Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí gồm dàn ý cùng 12 bài văn mẫu, giúp các em học sinh lớp 9 tham khảo, tích lũy thêm vốn từ
Bạn đang xem: hình ảnh vua quang trung
Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí gồm dàn ý cùng 12 bài văn mẫu, giúp các em học sinh lớp 9 tham khảo, tích lũy thêm vốn từ để viết bài văn phân tích hay hơn.
Bạn đang xem: Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí
Với 12 bài phân tích hình tượng vua Quang Trung, sẽ giúp các em có thêm tài liệu tham khảo để ngày càng học tốt môn Ngữ văn 9. Vậy mời các em cùng theo dõi nội dung cụ thể trong nội dung dưới đây của Download.vn:
Dàn ý phân tích hình tượng vua Quang Trung
Ι. Mở bài:
- Giới thiệu về hình ảnh Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí
Ví dụ:
Lịch sử Việt Nam trải qua bao nhiêu đời và có bao nhiêu thăng trầm lịch sử, trải qua nhiều vị vua tài ba lãnh đạo. một trong những vị vua tài ba ấy có hình ảnh lỗi lạc của vua Quang Trung. Hình ảnh vua Quang Trung được trổ tài rõ qua tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí. Tác phẩm ghi chép lại sự thống nhất của vương triều Lê. Tác phẩm đã tái hiện một lịch sử hào hùng và oanh liệt của dân tộc Việt Nam xưa.
II. Thân bài:
– Phân tích hình ảnh Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí
1. Hình ảnh một người quyết đoán, mạnh mẽ
- Giận, liền họp các tướng sĩ, tự mình cầm quân để đuổi bọn giặc
- Nghe lời tướng sĩ đứng ra làm vua và tiến quân ra Bắc
- Tổ chức hành quân hỏa tốc
- Tổ chức duyệt binh, tuyển binh
- Lập mưu hoạch hành quân đánh giặc
2. Là một nhân loại tỉnh táo, có tầm nhìn xa và trông rộng:
- Phân tích rất đúng và tỉnh táo sự tương quan giữa quân ta và quân địch
- Rất giỏi trong việc phán xét và dùng người
- Mở tiệc khao quân
3. Tài giỏi trong việc dùng binh:
- Vị tướng mưu lược tài ba
- Có sự tính toán trong việc hành quân và đánh giặc
- Có những mưu tính rất chuẩn xác
4. Có cách đánh giặc mới mẻ:
- Bắt gọn bọn nghe thám
- Đánh nghi binh
- Là một vị vua tài ba, có tài cầm quân và mưu lược rất chuẩn xác
III. Kết bài:
- Nêu cảm nghĩ của em về hình ảnh Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí
Phân tích hình tượng vua Quang Trung – Mẫu 1
Nguyễn Huệ – người người hùng áo vải ở đất Tây Sơn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Người người hùng áo vải ấy với thiên tài quân sự của mình đã quấy tan hai mươi chín vạn quân Thanh xâm lược, làm cho bọn bán nước cầu vinh ê chề nhục nhã. Có thể nói Hồi thứ mười bốn trong tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí của nhóm Ngô gia văn phái đã phản ánh khá đầy đủ chân dung người người hùng Nguyễn Huệ. Càng đọc tất cả chúng ta càng khâm phục tài năng xuất chúng của người người hùng áo vải đất Tây Sơn ấy.
Chân dung người người hùng Nguyễn Huệ, trước hết được mô tả gián tiếp qua lời người con gái phục dịch trong cung vua, tâu với bà hoàng thái hậu. Mặc dù vẫn xem Nguyễn Huệ là “giặc”, gọi Nguyễn Huệ bằng “hắn”’ nhưng người cung nhân ấy cũng không giấu được sự thán phục của mình trước tài năng xuất chúng của Nguyễn Huệ. Đây là một đoạn trong lời tâu của cung nhân:” Nguyễn Huệ là một tay người hùng lão luyện dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam ẩn hiện như quỷ thần không ai có thể lường hết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn…”. Trong lúc nói những lời ấy chắc người cung nhân đã chọn lời lẽ vừa phải, thích hợp, chưa dám bộc lộ hết ý nghĩ của mình về Nguyễn Huệ, nhưng một người vốn xem Nguyễn Huệ là “giặc” thán phục đến như vậy đủ biết Nguyễn Huệ tài năng đến mức nào.
Ngay những người thuộc nhóm Ngô gia văn phái vốn theo “chính thống” phần nào bị ý kiến “chính thống” chi phối, trước thiên tài của Nguyễn Huệ vẫn phải ca tụng Nguyễn Huệ một cách trung thực, khách quan. Qua việc mô tả trực tiếp cuộc hành quân thần tốc, tác giả đã cho mọi người thấy tài năng quân sự xuất chúng của người người hùng áo vải Tây Sơn. Được tin quân Thanh kéo vào Thăng Long, Nguyễn Huệ giận lắm, định cầm quân đi ngay. Nhưng Nguyễn Huệ đã biết nghe theo lời khuyên của mọi người, cho đắp đàn ở núi Bân tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu Quang Trung. Lễ xong mới hạ lệnh xuất quân. Điều này chứng tỏ mặc dù tài năng hơn người nhưng Nguyễn Huệ rất biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến người khác.
Riêng phẩm chất ấy của ông cũng đáng để tất cả chúng ta kính nể, học tập. Việc Nguyễn Huệ tự mình đốc suất đại binh tiến ra Thăng Long vào đúng thời điểm Tết Nguyên đán cũng chứng tỏ phần nào tài năng quân sự của ông. Bời vì này là thời điểm kẻ thù ít dự phòng nhất, dễ lơ là cảnh giác nhất. Nguyễn Huệ rất hiểu sức mạnh trí não, ông không chỉ có tài cầm quân mà còn tồn tại tài hùng biện. Trong lời dụ của mình, ông đã khích lệ được lòng yêu nước, căm thù giặc, truyền thống chống ngoại xâm cho tướng sĩ:” Quân Thanh sang xâm lược nước ta, hiện ở Thăng Long các ngươi đã biết chưa?… Người phương Bắc không phải giống nòi nước ta lòng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, sát hại nhân dân ta, vơ vét của cải người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi.
Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc…”. Lời dụ của Quang Trung có sức thuyết phục không kém Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn. Một điều mà các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí hết sức khâm phục Nguyễn Huệ là tài dùng người. Tiêu biểu là việc cài Ngô Thời Nhậm ở lại làm việc với các tướng Sở và Lân. Sự việc diễn ra đúng như phán đoán của Nguyễn Huệ. Ngô Thời Nhậm đã phát huy vai trò của mình “Biết nín nhịn để tránh mũi nhọn”, “bên trong thì kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm cho giặc kiêu căng’ .
Nguyễn Huệ còn dự đoán chính xác những sự việc sắp xảy ra. Ông là một người đầy tự tin: “Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn, chẳng qua mười ngày có thể đuổi được người Thanh”. Nhưng ông cũng luôn luôn để phòng hậu hoạ: “ Quân Thanh thua trận ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế việc binh đao không bao giờ dứt”. Và ông đã dự kiến chọn người “khéo lời lẽ’ để “dẹp việc binh đao” đó cũng là Ngô Thời Nhậm. Qua cách nghĩ của vua Quang Trung thấy ông không chỉ nhìn xa trông rộng mà còn hết lòng vì dân. Ông không muốn dân phải luôn luôn chịu cảnh binh đao xương rơi máu chảy. Trong lúc tiến quân ông cũng chọn cách tránh cho quân sĩ đỡ phải tổn thất: “Vua truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín. Quân thanh nổ súng bắn ra chẳng trúng người nào cả”. Này là cái giỏi cũng là cái tâm của người cầm quân.
Đoạn thuật lại việc Quang Trung đại phá quân Thanh trong Hồi thứ mười bốn (Hoàng Lê nhất thống chí) của nhóm Ngô gia văn phái hết sức sinh động. Qua đó người đọc có thể hình dung được chân dung của người người hùng áo vải Quang Trung không chỉ là nhà quân sự thiên tài “xuất quỷ, nhập thần” mà đang là một tướng quân giàu lòng yêu nước, có ý thức dân tộc hết sức sâu sắc. Ông là hình ảnh đối lập với những tên vua bán nước, hèn nhát. Quang Trung mãi mãi được mọi người kính phục, yêu mến.
Phân tích hình tượng vua Quang Trung – Mẫu 2
Quang Trung – Nguyễn Huệ là một thiên tài quân sự, một vị người hùng dân tộc kiệt xuất. Hình ảnh vua Quang Trung tiêu biểu cho trí não quật cường, quật cường của dân tộc Việt Nam. Chỉ với 39 tuổi xuân, Quang Trung đã có 22 năm đánh Nam dẹp Bắc – tạo nền tảng cho quá trình thống nhất quốc gia; đuổi Xiêm diệt Thanh – góp phần bảo vệ vững chắc nền độc lập nước nhà. Mỗi chiến công trong cuộc sống Quang Trung đánh dấu một mốc son trong lịch sử hào hùng của cả dân tộc.
Nói đến vua Quang Trung, trước hết nói đến một người hùng với tính cách mạnh mẽ quyết đoán mỗi lần ông hành động. Nghe tin giặc đã kéo đến tận Thăng Long ông đã rất tức giận, đã họp các tướng sĩ, “định thân chinh cầm quân đi ngay”. Rồi trong vòng chỉ một tháng, Nguyễn Huệ đã làm bao nhiêu việc lớn: “Tế cáo trời đất”, “lên ngôi hoàng đế”, “đốc suất đại binh” ra Bắc, gặp mặt “người cống sĩ ở huyện La Sơn”, tuyển mộ quân lính và mở các cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định plan hành quân, đánh giặc và plan ứng phó với nhà Thanh sau thắng cuộc. Là nhân loại hành động liên tục, không ngừng làm việc, có tính cách xông xáo, mọi quyết định đều nhanh gọn và rất dứt khoát, xứng đáng là vị chủ tướng trên vạn quân.
Vua Quang Trung còn nổi tiếng là nhân loại có trí tuệ tỉnh táo, rất nhạy bén trong mọi trường hợp. Ông có một tầm nhìn xa trông rộng, mưu cao trí lược, hơn nữa cái nhìn tổng quan ấy còn hỗ trợ ông định hình về tình thế và về thời cuộc ông lên ngôi với mục đích có thể ” để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người”. Vì vậy, ông mang ra mọi quyết định đều suy xét trước hết, làm thế nào để yên bề tình hình, giúp cho mục đích cuối cùng. Ông phân tích tình hình quân địch, nhận định được thế lực hai bên để phán đoán trong từng bước đi của mình. Ông mang vào trong bài hịch những tội ác của giặc, chúng đã gây nên tội ác với nhân dân ta, phá huỷ nhiều nếp nhà, làm cho quân sĩ được khích lệ trí não, đồng thời ông cũng nhắc đến nhiều tên tuổi người hùng bảo vệ dân tộc như: Hai Bà Trưng, Đinh Tiên Hoàng…Ông dùng những lời lẽ mềm mỏng để thuyết phục những kẻ “mềm lòng” dễ thay lòng đổi dạ, lạt mềm thắt chặt, nhưng vẫn không mất cái uy. Quang Trung hiểu rõ sở trường và sở đoản các tướng lĩnh dưới trướng mình bởi vậy ông vẫn trách mắng để họ nhận thấy khuyết điểm đồng thời tha cho họ. Việc làm của ông là hành động tỉnh táo, giúp thu phục nhân tâm, ai nấy đều phải tâm phục, khẩu phục.
Với Quang Trung, tư tưởng quyết đấu, quyết thắng, tầm nhìn xa, trông rộng rất trọng yếu. Ông đã kiên quyết nhất định chỉ trong vòng mười ngày có thể lấy lại kinh thành Thăng Long, nói được làm được, đây chính là một trong những trận chiến người hùng nhất trong suốt những năm tháng chống quân xâm lăng của dân tộc ta. Ông đã mềm mỏng dùng ngoại giao để giữ hoà bình và cuộc sống cho nhân dân. Trên chiến trường, ông tổ chức trận đánh hết sức linh hoạt, sáng tạo, với nhiều kế binh hiểm hóc phối hợp nhuần nhuyễn nhiều cánh quân, cách đánh luôn giữ thế chủ động, lúc cần thì phòng thủ, luôn lợi dụng được nhược điểm của quân địch khiến kẻ thù không kịp trở tay. Tài dùng trận thì khỏi tranh biện: trận Hà Hồi, trống rong cờ mở bắc loa đàn áp trí não quân giặc, trận Ngọc Hồi bện rơm tránh lửa, dùng kế gậy ông đập lưng ông, đồng thời đánh chặn chốt giặc khiến chúng hồn xiêu phách lạc.
Xây dựng hình tượng vua Quang Trung với vẻ đẹp dũng mãnh, tài trí, có tài có đức, đại diện cho hình ảnh dân tộc Việt Nam người hùng, quật cường.
Phân tích hình tượng vua Quang Trung – Mẫu 3
Nguyễn Huệ, vị chiến tướng dùng kỳ mưu hạ thành Phú Xuân. Nguyễn Huệ, vị thống tướng đã tiêu diệt ba vạn quân Xiêm xâm lược tại Rạch Gầm – Xoài Mút trong một trận thủy chiến trời long đất lở. Nguyễn Huệ, người người hùng áo vải đã đạp đổ ngai vàng chúa Trịnh ở Đàng Ngoài rồi kết duyên cùng công chúa Ngọc Hân làm chấn động Bắc Hà. Nguyễn Huệ- vua Quang Trung đã tiêu diệt 29 vạn quân Thanh xâm lược, xây nên Gò Đống Đa lịch sử bất tử.
Đọc Hồi thứ 14 ” Hoàng Lê nhất thống chí”, hình tượng người người hùng áo vải Nguyễn Huệ đã để lại trong tâm hồn ta bao ấn tượng không phai mờ.
Những tác giả- những người con ưu tú của dòng tộc Ngô thì ở Tả Thanh Oai đã mượn lời nói của những cung nhân cũ từ phủ Trường Yên tâu với Thái Hậu, rất khách quan, để giới thiệu Nguyễn Huệ với sự tâm phục và kinh sợ. Vì là người ở phía bên kia, phe đối địch, nên đại từ ” hắn” mà người cung nhân này dùng để chỉ Nguyễn Huệ cũng không hề làm mờ đi bức truyền thần vị chiến tướng trăm trận trăm thắng.
“Không biết rằng, Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào dám nhìn thẳng vào mặt hắn. Thấy hắn trỏ tay, đưa mắt là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hắn hơn sợ sấm sét.”
Nên biết rằng lúc bấy giờ, Tôn Sĩ Nghị và 29 vạn quân Thanh đã đóng chật Thăng Long, coi nước ta chỉ là quận huyện của chúng, Lê Chiêu Thống đã được Thiên triều cho làm An Nam quốc vương, nhưng với cái nhìn sắc sảo, người cung nhân cũ đã nêu ra sự diệt vong tất yếu của bọn cướp nước và bè lũ bán nước: “E rằng chẳng bấy lâu nữa, hắn lại trở ra,, tổng đốc họ Tôn đem thứ quân nhớ nhà kia mà chống chọi, thì địch sao cho nổi?” Thắng cuộc Ngọc Hồi – Đống Đa năm 1789 đã cho thấy lời nói ấy là một dự đoán linh nghiệm, một chân lí lịch sử rất hùng hồn.
Nguyễn Huệ là một nhân loại ” biết nghe và quyết đoán”. Ngày 24 tháng Chạp năm Mậu Thân (1788) thu được tin cáo cấp do Nguyễn Văn Tuyết mang vào, Nguyễn Huệ “giận lắm” định “cầm quân đi ngay” nhưng trước lời bàn “hãy chính vị hiệu”, ông đã nghe theo để ” giữ lấy lòng người” rồi mới xuất quân đi đánh dẹp cõi Bắc. Việc đắp đàn ở núi Bân, tế Trời Đất, thần Sông, thần Núi, lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung đã chứng tỏ cái tầm nhìn kế sách của người người hùng áo vải khi Tổ Quốc đứng trước họa xâm lăng.
Cứu nước như cứu lửa. Ngày 25 còn ở Thuận Hóa vậy mà 29 đã hành quân tới Nghệ An : gặp cống sĩ Nguyễn Thiếp, mộ thêm một vạn tinh binh, tổ chức duyệt binh lớn và truyền hịch đánh giặc cứu nước để kích thích chí khí tướng sĩ và ba quân “đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn”, nghiêm khắc cảnh cáo những kẻ “ăn ở hai lòng … sẽ bị giết ngay tức khắc”, vạch trần thói tàn bạo tham lam của người phương Bắc để kích thích lòng căm thù, mời gọi tướng sĩ noi gương Trưng Nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Trần Hưng Đạo, Lê Thái Tổ … để quét sạch quân xâm lược ra khỏi cương vực.
Chỉ hơn một ngày đêm, Nguyễn Huệ đã kéo quân ra tới Tam Điệp hội sưu với cánh quân của Đại tư mã Ngô Văn Sở. Ông sai bảo cho tướng sĩ ăn tết trước, hẹn đến mùng 7 vào Thăng Long sẽ mở tiệc ăn mừng, rồi chia đại quân thành năm đạo binh lớn ” gióng trống lên đường ra Bắc”.
Nguyễn Huệ thật “lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân.” Ông đã lấy yếu tố ngạc nhiên để đánh thắng giặc : bắt sống toàn thể quân giặc thám thính ở sông Thanh Quyết và đồn Hà Hồi, phong toả tiêu diệt đồn Ngọc Hồi, hàng vạn giặc bị giết ” thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối”. Tại đầm Mực làng Quỳnh Đô, giặc Thanh bị hợp vây, ” quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp chết đến hàng vạn người.” Trong lúc đó, một trận “rồng lửa” đã diễn ra ác liệt tại Khương Thượng, xác giặc chất thành 12 gò cao như núi. Nguyễn Huệ đã tiến công như vũ bão, khác nào ” tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên” làm cho Tôn Sĩ Nghị “sợ mất mật, ngữ không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp … nhằm hướng Bắc mà chạy.” Trưa mùng 5, Nguyễn Huệ và đại quân đã kéo vào Thăng Long trước plan hai ngày.
Nhãn quan quân sự – chính trị của Nguyễn Huệ vô cùng sâu rộng và tỉnh táo. Trên đường tiến quân đánh giặc Thanh, ông đã giao cho Ngô Thì Nhậm ” người khéo lời lẽ” để “dẹp nỗi việc binh đao”, mang lại “phúc cho dân.”
Thắng cuộc Đống Đa năm Kỉ Dậu (1789) là một trang sử chống xâm lăng vô cùng chói lọi của dân tộc ta. Nó trổ tài sức mạnh vô địch của lòng yêu nước và trí não quyết đấu quyết thắng giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Nó đã dựng nên tượng đài tráng lệ, nguy nga người người hùng áo vải – vua Quang Trung để dân tộc ta đời đời tự hào và ngưỡng mộ:
“Mà nay áo vải cờ đào,
Giúp dân dựng nước biết bao công trình”
(“Ai tư vãn” – Ngọc Hân công chúa)
Xây dựng và khắc họa hình tượng người người hùng Nguyễn Huệ là một thành công rực rỡ. Nó làm cho trang văn ” Hoàng Lê nhất thống chí” thấm đẫm chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa người hùng Đại Việt.
Phân tích hình tượng vua Quang Trung – Mẫu 4
Hoàng Lê nhất thống chí là văn bản viết về những sự kiện lịch sử, mà nhân vật chính tiêu biểu – người hùng Quang Trung (Nguyễn Huệ). Ông có một nét đẹp của vị người hùng dân tộc trong chiến công đại phá quân thanh, với sự dũng mãnh, tài trí, tầm nhìn xa trông rộng thì Quang Trung quả là một hình ảnh đẹp trong lòng dân tộc Việt Nam.
Một nhân loại có hành động mạnh mẽ và quyết đoán: Từ đầu đến cuối đoạn trích, Nguyễn Huệ luôn luôn là người hành động một cách xông xáo mạnh mẽ, nhanh gọn, có chủ đích và rất quyết đoán. Nghe tin giặc đã sở hữu thành Thăng Long, mất cả một vùng đất đai rộng mà ông không hề nao núng, “định thân chinh cầm quân đi ngay”.
Rồi trong vòng chỉ một tháng, Nguyễn Huệ đã làm bao nhiêu việc lớn: “Tế cáo trời đất”, “lên ngôi hoàng đế”, ” đốc suất đại binh” ra Bắc gặp mặt “người cống sĩ ở huyện La Sơn”, tuyển mộ quân lính và mở các cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định plan hành quân, đánh giặc và plan ứng phó với nhà Thanh sau thắng cuộc.
Không dừng lại ở đó ông còn tồn tại một trí tuệ tỉnh táo, nhạy bén:
Tỉnh táo trong việc phân tích tình hình thời cuộc và thế tương quan kế sách giữa ta và địch. Mang ra lời phủ dụ có thể coi như bài hịch ngắn mà ý tứ thật phong phú, sâu xa, có thúc đẩy kích thích lòng người yêu nước và truyền thống quật cường của dân tộc.
Tỉnh táo nhạy bén trong việc xét đoán và dùng người, trổ tài qua cách xử trí với các tướng sĩ tại Tam Điệp, khi Sở và Lân mang gươm trên lưng chịu tội. Ông rất hiểu sở trường sở đoản của các tướng sĩ, khen chê đều đúng người đúng việc,…
Cùng với ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng Quang Trung đã làm lên trang lịch sử hào hùng cho dân tộc. Chỉ mới khởi binh đánh giặc chưa giành lại được tấc đất nào, vậy mà mà Quang Trung đã nói chắc như đinh đóng cột “phương lược tiến đánh đã có tính sẵn”, lại còn tính sẵn cả plan ngoại giao sau thời điểm thắng cuộc nước lớn gấp 10 lần nước mình, để có thể dẹp chuyện binh đao, cho nước nhà yên ổn mà nuôi dưỡng lương thực.
Tài dùng binh như thần: Cuộc hành binh thần tốc do vua Quang Trung lãnh đạo đến nay vẫn còn làm tất cả chúng ta ngạc nhiên. Ngày 25 tháng chạp khởi đầu xuất binh ở phú xuân (Huế), một tuần lễ sau đã ra tận Tam Điệp cách Huế 500km. Vậy mà đến đêm 30 tháng chạp hành quân ra Bắc vừa đi vừa đánh giặc vậy mà ông hoạch định là mùng 7 tháng giêng sẽ vào ăn tết ở Thăng Long, trong thực tiễn đã vượt mức hai ngày. Hành quân xa và đầy khổ sở như vậy nhưng cờ nào đội ấy vẫn chỉnh tề, răm rắp nghe theo lãnh đạo.
Hình ảnh Quang Trung lẫm liệt trong chiến trường: hoàng thượng Quang Trung thân chinh cầm quân đánh giặc không phải chỉ trên danh nghĩa. Ông là một tổng lãnh đạo chiến dịch thật sự hoạch định phương lược tiến đánh, tổ chức quân sĩ, tự mình thống lĩnh mũi tên tiến công, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha trước hòn tên mũi đạn, bày mưu tính kế…
Đội quân của vua Quang Trung không phải là đội quân thiện chiến, lại vừa trải qua những ngày hành quân cấp tốc, không có thì giờ nghỉ ngơi, vậy mà dưới sự lãnh đạo tài tình của vị lãnh đạo này đã đánh những trận thật đẹp, thắng áp đảo kẻ thù (bắt sống hết quân thám thính của địch ở phú Xuyên, giữ được bí mật để tạo thế ngạc nhiên, vây kín làng Hạ Hồi…) trận đánh Ngọc Hồi cho ta thấy rõ tài trí về kế sách phong thái lẫm liệt của vua Quang Trung (khói tỏa mù trời cách gang tấc không thấy gì mà chỉ nổi trội hình ảnh của vua Quang Trung..có sách ghi chép lại áo bào đỏ của ông sạm đen khói súng..)
Từ những đoạn trích trên ta thấy hiện về trong lịch sử một nhân vật xuất chúng: Lẫm liệt oai phong, văn võ song toàn đã ghi vào trang lịch sử vẻ vang của dân tộc, làm sáng ngời truyền thống dân tộc, ngàn đời sau vẫn nhắc tên người người hùng áo vải Quang Trung.
Phân tích hình tượng vua Quang Trung – Mẫu 5
“Giặc đâu tàn bạo sang điên cuồng
Quân vua một trận oai bốn phương
Thần tốc ruổi dài xông thẳng tới
Như trên trời xuống ai dám đương”
(Ngô Ngọc Dụ)
Vua Quang Trung, vị người hùng kiệt xuất của dân tộc. Vẻ đẹp uy nghi, trí tuệ của vua Quang Trung đã được phản ánh đầy đủ, trọn vẹn trong tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí hồi thứ 14.
Hồi thứ thứ 14 kể về lần thứ ba ra Bắc Hà của Nguyễn Huệ. Ông đã tạo ra chiến công kì tích nhất trong lịch sử Việt Nam, với vận tốc tiến công thần tốc, chỉ trong 10 ngày ông đã tiêu diệt gọn quân Thanh, lấy lại nền độc lập cho quốc gia. Chỉ trong đoạn trích ngắn này, nhưng vẻ đẹp khí phách hào hùng, trí tuệ tỉnh táo và tài thao lược hơn người đã được biểu lộ sắc nét nhất.
Đọc Hoàng Lê nhất thống chí hồi thứ 14, ấn tượng trước hết của người đọc so với vị người hùng này chính là ở trí tuệ tỉnh táo và vô cùng mạnh mẽ, quyết đoán. Ngay khi 20 vạn quân Thanh tràn vào đất Bắc, chiếm giữ kinh thành Thăng Long bấy giờ Nguyễn Huệ mới là Bắc Bình Vương và ở Phú Xuân. Thu được tin cấp báo, lòng yêu nước trào dâng ông đã định cầm quân đi ngay. Song trước sự khuyên ngăn, tư duy kĩ lương, Nguyễn Huệ quyết định lên ngôi, để danh chính ngôn thuận cầm quân ra Bắc. Ngay sau thời điểm lên ngôi Nguyễn Huệ – niên hiệu là Quang Trung đã sai bảo xuất quân ngay. Không chỉ vậy, để giành được thắng cuộc với kẻ thù mạnh, đòi hỏi phải có một trí tuệ tỉnh táo. Quang Trung đã rất mưu lược, tỉnh táo khi nhận định tương quan tình hình hai bên, ra lời hịch vừa để khích lệ binh tướng, vừa để răn đe, cảnh tỉnh với những kẻ hai lòng. Ông vô cùng tỉnh táo khi nhận rõ bản chất của kẻ định, và khơi dậy lòng yêu nước ở những người chiến sĩ. Trước những lời lẽ đanh thép, sắc sảo của ông tướng sĩ trên dưới một lòng đều nhất nhất tuân lệnh: “xin vâng lệnh không dám hài lòng”.
Không chỉ vậy, sự mưu lược của ông còn được trổ tài trong cách nhận xét về thế mạnh và cái yếu của bề tôi. Ông hiểu năng lực của Sở và Lân, họ chỉ là “hạng võ dũng, chỉ biết gặp giặc là đánh, đến việc tùy cơ ứng biến là không có tài”. Bởi vậy ông không trách cứ, xử tội họ. Ông cử Ngô Thì Nhậm – người có tài mưu lược để bên cạnh mà trợ giúp hai vị tướng. Cách hiểu người, dùng người đúng đắn, trách người đúng tội đúng việc làm cho quân tướng ai nấy đều ưng ý và khâm phục. Nhờ có sự hiểu rõ như vậy, đã hỗ trợ ông thu phục nhân tâm của mọi người.
Và cuối cùng sự tỉnh táo của ông còn trổ tài trong tầm nhìn xa trông rộng. Ông nắm vững tình hình, quân Thanh bành trướng đang đóng quân gần hết Bắc Hà, nhưng ông cùng vô cùng tự tin chỉ trong mười ngày sẽ đánh đuổi sạch bóng quân Thanh. Nhưng ông không chỉ lo nghĩ tới việc dẹp yên giặc, mà con nghĩ trước cách ứng xử với chúng sau thời điểm chúng bị đánh đuổi về nước. Là một nước lớn, khi thua trận tất yếu sẽ sinh sự cay cú mà đem quân trả thù, bởi vậy ông đã cử Ngô Thì Nhậm, dùng “khéo lời để dẹp yên binh đao”. Làm việc ấy cũng là để cho nhân dân nghỉ sức, ta có điều kiện trong vòng mười năm xây dựng quốc gia, củng cố quân sự, lúc bấy giờ giặc Thanh có xâm lược ta cũng không còn phải ngần ngại gì nữa. Qua toàn bộ những sự việc đó, đã cho hậu thế thấy một nhân loại tài trí tỉnh táo, liệu việc như thần.
Không chỉ dừng lại là một nhân loại có tài trí tỉnh táo, mà dưới ngòi bút của Ngô Gia Văn Phái, Quang Trung đang là một người có tài thao lược hơn người. Ngay sau thời điểm hạ lệnh xuất quân ra Bắc, ông mau chóng lên đường, vừa đi vừa tuyển quân, làm cho binh lực mạnh lên không ngừng. Ông có cuộc hành quân thần tốc nhất trong lịch sử, làm cho ai cũng không khỏi ngạc nhiên, từ Phú Xuân ra đến kinh thành Thăng Long ông chỉ đi mất có bốn ngày, trong lúc đi còn tuyển quân, phương tiện di chuyển thô sơ đa số đi bộ, phần còn sót lại đi ngựa. Chính vận tốc hành quân thần tốc ấy cũng là một yếu tố làm cho kẻ thù ngạc nhiên.
Đồng thời ông lựa chọn thời cơ chuẩn xác, chớp thời cơ tết nguyên đán giặc sơ hở, lo ăn chơi để đánh một trận tiến quân lớn, đập tan tất các các ngả quân của chúng. Ở mỗi trận đánh có có cách đánh hết sức linh hoạt, làm cho kẻ thù choáng váng, tưởng “tướng ở trên trời rơi xuống, quân ở dưới đất chui lên”. Và chính điều đó đã kéo theo thắng lợi tất yếu của quân ta và sự thất bại thảm hại của kẻ thug. Quang Trung cùng với các tướng sĩ của mình đánh một mốc son chói lọi và hào hùng vào trang sử vẻ vang dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Đẹp đẽ nhất là khi vua Quang Trung lãnh đạo đội quân tướng sĩ trên chiến trường, này là vẻ đẹp của sự oai phong, lẫm liệt, khó ai có thể bì kịp. Vua Quang Trung thân chinh cầm một mũi tiến công, lãnh đạo xông ra trận. Trong ánh sáng của buổi sớm, khói của súng đạn, vị người hùng thân cưỡi voi, mình mặc áo bào lẫm liệt xông ra đấu tranh với kẻ thù. Một tạo hình uy nghi, lẫm liệt và vô cùng đẹp đẽ. Hình ảnh đó đã trở thành tượng đài bất hủ của dân tộc Việt Nam.
Hoàng Lê nhất thống chí hồi thứ 14 đã tạc lên tượng người người hùng Quang Trung – Nguyễn Huệ thành công xuất sắc. Ông là nhân loại toàn tài, vị vua quả cảm, tỉnh táo, quấy tan quân xâm lược, mang lại độc lập cho dân tộc. Vẻ đẹp trí tuệ của vua Quang Trung cũng chính là đại diện tiêu biểu cho vẻ đẹp, khí phách của dân tộc Việt Nam.
Phân tích hình tượng vua Quang Trung – Mẫu 6
Hoàng Lê Nhất thống chí là tiểu thuyết chương hồi nổi tiếng của nhóm tác giả Ngô Gia Văn Phái. Những sự kiện lịch sử được ghi chép lại một cách đầy cụ thể và đảm bảo tính chân thực. Ngoài các sự kiện đã xảy ra trong trận chiến tranh chấp quyền lực giữa nhà Lê và trào lưu Tây Sơn, tác phẩm còn tập trung phác thảo, tái hiện chân dung người hùng Quang Trung Nguyễn Huệ, điều này được trổ tài sắc nét trong hồi thứ 14.
Trước hết, ta có thể thấy Quang Trung là một nhân loại đầy quyết đoán. Mỗi việc làm của mình, nhà vua đều tư duy rất thấu đáo, hiểu rằng mục đích cần phải làm và quyết tâm hành động để làm ra nó. Điều đó được minh chứng bằng các sự kiện rõ ràng và cụ thể. Khi biết rằng giặc Thanh đang xâm chiếm thành Thăng Long – vị trí quân sự trọng yếu của quân ta, ông không hề tỏ ra sợ hãi hay nao núng mà họp bàn các tướng lĩnh để đề ra những kế sách, sau đó đích thân cầm quân lên đường. Phải có lòng căm thù giặc sâu sắc và ý chí lớn thì vừa Quang Trung mới có hành động tức thời và quyết đoán đến như vậy. Khi nghe những lời phải của các trọng thần, ông không hề do dự mà mau chóng ” đắp đàn trên núi Bân”, làm lễ tố cáo trời đất và các thần sông núi, tạo ra áo mũ vừa mà lên ngôi hoàng đế. Quang Trung lên ngôi vua cũng là lúc nhận về mình trọng trách to lớn với dân, với nước, vì vậy mà khi vừa lên ngôi, sau thời điểm lễ xong liến cấp tốc xuất quân vào ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân.
Không chỉ là người tướng lĩnh quyết đoán, giàu mưu lược mà Quang Trung Nguyễn Huệ còn biết trọng dụng người tài. Trước sự kiện quân Thanh kéo đánh nước ta, Nguyễn Huệ đã hỏi ý kiến của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp nhằm đề ra kế sách vẹn toàn nhất. Sau thời điểm mang đại binh cả thủy lẫn bộ tới Nghệ An, nghe được lời khuyên khi gặp người cống sĩ Nguyễn Thiếp ông liền tổ chức ngày việc kén lính, chiêu mộ quân sĩ. Khi hoàn thiện thì mở ngày cuộc duyệt binh và chia quân thành tiền, hậu, tả, trung để ứng phó với địch. Sau thời điểm công bố lời phủ dụ lính tráng và tướng sĩ, Quang Trung quyết hạ lệnh tiến cống, nêu ra plan, phương hướng ứng phó với bè lũ nhà Thanh trong chớp mắt. Những hành động thần tốc, ý nghĩ mạnh mẽ và kiên quyết ấy cho thấy một bản lĩnh hơn người của vị vua dân tộc.
Ở vua Quang Trung, không chỉ có sự cương trực, quyết đoán mà đang là một người có trí tuệ anh minh, nhãn quan tỏ tường. Ông biết phân tích những nhược điểm, thế mạnh giữa ta và địch, biết nhận định đúng sai và mang những quyết định đúng thời điểm. Này là điều mà làm ra những thắng cuộc khi thực hiện các kế sách mà ông đã vạch ra. Những lời phủ dụ vừa thâm sâu vừa ân tình đó ông truyền đạt đã thúc đẩy vào ý chí, kích thích sự đấu tranh của nghĩa quân.” Quân Thanh sang xâm lấn nước ta chớ bảo là ta không nói trước”. Những lời lẽ đầy sức thuyết phục như vậy phát ra từ một người tài năng và nhiệt huyết càng khiến quân sĩ nể phục mà vâng lệnh: “Xin vâng lệnh, không dám hài lòng”.
Sự thông minh xuất chúng ấy còn được trổ tài ở khả năng dùng người tài ba của ông. Biết chọn Ngô Thì Nhậm, một người giỏi lý lẽ lại khéo lời làm tướng dẹp loạn đao binh mang lại phúc cho muôn dân thiên hạ.” Lần này ta ra, thân hành cầm quân bấy giờ nước giàu quân mạnh, thì ta có sợ gì chúng?”. Đặc biệt, trong cách xử trí Sở và Lân trên núi Tam Điệp cũng khiến người người phải nể phục.
Nhờ vậy mà trận chiến do Nguyễn Huệ thân chính đã mang lại những thắng cuộc thần tốc, vàng dội non sông. Này là những cuộc hành binh nhanh chóng từ Huế đến Tam Điệp chỉ trong vòng một tuần. Tới Thăng Long vào 30 tháng chạp để lên đường, ngày mùng 5 năm sau đã hoàn thiện nhiệm vụ. Tại huyện Phú Xuân, bắt sống được hàng loạt quân Thanh trên đường trốn chạy. Tại làng Hà Hồi, quân ta vây kín khiến giặc sợ hãi, xin hàng và giao nộp toàn thể khí giới, lương thực cho quân Nam. Trận chiến tại đồn Ngọc Hồi quyết liệt, quân Thanh sau thời điểm tự làm hại mình thì không phản kháng nổi, giày xéo lên nhau mà chạy tán loạn. Quần ta thắng lớn, quân Thanh đại bại trong nhục nhã, tướng Sầm Nghi Đống thắt cổ chết tại trận.
Người người hùng Nguyễn Huệ, một người tướng lĩnh tài ba, vị minh quân của dân tộc qua từng trang viết được khắc hoạ thật sắc nét. Qua đó, ta thêm tự hào về truyền thống yêu nước, về những danh nhân của thời kì xưa. Từ đó, phấn đấu học tập, tập luyện và hoàn thiện để bản thân mỗi ngày thật mạnh mẽ, trưởng thành, sống với lý tưởng yêu nước mà ông cha đã gìn giữ, phát huy.
Phân tích hình tượng vua Quang Trung – Mẫu 7
Trường phái văn học của đại gia đình họ “Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây nổi tiếng với bộ sách gồm thơ , phú rồi truyện kí không chỉ đặc sắc về nghệ thuật mà còn có giá trị lịch sử cao. Nổi bật trong đó phải kể đến “ Hoàng Lê nhất thống chí” như một thiên sử khổng lồ kể lại những thăng trầm của quốc gia thời Trịnh Sâm, trào lưu Tây Sơn và sự lật đổ nhà Thanh. Lồng lộng trong khúc tráng ca là hình tượng người người hùng áo vải Quang Trung.
Hình tượng người người hùng Tây Sơn được khắc họa tập trung qua hồi 4, hồi 5 và hồi 14. Ở đó người người hùng hiện lên với đủ tâm tài chí dũng, là một trong những nguyên nhân xứng đáng để kéo theo sự sụp đổ của triều đại Lê-Trịnh và thắng lợi vẻ vang của nghĩa quân Tây Sơn. Với khí thế sấm chớp, hình tượng người người hùng áo vải sánh ngang với các bậc người hùng vĩ đại khác trong lịch sử.
Một trong những điều cốt yếu để làm ra một người người hùng là lấy “ nhân nghĩa” làm đầu( Nguyễn Trãi đã đề cập trong “ Bình Ngô đại cáo”.). Và ở Quang Trung, mọi hành động, tư duy của một người người hùng đều xuất phát từ cái tâm đẹp, một tấm lòng luôn nghĩ cho dân ,luôn lo ngại cho nước. Khác với những tên vua hèn mạt bán nước như Lê Chiêu Thống, tình yêu nước mãnh liệt trong lòng vị tướng tài đã thổi bùng lên ngọn lửa căm giận trong ngài khi hay tin lũ bán nước, biết quân Thanh sắp tràn vào lãnh thổ nước nhà: ngài “ giận lắm, định cầm quân thân chinh đi ngay.” Tình yêu nước thổi vào những lời hiệu triệu đến với các quân sĩ một giọng hùng hồn , hào sảng, dứt khoát, trổ tài quyết tâm cao đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi cương vực. Ngài tin tưởng vào truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc ta từ thời Bà Trưng bà Triệu, rằng tội ác của quân giặc, quân ta nhất định không thể dung tha. Đến đây ta nghe như vang vang bên tai lời hiệu triệu của Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn ngày nào gửi đến quân sĩ, thúc giục trí não tranh đấu. Tinh yêu nước đã mang trong đó cả linh hồn dân tộc tự ngàn đời.
Không chỉ yêu nước, thương dân, Quang Trung đang là một người vô cùng tài giỏi. Điều đó trổ tài qua trí tuệ sắc bén, tầm nhìn xa trông rộng của ông trong việc nhận định thời cuộc, vừa dự tính đánh thế nào mà còn dự tính trước sẽ ứng xử ra sao khi giành thắng lợi. Nhờ tỉnh táo anh minh, ông hiểu được lính tráng nhân dân là nòng cốt nên ông tập trung khích lệ trí não đấu tranh của các quân sĩ, thậm chí còn cho họ ăn Tết trước khi bước vào chiến trường. Nhất là cuộc hành quân thần tốc và hạ gục quân Thanh chỉ trong vòng 5 ngày, sớm hơn nhiều so với dự kiến đã trở thành điều làm ngạc nhiên nhân loại ở mọi thời kì, càng chứng tỏ tài dùng binh, trí tuệ đáng nể ở người người hùng ấy.
Ở Quang Trung cũng không thể thiếu cái chí của một người người hùng. Chí khí trổ tài ở quyết tâm cao độ, hành động quyết đoán và nhanh chóng của ông. Khi hay tin đánh giặc chỉ trong vòng một tháng ông đã hoàn thiện đủ mọi nghi lễ tế cáo,quy tụ đủ số quân binh thiết yếu và hành quân thần tốc làm ra thắng cuộc nhanh chóng so với nhà Thanh.
Quang Trung đang là một vị tướng vô cùng dũng cảm. Ông trực tiếp mặc áo giáp cưỡi voi, xông pha ra trận , vừa vạch ra đường lối đánh giặc vừa trực tiếp là người chỉ mũi giáo vào quân thù. Người người hùng ấy với lòng dũng cảm, quyết hi sinh thân mình để bảo vệ sự bình yên của non sông xã tắc hòa cùng khí thế xung thiên ngút trời làm mờ sao Ngưu, sao đẩu của nghĩa quân Tây Sơn khiến quân địch đớn hèn nhụt đi ý chí mà thất bại nhanh chóng.
Với sự quy tụ của cả tâm, tài, chí và dũng, Quang Trung xứng đáng trở thành linh hồn của cả nghĩa quân Tây Sơn, cũng là trí não dân tộc của nhân loại thời bấy giờ. Đúng như Nguyễn Trãi nói: dân tộc ta “ anh hùng hào kiệt thời nào cũng có”. Họ là Lý Thường Kiệt, là Lê Lợi, là Nguyễn Trãi, và giờ đây đến Quang Trung. KHác nhau về thời kì nhưng những người người hùng ấy đều mang trong mình khí thế non sông, hồn thiêng sông núi, là niềm tự hào của cả một dân tộc, một quốc gia, là những thần thoại vĩ đại để nhân loại đời sau nhớ về.
Hình tượng người người hùng áo vải Nguyễn Huệ đã nhắc ta nhớ về một thời kì vàng son trong lịch sử dân tộc , tăng thêm ý thức dân tộc, tự nhắc mình phải tiếp bước cha ông trên đoạn đường xây dựng, bảo vệ quốc gia.
Phân tích hình tượng vua Quang Trung – Mẫu 8
Hoàng Lê nhất thống chí – một cuốn tiểu thuyết lịch sử được viết bằng chữ Hán đã ghi lại những dấu mốc trọng yếu trong lịch sử của Ngô gia văn phái. Qua tác phẩm nó đã để lại trong người đọc một hình ảnh người con của Việt Nam – tài năng yêu quê hương quốc gia, hiến dâng cả cuộc sống cho nhân dân. Này là Quang Trung – vị người hùng của dân tộc người có công lớn trong việc đại phá quân Thanh. Đặc biệt qua đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí hồi thứ 14, Quang Trung hiện lên với một khí chất thật đẹp, tài chí trong mọi kế sách.
Quang Trung một người hùng có nhiều tài năng, nhưng trước hết phải nói tới tính mạnh mẽ quyết đoán mỗi lần ông hành động. Trong suốt đoạn trích ông xuất hiện với hình ảnh một nhân loại có tính cách xông xáo, mọi quyết định đều nhanh gọn và rất quyết đoán. Nghe tin giặc đã kéo đến tận Thăng Long ông đã rất tức giận, đã họp các tướng sĩ, “định thân chinh cầm quân đi ngay”. Rồi ông “tế cáo trời đất” lên ngôi vua, hạ lệnh xuất quân, chỉ trong vòng một tháng mà ông đã làm được bao nhiêu việc lớn.
Cùng với hành động quyết đoán, Quang Trung đang là nhân loại có trí tuệ tỉnh táo, rất nhạy bén trong mọi trường hợp. Ông có cái nhìn tổng quan về trận chiến, về thời cuộc ông lên ngôi với mục đích có thể ” để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người”. Ông phân tích tình hình quân địch, nhận định được thế lực hai bên để phán đoán trong từng bước đi của mình. Những tội ác của quân giặc đã được ông phơi bày ra để nhắc nhở nhân dân, rồi tiếp thêm sức mạnh trí não cho các tướng sĩ bằng những tấm gương quả cảm từ thời xa xưa như Trưng nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng.. Ông còn tồn tại cách thuyết phục những kẻ “mềm lòng” dễ thay lòng đổi dạ vừa mềm mà chặt. Ông mang ra những lời khen chê, thưởng phạt đúng người đúng việc, ta thấy rõ điều đó qua trường hợp của Sở và Lân.
Có thể nói, ông là người có tầm nhìn xa trông rộng khi ông nói chắc như đinh đóng cột “phương lược tính đánh đã có sẵn” rồi ông còn nhìn xa hơn khi nghĩ cách ngoại giao khi chiến tranh kết thúc để quốc gia phục hồi lại, yên ổn, nuôi dưỡng phát triển để rồi sau này “ta có gì sợ chúng”.
Vua Quang Trung là vị tướng cầm quân có tài thao lược hơn người với cách sử dụng binh như thần. Tất cả chúng ta không thể khỏi ngạc nhiên trước sự lãnh đạo và sự thần tốc của quân lính khi đi đánh giặc, trong thời gian ngắn mà đường dài quân đội của ông vẫn chỉnh tề, tuân theo mọi lãnh đạo của ông.
Trải qua cuộc hành quân dài, xa xôi chịu nhiều khổ sở nhưng dưới sự lãnh đạo của Quang Trung cả đội quân đã thắng cuộc quân địch một cách tuyệt đối bởi các kế sách tài tình của ông. Vị vua tài năng hiện lên thật lẫm liệt khi ông cũng chính mình xông ra trận chiến, tiến công, cưỡi voi, xông pha trước những mũi tên của quân địch.
Dưới ngòi bút tài tình, thành thạo của Ngô gia văn phái, người đọc đã cảm thu được hình ảnh một ông vua lẫm liệt quả cảm đầy tài năng. Vua Quang Trung đã làm rạng danh dân tộc, mang lại bình an cho nhân dân và ông xứng đáng là một tượng đài bất tử trong lòng người dân Việt Nam.
Cùng tìm hiểu cụ thể về hồi thứ mười bốn Hoàng Lê nhất thống chí, bên cạnh bài Phân tích nhân vật Quang Trung trong đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí, các em có thể tham khảo thêm: Phân tích và nêu cảm nghĩ về hồi thứ mười bốn Hoàng Lê nhất thống chí, Tóm tắt Hoàng Lê nhất thống chí, Văn nghệ xây dựng nhân vật vua chúa trong Hoàng Lê nhất thống chí, Phân tích hồi thứ mười bốn để minh chứng nhận xét: Hoàng Lê nhất thống chí… những trang viết thực và hay để củng cố thêm tri thức cho mình.
Phân tích hình tượng vua Quang Trung – Mẫu 9
Quang Trung vị tướng tài, vị người hùng của dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Quang Trung dân tộc ta đã giành được thắng lợi vẻ vang trước kẻ xâm lược nhà Thanh ngang tàn, hung tợn. Toàn bộ những vẻ đẹp, tầm vóc của vị người hùng đều được tái hiện một cách chân thực và đầy đủ nhất qua hồi thứ mười bốn trích “Hoàng Lê nhất thống chí”.
Đoạn trích là lời ca tụng người người hùng Nguyễn Huệ tài đức song toàn và sức mạnh vô song. Vẻ đẹp của vua Quang Trung được trổ tài trên nhiều mặt khác nhau, mỗi phương diện đều được mô tả kỹ lưỡng, giọng điệu hào hùng, ngợi ca.
Trước hết người người hùng áo vải Quang Trung là người có hành động mạnh mẽ, quyết đoán, trí tuệ tỉnh táo, nhạy bén. Ngay khi nghe tin giặc đã sở hữu một vùng đất lớn của ta, Quang Trung không hề sợ hãi, định cầm quân đi ngay. Với ý thức dân tộc và lòng tự tôn sâu sắc, ông không thể chần chừ nhìn thấy cảnh nước nhà bị quân thù giày xéo. Nghe lời khuyên từ quần thần, ông quyết định lên ngôi vua, đây là quyết định hết sức tỉnh táo, có ý nghĩa trọng yếu: làm cho cương vị rõ ràng, danh chính ngôn thuận để cầm quân; không chỉ vậy còn hỗ trợ thống nhất nội bộ, tránh được sự ưng ý của lính tráng. Hành động của ông không chỉ quy tụ được người tài mà còn hỗ trợ lấy lòng dân. Ông rất tỉnh táo, sắc xảo trong việc phân tích tình hình thời cuộc, tương quan giữa ta và địch, điều đó được trổ tài rõ trong bài dụ tướng sĩ ở Nghệ An. Trong bài dụ ông nhất định chủ quyền của dân tộc ta với phương Bắc “đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng”; nêu lên dã tâm xâm lược và hành động phi nghĩa của kẻ thù; đồng thời ông nêu lên lời mời gọi quân sĩ đồng tâm hiệp lực đánh giặc. Lời dụ như một bài hịch ngắn dọn kích thích lòng căm thù giặc và lòng yêu nước của quân sĩ. Sự tỉnh táo của ông còn trổ tài trong việc xét đoán và dùng người, với mỗi đối tượng ông đều có khen chê rõ ràng để mỗi cá nhân nhận thấy khuyết điểm của mình. Với Ngô Thì Nhậm ông hết lòng khen ngợi, này là kế sách thông minh, giúp quân ta tránh được mũi nhọn kẻ thù, làm cho quân địch chủ quan, tự mãn mà không phòng bị. Với Sở và Lân, Quang Trung hiểu rõ sở trường và sở đoản các tướng lĩnh dưới trướng mình bởi vậy ông vẫn trách mắng để họ nhận thấy khuyết điểm đồng thời tha cho họ. Việc làm của ông là hành động tỉnh táo, giúp thu phục nhân tâm, ai nấy đều phải tâm phục, khẩu phục.
Không chỉ vậy, Quang Trung đang là người có tư tưởng quyết đấu, quyết thắng và có tầm nhìn xa, trông rộng. Quân Thanh khi mới vào nước ta thế và lực rất lớn, thế nhưng ngay khi khởi binh Quang Trung đã kiên quyết nhất định chỉ trong vòng mười ngày có thể lấy lại kinh thành Thăng Long. Là một người tài trí, có tầm nhìn xa ông còn nhận thấy bản chất thâm độc của kẻ thù, khi bại trận, là một nước lớn nhất định sẽ đem quân trả thù. Vì vậy, ông đã tính sẵn plan ngoại giao sau thắng cuộc, để đảm bảo cho dân ta có cuộc sống yên ổn, phục hồi lại sau chiến tranh. Quang Trung quả là một vị vua tài trí, tâm sáng, không chỉ lo giành độc lập mà còn lo đến đời sống nhân dân, tới việc xây dựng quốc gia sau này.
Trong quá trình lãnh đạo đấu tranh, tài mưu lược và tài dụng binh như thần được trổ tài rõ hơn khi nào hết. Trước khi xuất quân ra Bắc ông đã mở tiệc khao quân và hẹn mùng bảy sẽ hội ngộ ở thành Thăng Long. Đây không chỉ là lời nói để khuyến khích quân sĩ mà là lời tiên đoán thần kì dựa trên sự tính toàn tài tình và phương lược có sẵn của vua Quang Trung. Chớp thời cơ giặc ngủ quên trên thắng cuộc, ông nhằm vào đúng ngày tết Nguyên Đán để tiến đánh quân Thanh. Ông đã tạo ra một cuộc hành quân thần tốc vô tiền khoáng hậu trong lịch sử, từ Phú Xuân ra Thăng Long chỉ mất hơn một tuần: 25 tháng chạp ở Phú Xuân, 30 đến Tam Điệp, đêm 30 khởi đầu tiến đánh thành Thăng Long; vừa đi ông vừa tuyển thêm quân sĩ. Tiến đánh mà vẫn đảm bảo yếu tố bí mật. Ông tổ chức trận đánh hết sức linh hoạt, sáng tạo, phối hợp nhuần nhuyễn nhiều cánh quân, cách đánh luôn giữ thế chủ động, đảm bảo yếu tố ngạc nhiên khiến kẻ thù không kịp trở tay. Trong từng trận đánh Quang Trung ông vận dụng hết sức linh hoạt các binh pháp khác nhau: trận Hà Hồi, trống rong cờ mở bắc loa đàn áp trí não quân giặc, làm chúng hoảng sợ; trận Ngọc Hồi bện rơm tránh lửa, dùng kế gậy ông đập lưng ông, đồng thời đánh chặn chốt giặc khiến chúng hồn siêu phách lạc. Bởi vậy, chỉ đến ngày mùng năm tết ông đã dẹp sạch bóng quân thù trên cương vực nước ta, sớm hơn hết những gì ông đã dự tính từ trước.
Đẹp đẽ nhất, khắc họa sắc nét nhất hình ảnh vua Quang Trung chính là khi ông đích thân cầm quân ra trận. Dưới cảnh khói mù mịt trời, cách gang tấc không thể nhìn rõ mặt người nổi trội lên là hình ảnh vị vua lẫm liệt, mặc áo bào, cưỡi voi, quả cảm xông ra trận. Hình ảnh đó cho thấy rõ hơn tính cách mạnh mẽ, trí tuệ tỉnh táo của vua Quang Trung. Ông chính là linh hồn của trận đấu, làm cho tướng sĩ tin tưởng hơn vào thắng cuộc của quân ta.
Xây dựng nhân vật Quang Trung, tác giả đã có sự phối hợp nhuần nhuyễn, hài hòa, phối hợp tự sự, mô tả một cách hợp lí, chân thực, sinh động. Khắc họa chân dung vị người hùng sắc nét với tính cách quả cảm, dũng mãnh, tài dùng binh như thần.
Trích đoạn đã cho tất cả chúng ta thấy được toàn thể vẻ đẹp oai hùng, dũng mãnh của vua Quang Trung trước kẻ thù xâm lược, ông là đại diện tiêu biểu cho sức mạnh và vẻ đẹp của dân tộc Việt Nam. Vị anh anh ấy mãi là niềm tự hào của dân tộc ta, là tấm gương sáng để thế hệ trẻ học tập và noi theo.
Phân tích hình tượng vua Quang Trung – Mẫu 10
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều quốc gia hóa thành văn
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi về cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng.
(Tổ quốc khi nào đẹp thế này chăng? – Chế Lan Viên)
Với hơn bốn năm lịch sử dựng nước và giữa nước, dân tộc Việt Nam đã trải qua biết bao nhiêu là những đau thương, mất mát trước vó ngựa xâm lăng của kẻ thù. Và truyền thống yêu nước, truyền thống người hùng dân tộc cũng được tạo ra rồi liên tục được phát huy từ đó. Bên cạnh các người hùng dân tộc như Lý Thường Kiệt chống Tống, Hưng Đạo vương chống quân Nguyên Mông, Nguyễn Trãi chống giặc Minh thì tất cả chúng ta phải nói tới vua Quang Trung – Nguyễn Huệ trong cuộc đấu tranh chống lại hai mươi chín vạn quân Thanh xâm lược hung tợn, khét tiếng. Hình tượng nhân vật vua Quang Trung với bao nhiêu những phẩm chất tuyệt vời của một nhà quân sự lãnh đạo tài ba, văn võ song toàn đã đi vào “Hồi thứ 14” trong “Hoàng Lê nhất thống chí” thật rõ ràng và cụ thể, thật sống động và chân thực, gây ấn tượng đậm nét trong lòng người đọc.
Dưới ngòi bút của nhà văn, người đọc như đang sống lại những giờ phút đau thương của lịch sử dân tộc khi mà vào cuối năm Mậu Thân 1788, đầu năm Kỉ Dậu 1789, vua Lê Chiêu Thống đã rước 29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu, kéo sang xâm lược nước ta. Ngày 22 tháng 11, Tôn Sĩ Nghị giành được thành Thăng Long, tướng Ngô Văn Sở phải tạm thời rút lui về Tam Điệp để phòng thủ. Đứng trước vận mệnh lịch sử Việt Nam “ngàn cân treo sợi tóc”, Nguyễn Huệ hiện lên như một vị cứu tinh chói lọi của dân tộc ta thời kì đó. Thu được tin báo Nguyễn Huệ giận lắm, “định thân chinh cầm quân đi ngay”. Chỉ trong vòng hơn một tháng trời, Nguyễn Huệ đã làm được rất nhiều việc: Ngày 25 lên ngôi hoàng đế, “tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi”, rồi đốc thúc đại quân tiến ra Bắc; ngày 29 tới Nghệ An, nhà vua cho tuyển thêm quân sĩ và mở một cuộc duyệt binh lớn, thu nhận được hơn một vạn quân tinh nhuệ; sau đó mang ra lời phủ dụ, vạch rõ mưu mô và sự tàn độc của quân xâm lược phong kiến phương Bắc, nêu cao truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm của dân tộc và mang ra lời hiệu triệu mời gọi các quân sĩ “đồng tâm hiệp lực, để dựng lên công lớn”. Lời phủ dụ như sấm truyền bên tai, như một lời hịch mang âm hưởng vang vọng của sông núi, kích thích lòng yêu nước và truyền thống người hùng của dân tộc. Chưa dừng lại ở đó, nhà vua còn hoạch định plan hành quân “lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mươi ngày có thể đánh đuổi được người Thanh” rồi chia quân sĩ ra làm năm đạo”. Hôm này là ngày 30 tháng chạp, vua cho tổ chức mở tiệc khao quân , hẹn đến ngày mồng bảy năm mới thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng…Qua đó, ta thấy vua Quang Trung – Nguyễn Huệ hiện lên là một nhân loại có hành động mạnh mẽ, xông xáo, có trí tuệ tỉnh táo trong nhận định tình hình địch ta và là người biết nhìn xa trông rộng, chưa thắng nhưng nhà vua đã nghĩ tới quyết sách ngoại giao, plan hòa bình trong mười năm tới.
Tác giả đã mượn lời người cung nhân cũ để làm nổi trội tính cách người hùng phi thường của Nguyễn Huệ khi trận Ngọc Hồi chưa diễn ra: “Không biết rằng, Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn không một người nào dám nhìn thẳng vào mặt hắn. Thấy hắn trở tay, đưa mắt là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sấm sét”. Lời nhận xét đó không phải là không có căn cứ. Điều này được trổ tài rất rõ, rất chân thực, rõ ràng và cụ thể trong cuộc điều binh khiển tướng trực tiếp của nhà vua. Trong chiến trường, vua Quang Trung hiện lên oai phong, lẫm liệt, có tài thao lược hơn người. Nhà vua đích thân cầm quân, tự mình đốc suất việc quân, tổ chức chiến dịch với cuộc hành quân thần tốc nổi tiếng trong lịch sử. Ngày 25 tháng chạp xuất quân ở Phú Xuân (Huế), một tuần sau đã tới Tam Điệp, đêm 30 tháng chạp đã “lập tức lên đường”, tiến ra Thăng Long. Toàn bộ đều là đi bộ. Từ Tam Điệp trở ra, vừa hành quân vừa đánh giặc, giữ bí mật, ngạc nhiên. Hành quân xa liên tục và gấp gáp nhưng đội quân của nhà vua vẫn chỉnh tề, đội quân đó không phải toàn là lính thiện chiến (có cả lính mới) nhưng dưới bàn tay lãnh đạo của Quang Trung đã trở thành đội quân dũng mãnh, như “tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên” quân đi đến đâu, giặc bị tiêu diệt tới đó. Lúc đi đến sống Gián và sông Thanh Quyết, toán quân Thanh vừa trông thấy bóng nhà vua đã “tan vỡ chạy trước”; tới làng Hà Hồi, huyện Thượng Phúc vua lặng lẽ cho vây kín làng rồi dùng mưu bắt loa truyền gọi khiến quân Thanh “ai nấy đều rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực, khí giới đều bị quân Nam lấy hết”; sáng mùng 5 tết tiến sát đồn Ngọc Hồi, dự phòng trước mũi súng của giặc, vua Quang Trung đã sai quân lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm một, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, cứ mười người một bức, lưng giắt dao ngắn, theo sau là hai mươi người cầm binh khí dàn thành chữ “nhất” tiến thẳng vào đồn. Vì vậy, súng giặc bắn ra đều vô tác dụng. Nhân có gió bắc, quân Thanh dùng súng ống phun khói lửa ra, khói tỏa mù trời, hòng làm quân ta rối loạn, không ngờ bỗng trời trở gió nam trái lại, thành ra quân Thanh tự hại mình. Trước tình thế nghìn năm có một ấy, nhà vua liền nhanh chóng sai đội khiêng ván vừa che, xông thẳng lên phía trước, gươm giáo chạm nhau thì vứt ván xuống đất cứ nấy dao ngắn thủ sẵn trong tay áo mà chém. Kết quả, quân Thanh “thây nằm đầy đống, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại”. Thừa thắng xông lên, vua Quang trung lẫm liệt, oai phong cưỡi voi tiến vào giải phóng thành Thăng Long vào trưa ngày mùng 5 tết Kỷ Dậu – trước plan hai ngày. Giặc bỏ chạy, vua cho phục binh tại đê Yên Duyên và Đại Áng, vây quân Thanh ở Quỳnh Đô, giặc chạy xuống đầm Mực, cuối cùng bị quân Tây Sơn ” lùa voi cho giày đạp, chết đến hàng vạn người”. Tôn Sĩ Nghị ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp, sợ mất mật, nhằm phía bắc mà chạy. Sầm Nghi Đống thì treo cổ tự vẫn; quan quân nhà Thanh lũ lượt, kinh hoàng khiếp đảm tan tác bỏ chạy, tranh nhau xô đẩy mà rơi xuống sông đến nỗi nước sông Nhị Hà vì vậy mà tắc nghẽn. Hình ảnh nhà vua lẫm liệt trên lưng voi lãnh đạo các trận đánh, dũng mãnh, tài ba được khắc họa nổi trội và là linh hồn của chiến công vĩ đại của dân tộc. Đây là hình ảnh người người hùng chiến trường đẹp vào vị trí thứ nhất trong văn học trung đại Việt Nam.
Tóm lại “Hoàng Lê nhất thống chí” và “Hồi thứ 14” không chỉ có giá trị lịch sử mà còn tồn tại giá trị văn học mới mẻ, rất tiêu biểu cho thể loại tiểu thuyết lịch sử viết theo lối chương hồi. Với ý kiến lịch sử đúng đắn và niềm tự hào dân tộc, các tác giả “Hoàng Lê nhất thống chí” đã tái hiện chân thực hình ảnh người người hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá hai mươi chín vạn quân Thanh. Đây chính là văn nghệ khắc họa hình tượng nhân vật – một trong các thủ pháp văn nghệ rực rỡ, góp phần làm ra sự thành công của tác phẩm.
Phân tích hình tượng vua Quang Trung – Mẫu 11
Trong các vị người hùng dân tộc, vua Quang Trung là một trong các vị người hùng được toàn bộ mọi người quý trọng và ngưỡng mộ bởi ở ông có rất nhiều những phẩm chất tốt đẹp. Có vẻ vì vậy mà vua Quang Trung cũng từng trở thành một đề tài sáng tác cho rất nhiều những tác phẩm văn học mang ý nghĩ ngợi ca. Và một trong số những tác phẩm đó, tất cả chúng ta không thể không nhắn đến “Hoàng Lê Nhất thống chí” đã mô tả vị người hùng dân tộc thật đẹp và oai hùng biết bao.
Trước tiên hình ảnh Quang Trung hiện lên là một người người hùng có hành động mạnh mẽ và quyết đoán. Từ đầu đến cuối đoạn trích, vua Quang Trung vẫn luôn là người chủ động trong mọi hành động và chỉ trong vòng một tháng, ông đã làm được biết bao nhiêu việc trọng yếu như tế cáo trời đất “lên ngôi hoàng đế”. “đốc suất đại binh ra bắc”, tuyển quân lính và mở ra những cuộc duyệt binh lớn nhất là đánh đuổi được giặc xâm lược… Không chỉ có hành động đầy mạnh mẽ quyết đoán, Nguyễn Huệ còn hiện lên là một người người hùng có trí tuệ tỉnh táo và vô cùng nhạy bén. Điều này trước tiên được trổ tài ngay ở việc ông lên ngôi hoàng đế: ngay khi mấy chục vạn quân Thanh tràn vào nước ta để xâm lược, quốc gia đang rơi vào cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” thì việc Quang Trung lên ngôi thống nhất quốc gia là vô cùng hợp lí để có thể thống nhất nội bộ đồng thời tìm thấy được những nhân tài giúp ích cho nước. Trí tuệ tỉnh táo của ông còn được trổ tài qua lời phủ dụ quân lính. Lời phủ dụ đã nhất định được chủ quyền của dân tộc ta, lên án phê phán những thế lực phản quốc đồng thời mời gọi lính tráng hãy một lòng một dạ đấu tranh bảo vệ quốc gia. Chỉ ngắn gọn vậy thôi nhưng lại sâu sa đến lạ thường, đánh thức trí não yêu nước và ý chí quật khởi của cả dân tộc. Không chỉ vậy ông còn tỉnh táo trong việc xét đoán bề tôi: so với Ngô Thì Nhậm ông xem đó như một vị quân sư “túc trí đa mưu”, biết đoán người một cách đầy khách quan, khen chê đúng lúc đúng chỗ… Đặc biệt hình ảnh Quang Trung còn hiện lên thật đẹp với tài dùng binh khiển tướng như thần. Cuộc hành binh thần tốc của vua Quang Trung đã trở thành một chiến công lịch sử vô cùng vang dội và đầy tự hào của dân tộc: Ngày 25 tháng chạp xuất binh ở phú xuân (Huế), một tuần lễ sau đã ra tận Tam Điệp cách Huế 500km. Rồi đến đêm 30 tháng chạp hành quân ra Bắc vừa đi vừa đánh giặc hơn nữa ông còn hoạch định là mồng 7 tháng giêng sẽ vào ăn tết ở Thăng Long, trong thực tiễn đã vượt mức hai ngày. Hành quân xa và đầy khổ sở như vậy nhưng cờ nào đội ấy vẫn chỉnh tề, răm rắp nghe theo lãnh đạo. Dưới sự lãnh đạo tài tình của vị lãnh đạo này đã đánh những trận thật đẹp, thắng áp đảo kẻ thù. Không chỉ là một vị tướng lãnh đạo tài ba mà vua Quang Trung còn tự mình xông pha chiến trường để đánh giặc đầy oai phong lẫm liệt…
Nói tóm lại, hồi mười bốn của tác phẩm “Hoàng Lê Nhất thống chí” đã phác thảo thật rõ bức chân dung vị người hùng Nguyễn Huệ – Quang Trung đầy oai phong với trí tuệ tỉnh táo, với hành động quyết đoán, có tầm nhìn xa trông rộng và có tài điều binh khiển tướng như thần. Hình ảnh vua Quang Trung sẽ mãi là niềm tự hào so với mỗi nhân loại Việt Nam để rồi mỗi khi nhắc đến là ai cũng tỏ ra đầy sự kính phục và ngưỡng mộ vô cùng vì có một vị tướng tài ba như vậy.
Phân tích hình ảnh vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí
Hình tượng người người hùng đã đi sâu vào trong tiềm thức của nhân dân, đi vào văn học với một dáng vẻ thân thuộc của người người hùng dân tộc. Từ văn học hiện đại ta bắt gặp hình tượng người chiến sĩ cách mạng, người hùng của thế kỉ XX trong những trang văn, lời thơ của những nhà văn, nhà thơ cách mạng. Về với văn học trung đại, tất cả chúng ta lại được ngắm nhìn hình tượng người người hùng làm lên lịch sử vẻ vang cho dân tộc trong đó có hình tượng người người hùng áo vải Quang Trung được các tác giả Ngô Gia văn phái tái hiện lên qua những trang văn lịch sử về thời kì hào hùng của dân tộc. Hình tượng người người hùng dân tộc Quang Trung hiện lên thật cao đẹp trong hồi thứ mười bốn của tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí”. Này là một nhân loại có khí phách hào hùng, trí tuệ tỉnh táo và tài thao lược hơn người.
“Hoàng Lê nhất thống chí” là một tác phẩm văn xuôi chữ Hán có quy mô lớn nhất và đạt được những thành công xuất sắc cả về nội dung cũng như văn nghệ. Với nội dung viết về những sự kiện lịch sử diễn ra trong khoảng ba mươi năm cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX ( cuối Lê đầu Nguyễn), tác phẩm đã xây dựng hình tượng nhân vật người hùng Quang Trung với sự kiện tiêu biểu trong hồi thứ 14: Quang Trung đại phá quân Thanh.
Hình ảnh vua Quang Trung hiện lên trước hết là một vị hoàng đế có trí tuệ tỉnh táo, hành động quyết đoán.
Khi 20 vạn quân Thanh tràn vào đất Bắc Hà chiếm giữ kinh thành Thăng Long thì lúc đó Nguyễn Huệ mới chỉ là Bắc Bình Vương đang ở Phú Xuân. Thu được tin cấp báo Nguyễn Huệ đã định “thân chinh cầm quân đi ngay” song trước lời bàn của các tướng sĩ, ông đã nhận thấy rằng cần phải lên ngôi hoàng đế, “chính vị niên hiệu”, “giữ lấy lòng người”.rồi mới nghiêm chỉnh xuất quân. Đó chính là một sự tỉnh táo, sự tỉnh táo của vị lãnh đạo biết làm gì để mang đến những lợi chung cho sự nghiệp. Cũng chính vì vậy mà chỉ trong một ngày Nguyễn Huệ đã làm xong 2 việc lớn: lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung và cũng ngày 25 tháng Chạp, Mậu Thân, đã kịp thời hạ lệnh xuất quân.Ông hiểu rất rõ việc cầm quân đánh giặc là không hề đơn giản, cũng phải có đủ uy quyền để nắm bắt lòng dân lúc bấy giờ. Việc lên ngôi trong tình thế cấp bách ấy đủ để thấy sự tỉnh táo trong trái tim của nhân loại luôn biết vì quốc gia, vì nhân dân.
Hành động quyết đoán là thế, Quang Trung đang là người mưu lược tỉnh táo. Hãy cùng nghe những lời Quang Trung dụ tướng sĩ trước lúc lên đường ra Bắc: “trong khoảng vũ trụ đất nào sao ấy đều đã phân biệt rõ ràng …”,và để khích lệ lòng yêu nước của tướng sĩ, để nêu bật chính nghĩa của ta và sự phi nghĩa của địch, ông đã dẫn ra một hệ thống song hành liên tục: “cứ một triều đại phong kiến phương Bắc thì đi liền với một nhân vật kiệt xuất, tiêu biểu phương Nam”. Rồi để giúp tướng sĩ nhận thấy chân tướng “Phù Lê diệt Trịnh” của Tôn Sĩ Nghị, nhận thấy dã tâm, bản chất xâm lược của quân Thanh. Nguyễn Huệ đã nhất định chủ quyền của dân tộc “đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng” và lên án hành động xâm lăng phi nghĩa, trái đạo trời của quân Thanh, nêu bật dã tâm của chúng “bụng dạ ắt khác…cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải”, ông khéo léo khích lệ tướng sĩ khi ngợi ca truyền thống đánh giặc của tổ tiên để từ này mà mời gọi tướng sĩ “ những kẻ có lương tri, lương năng hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực để dựng nên công lớn”. Lời lẽ phân tích của đấng minh quân thật rõ ràng, lập luật thật chặt chẽ khiến ta nhớ tới “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn và nhớ tới “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt, hai vị tướng kiệt xuất thuở trước. Có thể nói Quang Trung thật tỉnh táo khi nhận thấy rõ bản chất của kẻ thù và cũng rất tỉnh táo khi khơi gợi lòng yêu nước vì thế quân lính nhất nhất “xin vâng lệnh không dám hài lòng”.
Không chỉ mưu lược ở việc điều binh mà trong việc khiển tướng, Vua Quang Trung cũng rất tỉnh táo, thận trọng. Trên cương vị hoàng đế việc nhìn nhận bề tôi là một điều trọng yếu. Qua lời lẽ phân tích của ông so với Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, những người mà đáng lẽ ra đang có tội “quan thua chém tướng” song Quang Trung rất hiểu năng lực của họ vì thế ông đã nhận rõ các tướng lĩnh của mình đều là “hạng võ dũng, chỉ biết gặp giặc là đánh, đến việc tuỳ cơ ứng biến là không có tài”. Vì vậy ông đã xếp Ngô Thì Nhậm trợ giúp cho họ. Hiểu rõ tướng lĩnh của mình, Quang Trung không phạt họ mà trái lại họ còn an ủi khuyến khích họ “biết lo xa biết làm cho kẻ địch chủ quan kiêu ngạo”. Nhờ có sự tỉnh táo hiểu rõ bề tôi tường tận, ân uy đúng mực như vậy bậc anh quân đó đã tập hợp, tổ chức được lực lượng giống như Lê Lợi xưa kia:
“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc, ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phu tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào”
Với tầm cỡ của một người tài, trí tuệ tỉnh táo, mưu lược siêu phàm thì tầm nhìn xa trông rộng là một điều không thể thiếu. Ở vị vua này, tầm nhìn xa trông rộng của ông đã mang đến sự tự tin, thắng lợi cho nhân dân ta. Cho dù quân Thanh đang đóng gần hết đất Bắc Hà nhưng nhờ sự tỉnh táo tự tin, mưu lược tiến đánh đã sẵn “mười ngày đánh đuổi người Thanh”. Nhưng đó không phải là cái đích lớn mà đích lớn Quang Trung tính đến này là “khéo lời lẽ để dẹp yên binh đao” vì thế Nguyễn Huệ đã tỉnh táo chọn Ngô Thì Nhậm vào việc giao dịch với nhà Thanh sau này. Nhưng tầm nhìn của ông còn xa hơn nữa. Ngay cả khi ngồi trên lưng voi trước trận đánh, Quang Trung đã chuẩn bị plan cho mười năm sau, quả là một nhà chính trị văn hoá, một đấng minh quân, một người người hùng tài trí có tầm nhìn kế sách sâu sắc biết bao. Điều này khiến tất cả chúng ta có thể nhất định được rằng Quang Trung là nhân loại có tài trí tỉnh táo, vấn đề cần thiết ở đấng quân minh mà không phải ai cũng có được.
Không chỉ nhanh nhẹn, tài trí trong hành động quyết đoán, việc điều binh khiển tướng mà dưới ngòi bút của tác giả “Ngô gia văn phái” nhân vật người người hùng áo vải còn mang vẻ đẹp của vị tướng có tài thao lược hơn người. Điều này trổ tài vô cùng sắc nét trong cuộc hành quân thần tốc của nghĩa quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ lãnh đạo.
Này là sự nhanh nhẹn của một nhà quân sự, một bậc kỳ tài trong việc dùng binh. Dưới sự tỉnh táo trong việc lãnh đạo của Quang Trung, đội quân của ông đã tiến triển không ngừng. Tỉnh táo trong việc nhận định tình hình của giặc để rồi chớp lấy thời cơ, tổ chức chiến dịch thần tốc vô tiền khoáng hậu trong lịch sử. Văn nghệ cầm quân và tài năng quân sự, tài thao lược của Quang Trung chính là ở phương diện thần tốc ngạc nhiên. Ngày 25 tháng Chạp xuất quân từ Phú Xuân (Huế),ngày 29 đã tới Nghệ An, vượt khoảng 350km qua núi, qua đèo. Đến Nghệ An, vừa tuyển quân, tổ chức đội ngũ, vừa duyệt binh, chỉ trong vòng một ngày. Ngày sau, tiến quân ra Tam Điệp (cách khoảng 150km). Và đêm 30 tháng Chạp đã “lập tức lên đường”, tiến quân ra Thăng Long. Mà toàn bộ đều là đi bộ. Có sách còn nói vua Quang Trung sử dụng cả biện pháp dùng võng khiêng, cứ hai người khiêng thì một người được nằm nghỉ, luân phiên nhau suốt đêm ngày. Từ Tam Điệp ra Thăng Long (khoảng hơn 150km), vừa hành quân, vừa đánh giặc mà vua Quang Trung định plan chỉ trong vòng 7 ngày, mồng 7 tháng Giêng sẽ vào ăn Tết ở Thăng Long. Trên thực tiễn, đã thực hiện plan sớm hai ngày: trưa mồng 5 đã vào Thăng Long. Hành quân xa liên tục như vậy, thường quân đội sẽ mệt mỏi,rã rời, nhưng nghĩa binh Tây Sơn “cơ nào đội ấy vẫn chỉnh tề”, “từ quân đến tướng, hết thảy cả năm đạo quân đều vâng mệnh lệnh, một lòng một chí quyết chiến quyết thắng”. Này là nhờ tài năng quân sự lỗi lạc ở người cầm quân: hơn một vạn quân mới tuyển đặt ở trung quân, còn quân tinh nhuệ từ đất Thuận Quảng ra thì bao bọc ở bốn doanh tiền, hậu, tả, hữu.
Tài thao lược của Quang Trung còn trổ tài rõ khi chọn cách đánh ngạc nhiên, biết giặc kiêu căng khinh suất là tổ chức đánh ngay, biết chọn tướng lãnh đạo, hoạch định hướng tiến công, phối hợp giữa các cánh quân. Kết quả tài thao lược được trổ tài rõ ở đồn Hà Hồi, Ngọc Hồi khiến quân Thanh không kịp trở tay. Cách đánh ngạc nhiên thần tốc táo bạo đến mức khi quân Tây Sơn kéo vào thành Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị không hề được tin cấp báo . Vì vậy quân tướng nhà Thanh nhìn thấy quân Tây Sơn như nhìn thấy “tướng ở trên trời rơi xuống, quân ở dưới đất chui lên”. Sự thảm bại của quân Thanh là kết quả tất yếu. Như trong “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi có viết:
“Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng”
Quang Trung cùng với quân đội của mình làm ra mốc son chói lọi trong lịch sử của dân tộc, một thắng cuộc thần tốc với tài mưu lược, dụng binh khiển tướng tài ba của mình.
Hình ảnh vua Quang Trung hiện lên trong hồi thứ 14 không chỉ là người có trí tuệ tỉnh táo, hành động quyết đoán, mưu lược hơn người mà đây đang là hình ảnh của một vị người hùng lẫm liệt trong chiến trường. Quang Trung cưỡi voi lãnh đạo chiến dịch thần tốc nhưng phong thái ung dung tỉnh táo khác thường. Quang Trung đã tự tin nhất định “10 ngày đánh đuổi” quân Thanh trổ tài trí tuệm tỉnh táo, biết quản lý trong mọi tình thế. Chính phong thái ung dung tự tin của nhân loại có tài thao lược đã tô đậm vẻ đẹp khí phách hào hùng. Dưới những trang văn hào hùng mang tính sử thi của đoạn trích, ta như nhìn thấy hình ảnh Quang Trung khoác áo bào đỏ cưỡi trên lưng voi lãnh đạo 1 đội quân dàn trận chữ “Nhất” tiến vào Thăng Long:
“Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến
Trăm họ chật đường vui tiếp nghênh”.
Trong lịch sử phong kiến Việt Nam đã có nhiều ông vua từng thân chinh cầm quân đánh giặc nhưng vừa nắm quyền lãnh đạo, vừa quyết đoán phương lược, vừa đốc xuất chiến dịch và đi với 1 mũi tiến công xông pha nơi hòn tên mũi đạn thì chỉ có một Quang Trung. Trong ánh sáng lờ mờ của buổi sớm mai, trong khói toả mù trời của súng đạn, Quang Trung với khí phách lẫm liệt, hào hùng đã khắc tạo một hình tượng đẹp trong chiến trường, vượt ra khỏi tầm vóc của người người hùng áo vải,hình tượng ấy bỗng vụt sáng, trở thành hình tượng cao quý của bậc vĩ nhân. Hình ảnh ấy đã được sử sách còn ghi lại “ngày mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu” tấm áo bào đỏ của vua Quang Trung sạm đen khói súng. Hình tượng người người hùng ấy đã trở thành một hình tượng đẹp đẽ về người người hùng với khí phách hiên ngang lẫm liệt trong văn học cổ Việt Nam, trở thành một tượng đài bất hủ trong văn học cổ dân tộc. Đây là hình tượng người người hùng thực sự mới có đủ tầm vóc làm cho các tác giả Ngô Gia văn phái, những nhân loại tận trung với triều Lê không thể bỏ qua chiến công lừng lẫy của vua Quang Trung và hiện thực nhà Lê yếu hèn “cõng rắn cắn gà nhà” để trở thành những người ghi chép lịch sử tận tâm, tận hiếu, viết thực, viêts hay về lịch sử dân tộc.
Vẻ đẹp của Quang Trung trong khúc khải hoàn ca thắng cuộc còn in dấu trong những câu thơ của Ngô Ngọc Du một nhà thơ đương thời:
“Giặc đâu tàn bạo sang điên cuồng
Quân vua một giận oai bốn phương
Thần tốc ruổi dài xông thẳng tới
Như trên trời xuống ai dám đương …”
“Hoàng Lê nhất thống chí” hồi thứ 14 là một sự hiến dâng vô giá của các tác giả Ngô Gia văn phái về những trang tư liệu hào hùng trong lịch sử dân tộc qua việc khắc hoạ vẻ đẹp của hình tượng người người hùng áo vải Quang Trung. Như một thứ ánh sáng trong những phút đầu còn le lói nhưng vẫn lấp lánh hào quang ấy, hình tượng vị vua người hùng mỗi lúc một cao rộng, lan toả để rồi khắc sâu vào tâm khảm tất cả chúng ta vẻ đẹp trí tuệ tỉnh táo, tài thao lược hơn người và một khí phách hào hùng lẫm liệt. Trong tất cả chúng ta ngày hôm nay vẫn lưu truyền một truyền lưu về người người hùng mưu trí, tài năng, vị vua anh minh, tỉnh táo của dân tộc.
Đăng bởi: THPT Nguyễn Đình Chiểu
Thể loại: Tài Liệu Lớp 9
Xem thêm những thông tin liên quan đến đề tài hình ảnh vua quang trung
PHIM TRUYỆN VIỆT NAM TÂY SƠN HÀO KIỆT ( PHIM VUA QUANG TRUNG – NGUYỄN HUỆ)
- Tác giả: DUY NAM
- Ngày đăng: 2013-01-15
- Nhận xét: 4 ⭐ ( 1475 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: WWW.CHUATHAPTHAP.COM –
DẦU NHỚT TOP ONE SỐ 1 USA( 3.000km-6000km Mới Thay) LIEN HE : WWW.MINHDUC.VN
WWW.DOANHNGHIEPVIET.COM.VN
PHIM TRUYỆN VIỆT NAM TÂY SƠN HÀO KIỆT ( PHIM VUA QUANG TRUNG – NGUYỄN HUỆ)
Đi tìm vóc dáng ngoại hình vua Quang Trung
- Tác giả: nghiencuulichsu.com
- Nhận xét: 5 ⭐ ( 5660 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Phan Duy Kha Quang Trung Nguyễn Huệ là vị người hùng lập nên những chiến công hiển hách trong lịch sử dân tộc: Khuấy tan 5 vạn quân xâm lược Xiêm trong trận Rạch Gầm –Xoài Mút (1785); đánh đổ hai tập đoàn phong kiến Trịnh –Nguyễn chia cắt quốc gia ta suốt hơn hai…
Top 8 bài phân tích hình tượng vua Quang Trung siêu hay
- Tác giả: hoatieu.vn
- Nhận xét: 3 ⭐ ( 4148 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Top 8 bài phân tích hình tượng vua Quang Trung siêu hay, Phân tích hình tượng vua Quang Trung – Mời các bạn tham khảo các bài văn mẫu phân tích nhân vật vua Quang
Phân tích hình tượng nhân vật người người hùng Quang Trung
- Tác giả: loigiaivan.com
- Nhận xét: 4 ⭐ ( 9340 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Phân tích hình tượng nhân vật người người hùng Quang TrungHướng dẫn Đề bài: Anh chị hãy viết bài văn phân tích hình tượng nhân vật người người hùng Quang – Gới thiệu nội dung Phân tích hình tượng nhân vật người người hùng Quang Trung tiên tiến nhất.
Tóm tắt tiểu sử vua Quang Trung
- Tác giả: quangtrung.kontumcity.edu.vn
- Nhận xét: 5 ⭐ ( 1547 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Vua QUANG tRUNG
3 bàι phân tích hình ảnh Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí ngắи gọи hay nhất
- Tác giả: sachhanoi.net
- Nhận xét: 5 ⭐ ( 7811 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Trong các vị người hùng dân tộc, vua Quang Trung là một trong các vị người hùng được toàn bộ mọi người quý trọng và ngưỡng mộ bởi ở ông có rất nhiều những phẩm
NGUYỄN HUỆ TRONG HỒI THỨ 14 “HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ”
- Tác giả: thcsdaoduytuhn.vn
- Nhận xét: 4 ⭐ ( 8580 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm:
Xem thêm các nội dung khác thuộc thể loại: giải trí