia truyền mà một số ít gia đình Việt Nam luôn cứng
nhắc nắm giữ đã trói buộc và kềm hãm tự do và ý tưởng của các cá nhân. Giá trị
nhân loại và hạnh phúc cá nhân cần được quan tâm vì này là động cơ cho mọi nỗ lực
làm việc và tranh đấu trong xã hội tân tiến. Lương tri nhân loại ngày nay khó
có thể chấp thuận những quy định mà một thời rất được trân trọng tại Việt nam,
như

 

4 – Luật Lệ Khắt Khe và Trói Buộc Phụ Nữ:

Lòng
trân trọng và yêu thương của mọi thành viên gia đình Việt nam giành cho người vợ,
người mẹ là một nhất định. Vì tư tưởng cái nhà và cái bếp là nguồn gốc của mọi
sự ổn định và ấm êm của gia đình một thời; nơi đây cũng nhất định vai trò quan
trọng của người phụ nữ. Tuy nhiên, cũng từng qua rồi thời mà người phụ nữ bị tóm gọn
cam phận với những trói buộc khó tính tam tòng, tứ đức… Người phụ nữ Việt nam,
cùng với nhịp tiến bộ xã hội, đã dần dà ý thức hơn quyền đồng đẳng trong mọi phạm
vi từ gia đình tới xã hội, từ kinh tế tới chính trị. Hẳn nhiên vai trò của họ
trong nhà vẫn mãi là một ơn gọi đáng trân trọng và không ai có thể làm tốt
hơn chính họ. Đã qua rồi tư tưởng con gái tại gia thì phải phụ thuộc cha, lấy
chồng thì phải tùy thuộc vào chồng và nhà chồng, khi chồng chết thì hoàn toàn
tùy thuộc vào con cháu. Hệ thống giáo dục nhân loại và xã hội dưới tác động Nho
giáo đã bám rễ sâu hàng ngàn năm với những tiêu chuẩn cực đoan và một chiều, đã kềm
hãm người phụ nữ và xã hội trong lạc hậu và chậm tiến, bên cạnh một hệ thống y
tế hầu hết dựa vào phù chú, ma thuật, các loại cây cỏ và phương thức dân dã
gia truyền. Tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh cao, và tuổi thọ giảm thấp là hậu quả tất
nhiên.[55] Ngày nay người ta ý thức rằng
chính sự thăng tiến phụ nữ cũng là một phúc lợi cho xã hội.

Hôn
nhân theo văn hóa truyền thốngViệt không chỉ là mẩu chuyện của đôi trai gái yêu
nhau, mà đang là công việc và danh dự của dòng tộc của tập thể. Nhờ hôn phối mà
quan hệ thân tộc được nới rộng, từ làng nầy tới làng kia, vùng nầy tới vùng nọ,
cả một dân tộc thành một đại gia đình. Qua việc sinh con, vợ chồng không chỉ
vẹn toàn tính năng sinh sản mà còn làm nhiệm vụ lưu truyền sự sống cho dòng tộc,
dân tộc tới ngàn sau. Vì vậy việc sinh con là trọng yếu; nếu lỡ cặp vợ chồng

nào không có con, không chỉ có lỗi với ông bà cha mẹ, mà còn đeo đẳng một nỗi
buồn tủi, vì không được phúc đức của ông bà để lại. Nếu tư tưởng phúc đức một
thời đã rất trọng yếu nơi người Việt,[56] “”; “,” thì ngày nay với tiến bộ vượt bực
của các nghề khoa học, nhất là y khoa và tâm lý, người ta trưởng thành hơn
trong quyết định và tiếp nhận trách nhiệm cho mọi chọn lựa cuộc sống của mình.

Một
khi đã thành vợ thành chồng thì phấn đấu để giữ lấy mối dây liên hệ gia tộc. Đó
là tình cảm gia thất. Những quy định ràng buộc mối liên hệ vợ chồng được nâng
lên hàng đạo: đạo vợ chồng. Duyên Hạc Lê Thái Ất đã tổng hợp đạo vợ chồng trong
một số phạm trù liên hệ:.
Vì ý thức và đặt tình yêu
hôn phối trong tương quan tập thể gia tộc, cộng đồng, cũng như nhờ mặc một ý
nghĩa thiêng liêng mà vợ chồng đã cả đời gắn bó. Vợ chồng ít khi nghĩ tới ly dị,
ly thân hoặc phá thai. Đạo vợ chồng là đạo xướng tùy, “ ”;
“.” Ngày
nay, tình yêu, lòng thủy chung và trí não trách nhiệm là những giá trị được
lưu tâm trong hôn phối. Sự chọn lựa ý thức, thay vì nhắm mắt mang chân, là yếu
tố chi phối sự bền vững và giá trị của hôn phối. Người ta chọn một người và sống
chung với người đó, chọn một gia đình và xây dựng gia đình đó, chọn một lời thề
và quyết tâm sống trọn lời thề đó. Này là hướng đi của hôn phối hạnh phúc và gia
đình hiện đại.[58]

 

5. – Tôn Trọng Nhân Vị của Con Cái :

Nhận xét trên đây có phần đúng với các cha mẹ Việt Nam
trong truyền thống gia đình, với tư tưởng: “”; “.” [59]  Nếu trong quá khứ, gia đình giữ vai trò quan
trọng trong việc giáo dục con cháu, phân phối cho xã hội những công dân tốt, thì
ngày nay, gia đình vẫn còn vai trò quyết định đó. Nhưng cách thế để đạt tới mục
đích thì đã khác hoàn toàn. Tâm lý trẻ đầy năng động ngày nay đã chịu ràng buộc trào
lưu mới nhờ thụ hưởng tài sản dân chủ tự do, cả những phát minh khoa học kỹ thuật
và thúc đẩy của xu thế xã hội hóa giáo dục. Chúng có cách tư duy riêng, cách
hành động và cuộc sống riêng, đòi buộc cha mẹ có cách tiếp cận giáo dục thích hợp,
nếu muốn vẹn toàn tốt sứ mệnh giáo dục.[60]

 

Mấy
chục năm gần đây, những thay đổi mang tầm vóc quốc tế trong cuộc sống gia đình
nối liền với sự thay đổi trên nhiều lãnh vực xã hội, kinh tế, chính trị. Hiện

nay, không chỉ trong các xã hội mới mà người Việt Nam và gia đình Việt Nam đang
hội nhập tại Âu – Mỹ, mà ngay trong nếp sống và sinh hoạt của các thành thị tại
Việt nam, không ít người thành công và đi dần vào giòng chính. Ngoài xã hội họ
thành công; trong nội thất họ cũng bảo toàn được các giá trị văn hóa gia đình.
Con cháu họ được dẫn dắt hòa nhập vào nền giáo dục của xã hội mới, của thời mới;
đồng thời, cũng còn giữ lại được nề nếp gia phong, gia lễ thiết yếu. Bên cạnh
những gia đình thành công nầy, còn tồn tại vô số những gia đình đang bị nghiêng ngả và
khó khăn. So với họ, thật không đơn giản gì để hành xử và dắt dìu gia đình đi bằng
an giữa hai nền văn hóa gia truyền và tân thời, lắm khi đối kháng nhau gay gắt.[61]  Nhiều gia đình co rút lại để tìm sự an toàn
trong tập quán, phong tục, nếp sống và sở thích, trong lúc giòng chảy xã hội vẫn
mạnh mẽ trôi đi.[62]

Đặc
biệt các tính năng gia đình truyền thống khó tồn tại nếu không được điều chỉnh
để thích hợp và phát triển theo xu thế của thời kì và môi trường. Sự dịch chuyển
các tính năng từ gia đình truyền thống sang gia đình hội nhập nhiều ít gì cũng
tạo ra những cọ xát đau lòng xót dạ. Động cơ của các chuyển hóa tính năng gia
đình chính là sự bành trướng giáo dục trong một xã hội phồn thịnh kinh tế và đô
thị hóa.[63] Hệ quả trọng yếu của sự biến
chuyển này là giá trị nhân loại, nhất là phụ nữ, được nâng cao và mở ra cho họ
nhiều cánh cửa với toàn cầu bên ngoài gia đình. Điều này dẫn tới sự trưởng
thành ý thức và độc lập trách nhiệm. Các động cơ nầy cũng có thể đã dẫn tới một
số khái niệm hôn phối, mà theo nhiều người cho rằng, làm cho gia đình mong manh
và đầy nguy hiểm. Hôn phối là sự kết ước tự do tuyệt đối, là mối liên hệ hoàn
toàn riêng tư, và như một khế ước dân sự lập thành do sự trao đổi giữa một
người nam và người nữ; nhưng có một điều chắc cú, sự mong manh và đỗ vỡ của
nhiều gia đình ngày nay đã là một bức tranh buồn, và là gánh nặng cho xã hội.
Dr. Phil McGraw, chuyên viên gia đình, và là tác giả quyển sách bán chạy nhất  “nhất định:

Gia
đình là nơi tình thương yêu giữa cha mẹ và con cháu được bộc bạch. Gia đình cũng
là nơi chồng vợ và mọi thành viên đón nhận và trao ban lòng trân trọng yêu thương.
Tất cả chúng ta hãnh diện đã có một di sản tốt dẹp về gia đình truyền thống Việt nam;
nhưng tất cả chúng ta cũng quyết tâm làm thăng hoa các vẻ đẹp gia đình, bằng những
thích ứng hội nhập với những thay đồi thời kì, không chỉ để tốn tại, mà là tồn
tại một cách mạnh mẽ.

Tới đầu trang ← → Về MỤC LỤC

[1]
George Murdock, Social Structure, NY, Macmillan, 1949, 45.

[2]
Ibid, 79.

[3]
Charles ɭ. Jones, Lorne Tepperman, The Future of the Family, 𝒱.𝒬.Hà dịch, nxb Đại
Học QG Hà Nội, 2000, 44.

[4]
Mortimer Ĵ. Adler, Great Ideas from the Great Books, NXB Văn Hóa Thông Tin,
237.

[5]
Trần Ngọc Thêm, , nxb TPHCM, 1996, 291.

[6]
của
CHXHCNVN, 29/12/1986, điều 19.

[7]
Tông Huấn Familiaris Consortio số 18 xác nhận gia đình không chỉ là thực tại
văn hóa, xã hội, lịch sự, mà đang là một thực tại thiêng liêng. Vì vậy gia đình
có 4 nhiệm vụ chính: 1. thành lập nên cộng đoàn nhân vị; 2. Phục vụ cho sự sống,
sinh sản; 3. Tham gia vào việc phát triển xã hội; 4. Chung phần sứ vụ của GiáoHội.

[8]
Phạm Côn Sơn, , NXB Văn Hóa Dân Tộc, 2002, 364.

[9]
Phạm Côn Sơn, , NXB Văn Hóa Dân Tộc, 2002, 367. 10 Ibid.

[10]
Ibid. 376.

[11]
Ibid. 368.

[12]
Phạm Côn Sơn, Văn Hóa Phong Tục Việt Nam ABC, NXB Văn Hóa Dân Tộc, 2002, 373.

[13]
Lê Ý Thu, Cuộc Sống Gia Đình, nxb Phụ Nữ, Hà Nội, 2000, trang 8-18

[14]
Trần Ngọc Thêm, Tìm Về Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam, nxb TPHCM, 1996, 98.

[15]
Ibid., 527.

[16]
Trung Tâm Văn Hóa Nguyễn Trường Tộ, , Đinh

Hướng Tùng Thư 2000, 69.

[17]
Ibid., 72.

[18]
Ibid. 73.

[19]
Ibid.

[20]
Lm Nguyễn Thái Hợp, ,
nxb Chân Lý, 1997, 55.

[21]
, Định
Hướng Tùng Thư xuất bản, 2002, 57.

[22]
, NXB Phụ Nữ, 1999,
40.

[23]
HĐGMVN. Thư mục vụ về Môi Trường Giáo dục Gia đình Đạo thiên chúa, 5-12-2008.

[24]
Phạm Hồng Lam, Tình Yêu – Gia Đình và Vấn Đề Hội Nhập, 63

[25]
Tìm Về Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam, 210.

[26]
Văn Hóa Phong Tục Việt Nam ABC, 364.

[27]
Hội Nhập Văn Hóa Trong Hôn Nhân và Gia Đình Việt Nam, 17.

[28]
Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam, 626.

[29]
Dr. Phil McGraw, , NXB
Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, 2005, trang bìa.

[30]
Phạm Côn Sơn, , nxb Văn Hóa Dân Tộc, 2002, 365.

[31]
Trần Ngọc Thêm, , nxb TPHCM, 1966, 203.

[32]
Đào Duy Anh, Việt Nam Văn Hóa Sử Cương, 385.

[33]
“Khởi đầu, vào thời Bắc thuộc, người nước ta hay dùng những nghi thức của Chu
Văn Công, bên Tàu  soạn  ra. Những tục lệ nầy là của một nhà nặng
phong tục Hán Tộc. Vào đời nhà Trần, ông Hồ Sĩ 
Dương, người làng Hải Thượng, tỉnh Hải Dương, hiện là Thọ Mai,  có soạn ra bộ sách gọi là “Thọ mai gia lễ.”
So với sách “Chu Công gia lễ,” “Thọ Mai gia lễ” có những đặc tính theo phong tục
của  nước ta. Từ đó, người dân vận dụng những
nghi lễ theo bộ sách  nầy” (, Phạm Côn
Sơn, NXB Văn Hóa Dân Tộc, 2002, 375).

[34]
Hồng Kim Linh, , Hồng Lĩnh
xuất bản, 1985, 87.

[35]
Văn Hóa Việt Nam, Truyền Thống và Hiện Đại, 284.

[36]
Tìm Về Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam, 272.

[37]
Lê Văn Siêu, ,
NXB Sống Mới, 82.

[38]
Duyên Hạc Lê Thái Ất, ,
2nd edition, 2003, 183.

[39]
Phạm Côn Sơn, , NXB Văn Hóa Dân Tộc, 2002, 638.

[40]
Ibid.

[41]
Văn Hóa Phong Tục Việt Nam ABC, 429.

[42]
Tình Yêu Gia Đình và Hội Nhập, 209.

[43]
Tìm Về Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam, 201.

[44]
Yu InSum, Luật Pháp và Gia Đình Việt Nam Thế Kỷ XVII-XVIII, Hoa Kỳ, 1987.

[45]
Tình Yêu Gia Đình và Hội Nhập, 209.

[46]
Trọng Minh, , Mekong
Printing, 9.

[47]
Văn Hóa Phong Tục Việt Nam ABC, 308.

[48]
Vẻ Vang Dân Việt, 12.

[49]
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, , niêm giám 2005, phụ lục.

[50]
Nguyễn Thái Hợp Σ.ᴘ, ,
NXB Chân Lý, 1997, 97.

[51]
Một Nửa Hành Trình, 99.

[52]
Tìm Về Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam, 204.

[53]
Một Nửa Hành Trình, 99.

[54]
Ibid. 101.

[55]
Trung Tâm Văn Hóa Nguyễn Trường Tộ, , Định Hướng Tùng Thư 2002, 9-40. 

[56]
Nhóm Chuyên Viên về văn hóa, , nxb Văn Hóa, 1999, 157.

[57]
, Kim Ấn quán, 2003,
241.

[58]
Văn Hóa Việt Nam, 254 & 271.

[59]
Lê Ý Thu, , nxb Phụ
Nữ, Hà Nội, 2000, 51.

[60]
Ibid. 48.

[61]
Ibid. 75.

[62]
Xem thêm các tác giả: Trần Ngọc Thêm, TPHCM, 1996Đoàn Thêm, , NXB
Phạm Quang Khải, Hoa Kỳ, 1995Cao
Xuân Huy, , NXB Văn Học, 1995. Hồ Sỹ Vịnh, Hà Nội, 1993.

[63]
Familiaris Consortio, 18.

[64]
Dr. Phil McGraw, , nxb
Văn Hóa Thông Tin, 2005, chương 15.

Tới đầu trang ← → Về MỤC LỤC


Xem thêm những thông tin liên quan đến đề tài truyền thống gia đình là gì

Truyền thống Gia Đình

alt

  • Tác giả: Chanle Vesnom
  • Ngày đăng: 2020-03-27
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 1179 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm:

Bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống của gia đình trong điều kiện hiện tại

  • Tác giả: smot.bvhttdl.gov.vn
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 6313 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm:

Ý nghĩa tự hào về truyền thống gia đình dòng tộc là?

  • Tác giả: hoc247.net
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 4892 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm:

Ý nghĩa của truyền thống gia đinh, giòng họ là gì ?

  • Tác giả: hoc24.vn
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 1552 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Ý nghĩa của truyền thống gia đinh, giòng họ là gì ?

Väƒи Hã³A Gia Đình Truyền Thống Là Gì, Gia Đình Trong Truyền ThốNg Văn Hoá ViệƬ Nam

  • Tác giả: phonghopamway.com.vn
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 2128 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Văn hóa gia đình Việt Nam truyền thống coi gia đình là một giá trị sống, Ảnh: forum

Ý nghĩa của truyền thống gia đình, dòng tộc

  • Tác giả: toploigiai.vn
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 8714 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Ý nghĩa của truyền thống gia đình, dòng tộc

Các truyền thống gia đình dòng tộc

  • Tác giả: kthn.edu.vn
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 1268 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm:

Xem thêm các nội dung khác thuộc thể loại: giải trí