Thuyết Minh Về Dân Ca Quan Họ Bắc Ninh ❤️️15 Bài Giới Thiệu – dân ca quan họ bắc ninh

Thuyết Minh Về Dân Ca Quan Họ Bắc Ninh ❤️️ 15 Bài Giới Thiệu ✅ Tuyển Tập Đặc Sắc Viết Về Làn Điệu Dân Ca Ngọt Ngào Mang Đâm Bản Sắc Dân Tộc.

Bạn đang xem: dân ca quan họ bắc ninh

Thuyết Minh Về Dân Ca Quan Họ Bắc Ninh ❤️️ 15 Bài Giới Thiệu ✅ Tuyển Tập Đặc Sắc Viết Về Làn Điệu Dân Ca Ngọt Ngào Mang Đâm Bản Sắc Dân Tộc.

Dàn Ý Thuyết Minh Về Dân Ca Quan Họ Bắc Ninh

Việc lập àn ý thuyết minh về dân ca quan họ Bắc Ninh là rất thiết yếu giúp các em học viên định hướng bố cục, sắp xếp ý chính và triển khai nội dung. Tham khảo dàn ý cụ thể dưới đây:

Ι. Mở bài: Giới thiệu về dân ca quan họ Bắc Ninh.

II. Thân bài:

-Nguồn gốc tạo dựng:

  • Dân ca quan họ là một làn điệu dân ca tiêu biểu của vùng đồng bằng Sông Hồng.
  • Tạo dựng từ thế kỉ XVII ở vùng Kinh Bắc xưa, nay là 2 tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang.

-Giới thiệu về dân ca quan họ Bắc Ninh:

  • Là lối hát giao duyên giữa người nam và nữ nhằm giãi bày, giãi bày tâm sự
  • Liền anh, liền chị dùng những câu hát ý nhị, giọng hát mượt mà sâu lắng để bộc lộ xúc cảm trong tâm hồn mình
  • Quan họ truyền thống thường được hát vào mùa xuân hay mùa thu là những mùa tươi đẹp nhất trong năm
  • Hát quan họ có ba hình thức thông dụng nhất là hát canh, hát phục vụ lễ hội và hát thi đấu giành giải, mỗi một thể loại đều có nét rực rỡ và dấu ấn riêng.

-Trang phục:

  • Liền anh: Mặc áo dào 5 thân, áo dài bên ngoài thường màu đen
  • Liền chị: Áo mớ ba mớ bảy, áo dài ngoài thường màu nâu, tím thẫm

-Ý nghĩa:

  • Quan họ là loại hình văn hóa rực rỡ lưu giữ những vẻ đẹp truyền thống xa xưa
  • Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại được UNESCO thừa nhận

III. Kết bài: Cảm nghĩ về quan họ Bắc Ninh: Tài sản vô giá của dân tộc, nó cần nuôi dưỡng bảo tồn, phát huy và lưu truyền cho thế hệ trẻ mai sau

SCR.VN tặng bạn 💧 Giới Thiệu Về Một Danh Lam Thắng Cảnh 💧 17 Bài Văn Hay

Bài Thuyết Minh Về Dân Ca Quan Họ Bắc Ninh – Mẫu 1

Bài thuyết minh về dân ca quan họ Bắc Ninh sẽ giới thiệu đến độc giả một trong những di sản văn hoá toàn cầu của Việt Nam ta.

Trong dòng văn hoá và văn nghệ âm nhạc dân gian chảy từ ngàn xưa, giữa sự phong phú và đa diện của các dòng dân ca: chèo của Thái Bình, Nam Định, chèo tàu của Hà Tây, hát dặm Nghệ An, Hà Tĩnh, ca trù, ca Huế, dân ca Nam Bộ vẫn lấp lánh một dòng dân ca tách biệt, rực rỡ và mới lạ, tựa như:

Cây trúc xinh tang tình là cây trúc mọc
Chị Hai xinh, tang tình là chị Hai đứng

Này là dân ca quan họ vùng Kinh Bắc – Bắc Ninh.

Quan họ vừa như một làn điệu quy tụ “khí chất” của rất nhiều làn điệu dân ca: cái trong sáng, rộn ràng của chèo; cái thổn thức, mặn mà của hát dặm; cái khoan nhịp sâu lắng của ca trù; cái khoẻ khoắn, hồn nhiên của dân ca Nam Bộ. Nhưng trên hết, quan họ mang “khí chất” của chính quan họ, là hồn của xứ sở quan họ, là “đặc sản” trí não của Kinh Bắc – Bắc Ninh.

Nằm kề cận với thủ đô, có diện tích nhỏ nhất nước, với sáu huyện, thị, nhưng khát vọng trí tuệ, khát vọng sống, khát vọng nhất định mình của Kinh Bắc chẳng nhỏ tí nào. Sách cổ của người xưa từng ngưỡng mộ: “Kinh Bắc nổi tiếng văn nhã”. Đất Kinh Bắc là nơi kết tụ của tài hoa các làng nghề: làng tranh Đông Hồ, làng giấy Đống Cao, làng chạm khắc Phù Khê, làng đồng Đại Bái, làng buôn Phù Lưu là đất của hàng nghìn di tích lịch sử, danh thắng của các đình, đền, chùa nổi tiếng. Người Kinh Bắc thông minh, tinh tế, ở bất kì thời kì lịch sử nào Kinh Bắc cũng hiến cho đời rất nhiều những danh nhân, nhân tài, kẻ sĩ, các bậc hiền tài.

Các cộng đồng làng Kinh Bắc từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác, gắn kết với nhau trong tình làng nghĩa xóm, trong lao động chăm chỉ, trong khát vọng yêu thương, vượt lên thiên tai, dịch họa, vượt lên gian lao, “thương người như thể thương thân”, “tứ hải giao tình” (bốn biển một nhà) như lời dân ca quan họ. Chính cái khát vọng sống của người Kinh Bắc, đất Kinh Bắc đã hóa thân thành những làn điệu quan họ kỳ diệu: “lời thì giao duyên, tình thì anh em”, vừa thực, vừa mơ, vừa giãi bày, vừa khúc chiết, vừa tình tự, vừa sâu sắc.

Các làng quan họ hầu như ở Bắc Ninh, mà theo các nghệ nhân, từng có tới 49 làng quan họ. Và như sông Cầu không khi nào cạn, mạch sống của khúc nhạc, lời ca quan họ cũng không khi nào phai nhạt dù đã trải qua bao đời người và bao nhiêu biến động thời thế. Đến giờ đây Hội làng quan họ vẫn là nguồn cảm xúc mùa xuân vô tận của xứ Kinh Bắc.

Các Hội làng gắn bó đặc biệt với hát quan họ, không thể nào có hội làng trên vùng đất Bắc Ninh mà thiếu vắng sắc màu và tiếng động quan họ. Những hội hè này trải dài từ mùng 4 Tết âm lịch đến 28 tháng 3 âm lịch. Rực rỡ nhất vẫn là Hội Lim ở huyện Tiên Sơn. Vào những ngày hội, nam thanh nữ tú các nơi đổ về, trẩy hội tưng bừng, để được nghe các liền anh, liền chị xiêm y mớ bảy mớ ba, hát đối đáp, hát canh, hát hội, hát mừng.

Dân ca quan họ quả là một tài sản vô giá của dân tộc Việt Nam, nó cần được tiếp tục nuôi dưỡng, trân trọng gìn giữ và lưu truyền lại cho các thế hệ mai sau, ở trong nước và cho cả cộng đồng Việt Nam hải ngoại.

Giới thiệu cùng bạn 🍀 Thuyết Minh Về Bắc Ninh 🍀 15 Bài Giới Thiệu Bắc Ninh Hay

Văn Mẫu Thuyết Minh Về Di Sản Văn Hoá Dân Ca Quan Họ Bắc Ninh – Mẫu 2

Văn mẫu thuyết minh về di sản văn hoá dân ca quan họ Bắc Ninh sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành riêng cho độc giả và các em học viên.

Ai đã một lần đặt chân đến vùng quê Kinh Bắc, vùng đất Bắc Ninh chắc hẳn đã được ngắm nhìn vẻ đẹp của miền đất nơi đây, nơi quy tụ của kho tàng văn hoá dân gian với nhiều công trình văn hoá văn nghệ rực rỡ. Nhắc tới Bắc Ninh, khách tham quan không chỉ được thưởng thức những món ăn đặc sản nổi tiếng đồng quê mộc mạc, mà còn được thưởng thức nét mới lạ của người quan họ trong câu hát mượt mà, đằm thắm.

Từ xa xưa, dân ca quan họ đã là món ăn trí não, một nét sinh hoạt văn hóa đẹp của người dân Kinh Bắc. Đây là những làn điệu dân ca rực rỡ của vùng đồng bằng Bắc Bộ – thể loại dân ca phong phú nhất về mặt nhạc điệu trong kho tàng dân ca Việt Nam. Mỗi một bài quan họ đều có nhạc điệu riêng. Đến nay, có tối thiểu 300 bài (nhạc điệu) quan họ đã được ký âm gồm những đoạn thơ, bài thơ, đa phần là thể lục bát do các nghệ nhân quan họ truyền thống bàn trả cho các nhà sưu tầm lưu giữ.

Nét mới lạ của Quan họ Bắc Ninh chính là ở sự hoà quyện tuyệt diệu giữa nhạc điệu và lời ca, giữa trang phục truyền thống mới lạ gắn với cách ứng xử văn hóa của các liền anh, liền chị. Trang phục quan họ không chỉ trổ tài tính văn nghệ thẩm mỹ, là hình thức bên ngoài mà nó còn bao hàm cả chiều sâu văn hóa của người Quan họ – Bắc Ninh.

Quan họ mang trong câu hát nhiều phong tục, tập quán, tín ngưỡng rực rỡ nên đã trở thành một “đặc sản văn hóa” luôn thu hút và gây ấn tượng mạnh ở nơi đây. Dân ca quan họ tuy không ồn ã, náo nhiệt, nhưng lại là một nét đẹp văn hóa được truyền từ đời này tạ thế khác và vẫn vẹn nguyên giá trị trí não không chỉ ở Bắc Ninh mà còn vang danh quốc tế.

So với các loại hình văn hóa văn nghệ dân gian khác như hát xoan, hát ghẹo, hát chèo, hát ca trù, hát ví dặm, tuồng, cải lương, … thì hát quan họ có thời gian tồn tại lâu đời nhất (tuổi thọ hàng ngàn năm). Điều đó đã minh chứng hát quan họ là một nét văn hóa địa phương không những không bị phong kiến phương Bắc đồng hóa, đánh mất, mà trái lại vẫn phát triển nhờ bản sắc riêng và sức sống của nó trong lòng người dân vùng Kinh Bắc.

Theo các nhà tìm hiểu văn hóa Quan họ, hiện tại Bắc Ninh có toàn bộ 44 làng duy trì được lối chơi văn hóa quan họ với hàng ngàn bài hát lời cổ mộc mạc, dân dã, mang nét đẹp riêng, vừa thiêng liêng, vừa thượng cổ mà rất Việt Nam. Kho băng thu âm quan họ cổ do các nghệ nhân ở các làng quan họ hát hiện vẫn được lưu giữ tại Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh. Các bài quan họ được giới thiệu mới chỉ là một phần trong kho tàng dân ca quan họ đã được tìm hiểu. Ngày nay, dân ca quan họ đã phát triển và hoàn chỉnh cả về phương diện âm nhạc, lời ca và hình thức trình diễn. Các làn điệu quan họ ngày càng phong phú và có ý tưởng riêng.

Nền văn hóa quan họ là do các lối chơi quan họ của cộng đồng xây dựng nên, luôn luôn được cộng đồng sàng lọc trong dòng chảy lịch sử. Việc khôi phục và bảo tồn những tinh hoa, bản sắc mới lạ, đậm đà nhất trong nền văn hóa quan họ là phải khôi phục và bảo tồn kho tàng bài bản của quan họ, cách hát, kỹ thuật hát quan họ (quan họ cổ) và cuối cùng là lối chơi quan họ.

Quan họ truyền thống hát không nhạc đệm và đa phần hát đôi giữa liền anh và liền chị vào dịp lễ hội xuân ở các làng quê. Trong quan họ truyền thống, đôi liền anh đối đáp với đôi liền chị được gọi là hát hội, hát canh; còn hát cả bọn, cả nhóm liền anh đối đáp cùng cả nhóm liền chị được gọi là hát chúc, mừng, hát thờ. “Chơi quan họ” truyền thống không có khán giả, người trình diễn đồng thời là người thưởng thức, thưởng thức “cái tình” của các bạn hát.

Dù cuộc sống ngày càng đô thị hóa, nhưng giờ đây về miền quan họ, bạn vẫn thấy mỗi làng quê, mỗi gốc đa, mái đình, bến nước, dòng sông vẫn chứa đựng tình người quan họ. Và dù thời gian có trôi đi, thì câu quan họ vẫn được truyền từ đời này sang đời khác. Sức sống bền chắc, trường tồn của những canh quan họ, của những câu hát trao gửi vẫn thu hút và tạo ấn tượng bền sâu với khách tham quan.

Đến với Bắc Ninh, ngoài việc được hòa vào không khí văn hóa quan họ, bạn còn được những liền anh liền chị mời miếng trầu têm cánh phượng như trong truyện cổ của cô Tấm xinh tươi. Bên cơi trầu, cuộc sống và văn hóa quan họ xứ Kinh Bắc càng đậm đà bản sắc, thấm đượm tình người. Và cho đến khi bạn ra về, tạm biệt Bắc Ninh, chia tay với các liền anh, liền chị, bạn vẫn thấy vị trầu nồng đượm, nhạc điệu da diết, ngọt ngào của bài hát “Người ơi, người ở đừng về” níu bước chân.

Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào miễn phí Mới Nhất

Giới Thiệu Về Dân Ca Quan Họ Bắc Ninh Hay Nhất – Mẫu 3

Chia sẻ bài giới thiệu về dân ca quan họ Bắc Ninh hay nhất với những thông tin thiết yếu giúp các em học viên thực hiện nội dung của mình.

Một trong những niềm tự hào của người Kinh Bắc là Hội Lim. Trong Hội Lim thứ “đặc sản” tuyệt vời nhất là những làn điệu quan họ. Những làn điệu dân ca quan họ trữ tình, mượt mà, da diết, ngọt ngào ấy được trình tấu bởi những liền anh, liền chị lịch lãm mà không kém phần duyên dáng. Cứ thế, dân ca quan họ đi vào lòng người và trở thành phần hồn, thành món ăn trí não của loài người, thành nét văn hóa rất riêng của vùng đất kinh kì xưa.

Dân ca quan họ Bắc Ninh được tạo dựng khá lâu đời, do cộng đồng người Việt (Kinh) ở 49 làng quan họ và một số làng lân cận thuộc hai tỉnh Bắc Ninh. Bắc Giang hiện tại của Việt Nam sáng tạo ra. Các làng quan họ nằm hai bên bờ sông Cầu, cách thủ đô Hà Nội về phía bắc khoảng 30km. Dân ca quan họ là hát đối đáp nam, nữ. Họ hát quan họ vào mùa xuân, mùa thu khi có lễ hội hay khi có đồng bọn. Một cặp nữ của làng này hát với một cặp nam của làng với một bài hát cùng nhạc điệu, khác về ca từ và đối giọng.

Cặp hát phân công người hát dẫn, người hát luôn nhưng giọng hát của hai người phải hợp thành một giọng. Họ hát những bài ca mà lời là thơ, ca dao có từ ngữ trong sáng, mẫu mực trổ tài tình yêu lứa đôi, không có nhạc đệm kèm theo. Có bốn kỹ thuật hát đặc trưng: Vang, rền, nền, nảy. Hát quan họ có ba hình thức chính Hát canh, hát thi lấy giải, hát hội. Hát quan hệ nối liền với tục kết chạ, tục kết giao giữa các bọn quan họ, tục “ngủ bọn”. Mặc dù các phong tục này không, được thực hành nhiều như trước đó, cộng đồng dân cư các làng quan họ vẫn bảo tồn và truyền dạy văn nghệ dân ca quan họ này.

Trang phục quan họ bao gồm trang phục của các liền anh và trang phục của các liền chị. Trong các lễ hội quan họ có cả những cuộc thi trang phục quan họ. Liền anh mặc áo dài năm thân, cô đứng, có lá sen, viền tà, gấu to, dài tới quá đầu gối. Thường bên trong mặc một hoặc hai áo cánh, sau đó đến hai áo dài. Riêng áo dài bên ngoài thường màu đen, vật liệu là lương, hoặc so với người khá giả hơn thì áo ngoài may bằng đoạn màu đen, cũng có người áo dài phủ ngoài may hai lần với một lần ngoài bằng lương hoặc the, đoạn, lần trong bằng lụa mỏng màu xanh cốm, xanh lá mạ non, màu vàng chanh gọi là áo kép.

Quần của liền anh là quần dài trắng, ống rộng, may kiểu có chân què dài tới mắt cá chân, vật liệu may quần cũng bằng điểm bâu, phin, trúc bâu, hoặc lụa màu mỡ gà. Có thắt lưng nhỏ để thắt chặt cạp quần. Đầu liền anh đội nhiễu quấn hoặc khăn xếp. Thời trước, đàn ông còn nhiều người búi tó nên phải vấn tóc bằng khăn nhiễu. Sau này phần nhiều cắt tóc, rẽ đường ngôi nên chuyển sang dùng loại khăn xếp bán sẵn ở các cửa hiệu cho tiện.

Trang phục liền chị thường được gọi là “áo mớ ba mớ bảy”. Tuy nhiên trong thực tiễn các liền chị thường mặc áo mớ bảy. Về cơ bản trang phục bao gồm các thành phần: trong cùng là một chiếc yếm có màu rực rỡ thường làm bằng lụa nhuộm. Bên ngoài yếm là một chiếc áo cánh màu trắng, vàng, ngà. Ngoài cùng là những lượt áo dài năm thân, cách phối màu cũng tương tự như ở bộ trang phục nam nhưng màu sắc tươi hơn. Áo dài năm thân của nữ, có cả khuy, khác với kiểu tứ thân thắt hai vạt trước.

Vật liệu để may áo đẹp nhất thời trước là the, lụa. Áo dài ngoài thường mang màu nền nã như màu nâu già, nâu non, màu đen, màu cánh dán, áo dài trong thường nhuộm màu khác nhau màu cánh sen, màu hoa hiên, màu thiên thanh, màu hổ thuỷ, màu vàng chanh, màu vàng cốm. Áo cánh mặc trong có thể thay bằng vải phin trắng, lụa mồi gà.

Yếm thường nhuộm màu đỏ (xưa gọi là yếm thắm), vàng thư (hoa hiên, xanh da trời (thiên thanh), hồng nhạt (cánh sen), hổ thủy (xanh biến). Giải yếm to buông ngoài lưng áo và giải yếm thắt vòng quanh eo rồi thắt múi phía trước cùng với bao và thắt lưng. Thắt lưng cũng buộc múi ra phía trước để cùng với múi bao, múi giải yếm tạo thành những múi hoa màu sắc phía trước con gái. Liền chị mặc váy sồi, váy lụa, thỉnh thoảng có người mặc váy kép với váy trong bằng lụa, vải màu, lương, the, đoạn; váy ngoài bằng the, lụa. Váy màu đen.

Người biết mặc váy khéo là không để váy hớt trước, không để váy quây tròn lấy người như mặc quần mà phải thu xếp sao cho phía trước rủ hình lưỡi chai xuống gần tới mu bàn chân, phía sau hơi hớt lên chớm phía gót chân. Dép cong làm bằng da trâu thuộc theo phương pháp thủ công, mũi dép uốn cong như một lá chắn nhỏ, che dấu đầu các ngón chân. Ngoài áo, quần, thắt dép, người liền chị còn chít khăn mỏ quạ, đội nón quai thao, và thắt lưng tích.

Hiện tại vẫn chưa có câu trả lời cuối cùng về thời điểm ra đời của Dân quan ca họ trong lịch sử. Có thể nghĩ rằng Dân ca quan họ phát triển đến đỉnh cao giữa thế kỉ XVIII, Chủ nhân của quan họ là những người nông dân Việt (Kinh), đa phần sống bằng nghề trồng lúa nước. Mỗi làng quan họ đều có lễ hội riêng. Quan họ tồn tại song hành cùng lễ hội làng, nơi mà người dân thờ thành hoàng, nữ thần, một đôi trường hợp là tín ngưỡng phồn thực. Trong số các hội làng quan họ, hội Lim (thị xã Lim, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh) vào 13 tháng giêng âm lịch, là hội lớn nhất.

Mỗi một bài quan họ có nhạc điệu riêng. Cho đến nay, đã có tối thiểu 300 bài quan họ đã được ký âm. Các bài quan họ được giới thiệu mới chỉ là một phần trong kho tàng dân ca quan họ đã được tìm hiểu. Kho băng ghi lại hàng nghìn bài quan họ cổ do các nghệ nhân ở các làng quan họ hát hiện vẫn được lưu giữ tại Sở Văn hóa hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh. Các làn điệu quan họ cố bao gồm: La rằng, Đường bạn Kim Loan, Cây gạo, Giã bạn, Hừ la, Ca bời, Tình tang, Cái ả, Lên núi, Xuống sông, Gió mát trăng thanh, Tứ quý.

Quan họ truyền thống chi tồn tại ở 49 làng quan họ gốc ở xứ Kinh Bắc. Quan họ truyền thống là hình thức tổ chức sinh hoạt văn hóa dân gian của người dân Kinh Bắc, với những quy định nghiêm ngặt, khó tính đòi hỏi liền anh, liền chị phải am tường tiêu chuẩn, tuân theo luật lệ. Điều này giải thích lý người dân Kinh Bắc thích thú “chơi Quan họ”, không phải là “hát Quan họ”.

Quan họ truyền thống không có nhạc đệm và đa phần hát đôi giữa liền anh và liền chị vào dịp lễ hội xuân thu nhị kỷ ở các làng quê. Trong quan họ truyền thống, đôi liền anh đối đáp với đôi liền chị được gọi là hát hội, hát canh; hát cả cả nhóm liền anh đối đáp cùng cả nhóm liền chị được gọi là hát chúc, mừng, hát thờ. “Chơi quan họ” truyền thống không có khán giả, người trình diễn đồng thời là người thường thức (thưởng thức “cái tình” của các bạn hát).

Nhiều bài quan họ truyền thống vẫn được các liền anh, liền chị “chơi quan hệ” ưa thích đến tận ngày nay như La rằng, Tình tang, Bạn kim lan, Cái ả, Cây gạo. Sinh hoạt văn hoá Quan họ của liền anh, liền chị xứ Kinh Bắc có nhiều hình thức tổ chức khác nhau. Cuộc hát Quan họ được xem là Canh hát chính thống thường phải tuân thủ đủ trình tự các chặng: lề lối, giọng vặt và giã bạn.

Trong ba chặng hát: Lề lối, Giọng vặt, Giã bạn – mỗi thời kỳ đểu có những dấu hiệu khác biệt ở phần nội dung cũng như hình thức cấu trúc bài bản. Lề lối là bài Quan họ cổ, thường được hát ở nhịp độ chậm, bài bản có nhiều tiếng đi lời phụ. Người hát những bài Quan họ Lề lối phải biết kỹ thuật hát vang, nền, nảy, ngắt, rớt mới có thể thực hiện tốt và “đúng chất” Quan họ.

Quan họ mới còn được gọi là “hát Quan họ”, là hình thức trình diễn (hát quan họ đa phần trên sân khấu hoặc trong các sinh hoạt cộng đồng Tết xuân, lễ hội, hoạt động du lịch, quán ăn,… Thực tiễn quan họ mới được trình diễn vào bất kỳ ngày nào trong năm. Quan họ mới luôn có khán thính người hát trao đổi tình cảm với khán thính giả không đang là tình cảm giữa bạn hát với nhau. Quan họ mới không còn nằm ở không gian làng xã mà đã vươn ra ở nhiều nơi, đến với nhiều thính giả ở các quốc gia trên trên toàn cầu.

Quan họ mới có hình thức trình diễn phong phú hơn quan họ truyền thống, bao gồm cả hát đơn, hát đôi, hát tốp, hát có múa phụ họa, cải biên các bài bản truyền thống. Hát quan họ với lời mới được nhiều người yêu thích tới mức tưởng nhầm là quan họ truyền thống như bài “Sông Cầu nước chảy lơ thơ” do Môn Khanh soạn lời mới từ làn điệu truyền thống “Nhất quế nhị lan”.

Quan họ được lưu truyền trong dân gian từ đời này sang đời khác phương thức truyền khẩu. Phương thức này là một yếu tố giúp cho Quan hệ trở thành một loại hình dân ca có số lượng lớn bài hát với nhạc điệu khác nhau. Tuy nhiên, cũng chính phương thức này đã làm cho các bài Quan họ lưu truyền trong dân gian bị thay đổi nhiều, thậm chí khác hoàn toàn so với bản gốc nhiều nhạc điệu cổ đã mất hẳn. Mặc dù sự thay đổi này cũng làm cho Quan họ phát triển, nhưng ở trong hoàn cảnh văn hóa Phương Tây đang xâm nhập mạnh mẽ vào Việt Nam, vấn đề bảo tồn nguyên trạng Quan họ trong từng thời kỳ phát triển là việc làm cấp thiết.

Từ những năm 70 của Thế kỷ trước, Sở Văn hóa Hà Bắc đã tiến hành sưu tầm Quan họ. Hàng nghìn bài Quan họ, bao gồm các dị bản đã được thu âm tại các làng quan họ, với giọng hát của hàng trăm nghệ nhân (Đến nay hầu như đã ra đi). Khoảng 300 bài Quan họ hay nhất được Nhà xuất bản Âm nhạc in thành sách. Tuy nhiên, hàng nghìn bài Quan họ đã được thu âm, do các cụ nghệ nhân (đã mất) hát, phải được giữ gìn cực kỳ cảnh giác để có thể lưu giữ một cách dài lâu cho thế hệ mai sau. Quan họ đã được Ủy ban Liên chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể long trọng thông báo là Di sản phi vật thể đại diện của Nhân loại.

Dù trải qua nhiều thăng trầm, ngày nay quan họ vẫn tồn tại và được nâng niu, giữ gìn. Trong tương lai, chắc hẳn quan họ tiếp tục gắn bó cùng loài người, tạo nét riêng, nét đẹp văn hoá của xứ Kinh Bắc và cả dân tộc Việt Nam.

Tiếp theo, mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Thuyết Minh Về Sapa 🌹 17 Bài Văn Giới Thiệu Về Sapa Hay

Giới Thiệu Về Quan Họ Bắc Ninh Ngắn Gọn – Mẫu 4

Bài văn mẫu giới thiệu về quan họ Bắc Ninh ngắn gọn dưới đây sẽ giúp các em học viên tham khảo cách hành văn súc tích và những ý văn giàu ý nghĩa.

Hàng năm, cứ mỗi độ xuân về và khi mùa thu tới, người dân 49 làng Quan họ gốc thuộc xứ Kinh Bắc (bao gồm cả Bắc Ninh và Bắc Giang ngày nay), dù ở bất kì nơi đâu cũng trở về quê hương để trẩy hội đình, hội chùa, những lễ hội hết sức mới lạ bởi đã nối liền với trình diễn Quan họ tự bao đời nay.

Mặc dầu còn tồn tại những ý kiến khác nhau về thời điểm ra đời của Quan họ, có ý kiến cho rằng Quan họ có từ thế kỷ 11, số khác cho rằng từ thế kỷ 17, song, các công trình thăm dò, tìm hiểu từ trước tới nay đều đã nhất định giá trị to lớn của di sản “Văn hóa Quan họ”, nhất là dân ca Quan họ, loại hình văn nghệ được xem như là cốt lõi của văn hóa xứ “Kinh Bắc” ngàn năm văn hiến.

Dân ca Quan họ là một hình thức hát giao duyên. Những liền anh trong trang phục truyền thống khăn xếp, áo the và những liền chị duyên dáng trong bộ áo mớ ba, mớ bẩy, đầu đội nón thúng quai thao, cùng nhau hát đối những câu ca mộc mạc, đằm thắm, cách hát theo lối truyền thống không cần nhạc đệm mà vẫn đầy chất nhạc, trổ tài nét văn hóa tinh tế của người Quan họ.

Theo tư tưởng của người Quan họ, nghệ nhân là những ngưòi có tuyệt kỹ hát “vang, rền, nền, nẩy” thành thạo, thuộc nhiều bài, nhiều “giọng” Quan họ. Họ chính là những bậc thầy dân gian thực hành việc sáng tạo, lưu giữ và trao truyền vốn di sản quý báu đó cho các thế hệ mai sau nên rất xứng đáng được tôn vinh.

Ngày nay, trước sức ép của xu thế toàn thế giới hóa về kinh tế, quốc tế hóa về văn hóa và sự phát triển mạnh mẽ, phong phú, nhiều ưu thế của các loại hình văn hóa, văn nghệ, cũng như nhiều loại hình di sản văn hóa phi vật thể khác, Quan họ cổ cũng phải đương đầu với một thách thức lớn là rủi ro bị mai một, thậm chí có thể bị mất hẳn nếu không kịp thời có biện pháp bảo vệ lâu dài cho thế hệ trẻ.

Bởi vậy, lề lối sinh hoạt ca hát Quan họ cổ, những giọng hát cổ với kỹ thuật “vang, rền, nền, nẩy” vốn đã làm ra giá trị rực rỡ của dân ca Quan họ hiện đang lưu tồn trong trí óc và trái tim say nghề của các cụ “Liền anh, Liền chị” nay đã trạc tuổi 70 đến 90 rất cần được trao truyền và tiếp nối.

Chia sẻ cùng bạn 🍀 Giới Thiệu Về Đà Lạt 🍀 20 Bài Văn Thuyết Minh Đà Lạt Hay Nhất

Thuyết Minh Về Dân Ca Quan Họ Bắc Ninh Đạt Điểm Cao – Mẫu 5

Để viết bài thuyết minh về dân ca quan họ Bắc Ninh đạt điểm cao, các em học viên có thể vận dụng những gợi ý hay trong bài văn mẫu sau đây:

Người Việt ta luôn tự hào là “Đất nước ngàn năm văn hiến” với sự giao thoa của nhiều nền văn hoá. Dưới hàng nghìn năm Bắc thuộc cùng ách thống trị của thực dân Pháp, nền văn hoá của ta đã tiếp thụ những giá trị văn hóa mới nhưng vẫn giữ lại được nét tinh hoa của dân tộc, để từ đó sáng tạo thành những loại hình văn nghệ vô cùng rực rỡ, mang lại giá trị to lớn cho nền văn hoá Việt. Dân ca quan họ Bắc Ninh chính là một trong những loại hình văn nghệ ấy, nó có sức lan tỏa mạnh mẽ lay động người nghe bằng những câu hát giao duyên dịu dàng mà đằm thắm ân tình xứ Bắc.

Dân ca quan họ là một làn điệu dân ca tiêu biểu của vùng đồng bằng sông Hồng thuộc miền Bắc nước ta, được tạo dựng từ rất lâu đời ở vùng Kinh Bắc xưa, đa phần là thuộc hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh với dòng sông Cầu chảy ngang. Theo các nhà tìm hiểu khoa học Quan họ có từ thế kỷ thứ XVII, được bắt nguồn từ tục kết chạ giữa bà con lối xóm.

Tên gọi “Quan họ” có thể thể hiểu theo truyền thuyết có một ông quan trong lần qua xứ Kinh Bắc, vô tình nghe được và lấy làm say mê những câu hát ngọt ngào của các liền anh, liền chị, những người cùng có sở thích ca hát dòng nhạc này và người ta gọi là đó một”họ”. Nhưng cách giải thích này cũng chỉ đúng ở một khía cạnh nào đó, ngoài ra còn rất nhiều cách lý giải khác liên quan đến nếp sinh hoạt văn hóa và chính sách thời bấy giờ.

Dân ca Quan họ là lối hát giao duyên giữa người nam và nữ, là hình thức trao đổi giãi bày tâm tư, tình cảm giữa liền anh và liền chị.Họ dùng những câu hát ý nhị, giọng hát mượt mà sâu lắng để bộc lộ xúc cảm trong tâm hồn mình. Những làn điệu Quan họ truyền thống thường được hát vào mùa xuân hay mùa thu là những mùa tươi đẹp nhất trong năm, khi ấy câu hát Quan họ sôi động, tưng bừng làng trên, thôn dưới, làm thổn thức biết bao trái tim người yêu văn nghệ.

Thông thường quan họ thông dụng lối hát đối đáp giữa trai và gái, có thể cùng một làng hoặc khác làng, cái khó là ở chỗ cùng một nhạc điệu nhưng người hát phải tự tìm lời thích hợp để đối qua đối lại, tạo thêm phần mê hoặc và không bị nhàm chán, ấy là điểm rực rỡ mà không phải ai cũng hát được. Các đôi nam nữ cất lên những câu hát dạt dào xúc cảm, lắng đọng tâm tình, đó có thể là những câu hát được lấy từ lời thơ, lời ca dao trong sáng, ý nhị.

Quan họ là thể loại nhạc trữ tình nên cách hát và luyến láy được trau chuốt rất kỹ lưỡng, gồm nhiều kỹ thuật sao cho âm điệu vừa vang, rền lại vừa nền, nảy, nghe như rót mật vào tai, vô cùng ngọt ngào tình cảm, như dòng chảy mượt mà của dòng sông Cầu – “dòng sông Quan họ”. Hát quan họ có ba hình thức thông dụng nhất là hát canh, hát phục vụ lễ hội và hát thi đấu giành giải, mỗi một thể loại đều có nét rực rỡ và dấu ấn riêng.

Trang phục cũng là một điểm nổi trội trong văn nghệ Dân ca Quan họ, các liền anh liền chị khoác lên mình những bộ quần áo rực rỡ sắc màu tôn lên vẻ đẹp thanh lịch, quý phái của người con Kinh Bắc. Về phía nam, các liền anh khoác lên mình tấm áo dài mỏng thẫm màu, bên trong là áo trắng cùng quần lĩnh trắng, ống rộng, phẳng phiu, đầu đội khăn xếp, tay có thể cầm quạt hoặc cầm chiếc dù đen, càng tăng thêm vẻ đĩnh đạc, truyền thống đậm chất văn hóa vùng Kinh Bắc.

Trang phục liền chị phức tạp và tỉ mỉ hơn các liền anh rất nhiều, các chị sẽ mặc những bộ áo mớ ba mớ bảy nhiều màu sắc sặc sỡ như đỏ, vàng, xanh phối cùng với chiếc thắt lưng hoa đào, chít tóc bằng khăn mỏ quạ, đầu đội nón quai thao trắng, hoặc cầm ở tay, cho thêm phần duyên dáng, thướt tha. Những câu hát cất cánh bổng, da diết, ngọt ngào kết phù hợp với trang phục đặc biệt như vậy đã làm tăng thêm vẻ đẹp cho những người hát giao duyên.

Quan họ là một loại hình văn hóa rực rỡ, vẫn còn được phát triển cho đến ngày nay, ở nó còn lưu giữ những vẻ đẹp truyền thống xa xưa, nhưng đến hiện tại đã được những người tiếp nối phát triển và sáng tạo ra những cái mới để quan không bị lạc hậu so với thời kì.Quan họ được xem là dòng nhạc dân ca trữ tình có nguồn nhạc điệu phong phú và phong phú nhất ở Việt Nam, tính cho đến nay tất cả chúng ta còn lưu giữ được khoảng 300 bài quan họ có nhạc điệu khác nhau và được ghi chép thành các bản nhạc, ngoài ra còn tồn tại rất nhiều các nhạc điệu không được ký âm chính thức mà chỉ được truyền miệng từ đời này tạ thế khác.

Các làn điệu quan họ truyền thống phải kể tới là: Đường bạn Kim Loan, Cây gạo, La hời, Tình tang. Hát Quan họ khi nào cũng có ba chặng, chặng mở màn thuộc giọng lề lối, khi hát xong khoảng mười bài giọng lề lối người hát chuyển sang giọng sổng để tiếp vào chặng giữa, các bài ở chặng giữa là ở giọng vặt, chặng cuối là giọng giã bạn.

Làn điệu quan họ là những tiếng hát thân tình, ngọt ngào mềm mại, người hát luôn trong trạng thái say mê, vui thú, chăm sóc thổi hồn vào tình ngôn từ làm cho âm hưởng của toàn bài luôn vang vọng và thấm đẫm vào tâm hồn những người thưởng thức, khiến ta phải trầm trồ, thán phục trước sức hút của thứ dân ca truyền thống, và cũng rất kén người nghe này.

Vào ngày 30 tháng 9 năm 2009, dân ca Quan họ Bắc Ninh đã chính thức được UNESCO thừa nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, đây là một điều đáng mừng, là nguồn động lực để dân ca Quan họ tiếp tục phát triển và ghi lại những dấu ấn truyền thống tốt đẹp của dân tộc, như một nét đẹp văn hóa rực rỡ của Việt Nam.Ngày nay cùng với sự phát triển của quốc gia, Quan họ không còn bị bó hẹp trong không gian làng, xã mà nó đang dần lan tỏa khắp mọi miền quốc gia, trở thành nét văn hoá rực rỡ và là niềm tự hào của người dân Việt Nam.

Dân ca Quan họ Bắc Ninh quả là một tài sản vô giá của dân tộc, nó cần nuôi dưỡng bảo tồn, phát huy và lưu truyền cho thế hệ trẻ mai sau.Mỗi tất cả chúng ta người con đất Việt cần phải biết trân trọng và thêm yêu những giá trị truyền thống tốt đẹp, để chúng được trường tồn với thời gian, không bị đi vào quên lãng, giữa nhịp sống hiện đại xô bồ.

Chia sẻ thời cơ 🌟 Nạp Thẻ Ngay Miễn Phí 🌟 Tặng Card Nạp Tiền Ngay miễn phí Mới

Bài Thuyết Minh Về Dân Ca Quan Họ Bắc Ninh Đặc Sắc – Mẫu 6

Tham khảo bài thuyết minh về dân ca quan họ Bắc Ninh rực rỡ với cách miêu tả sinh động, để lại nhiều ấn tượng với người đọc.

Cách đây ít lâu, giữa những ngày thu dấu ấn, ngày 30 tháng 9 năm 2009, tại kỳ họp lần thứ tư của Uỷ ban liên chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ văn hoá phi vật thể đã tuyên bố thừa nhận Dân ca Quan họ của Việt Nam là di sản phi vật thể toàn cầu. Niềm vinh dự này không chỉ của cộng đồng dân cư vùng Kinh Bắc mà còn của đồng bào cả nước, bởi đây là di sản đại diện nhân loại thứ ba của Việt Nam sau nhã nhạc cung đình Huế và cồng chiêng Tây Nguyên được Liên Hợp quốc thừa nhận.

Quan họ là một loại hình dân ca rất phong phú về nhạc điệu. Đến nay, các ý kiến về nguồn gốc và thời điểm ra đời của Dân ca Quan họ vẫn còn rất khác nhau. Nhưng chúng tôi thiên về ý kiến của một nhà tìm hiểu văn học dân gian nổi tiếng cho rằng, Dân ca Quan họ bắt nguồn từ châu Cổ Pháp (Đình Bảng) quê hương của vua Lý Công Uẩn. Cứ mỗi khi vua về thăm quê (ở châu Cổ Pháp) thì những người trong họ Lý, mà người đương thời gọi là “quan viên họ Lý” đều đến ly cung và hát những câu hát dân ca mà nhân dân trong vùng thường hát để mừng nhà vua. Từ đó, nhân dân gọi những câu dân ca ấy là hát Quan họ.

Trong nền văn học văn nghệ dân gian Việt Nam, Dân ca Quan họ là một loại dân ca rực rỡ cả về âm nhạc và văn chương. Hát Quan họ là một lối hát đòi hỏi luyện tập công phu và có tính tập thể với những lề lối, quy định chặt chẽ, trở thành phong thái, được thực hiện nghiêm ngặt từ tổ chức đến hình thức diễn xướng. Lề lối của các bài hát Quan họ thường được hát ở nhịp độ chậm, bài bản, có nhiều tiếng đệm, lời phụ.

Người hát những bài hát Quan họ lề lối phải biết kỹ thuật hát vang, nền, nảy, ngắt, rớt… Vì vậy, Quan họ cổ không cần nhạc đệm, không cần tăng âm và micrô nhưng vẫn vang, người nghe đơn giản nghe được dù là trong lễ hội đông người. Ngày nay, tuy vẫn còn những nghệ nhân có thể trình diễn Quan họ cổ nguyên bản, không cần nhạc đệm, không cần micrô, nhưng Quan họ đã, đang phát triển theo khyunh hướng hiện đại. Trên thực tiễn, người dân Việt Nam nghe đến Quan họ hiện đại nhiều hơn là Quan họ cổ.

Người vùng Kinh Bắc, từ già đến trẻ ai cũng hát được một vài làn điệu Quan họ. Người chơi Quan họ sành điệu không chỉ hát hay, hát được nhiều làn điệu mà phải hát được nhiều bài lời cổ. Người Kinh Bắc hát dân ca Quan họ, chơi Quan họ không những trong dịp lễ hội mà cả trong lúc lao động, trong các đám cưới, đám giỗ chạp… Mỗi khi lễ hội mùa Xuân, các làn điệu Quan họ với những câu hát trữ tình làm say đắm lòng người Quan họ và khách thập phương ngân lên trong không gian văn hoá Quan họ.

Lời ca, làn điệu Quan họ nối liền quá trình phát triển của đời sống xã hội nhằm nâng cao và tôn vinh các mối quan hệ cộng đồng và giao lưu văn hoá. Vì lẽ đó, sinh hoạt Quan họ thường gắn với sinh hoạt hội hè, ca hát, giao lưu; gắn với đời sống tình cảm, trí não của người lao động biết hướng tới nét đẹp. Dân ca Quan họ có nhiều nét mới lạ và được chia thành hai loại:

Quan họ truyền thống, vùng Kinh Bắc (gồm cả Bắc Ninh và Bắc Giang), có toàn bộ 49 làng duy trì được lối chơi văn hoá Quan họ truyền thống (44 làng ở Bắc Ninh, 5 làng ở Bắc Giang), với hàng ngàn bài hát cổ mộc mạc, dân giã mang nét đẹp riêng vừa thiêng liêng, vừa thượng cổ mà rất Việt Nam. Kho băng thu âm Quan họ cổ do các nghệ nhân ở các làng Quan họ hát hiện vẫn được lưu tại Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh. Quan họ truyền thống đa phần hát đôi hoặc hát tập thể giữa liền anh và liền chị vào dịp hội Xuân ở các làng quê, không có khán giả, người trình diễn đồng thời là người thưởng thức.

Quan họ mới, còn được gọi là hát Quan họ, là hình thức trình diễn (hát) Quan họ đa phần trên sân khấu hoặc trong sinh hoạt cộng đồng như Tết, đầu Xuân, lễ hội, du lịch… Từ sau khoảng thời gian miền Bắc hoàn toàn giải phóng (năm 1954), các làn điệu Quan họ được khai thác, đặt thành lời mới thành ca cảnh trên sân khấu hoặc phát trên sóng phát thanh, truyền hình. Trên thực tiễn Quan họ mới được trình diễn vào bất kỳ ngày nào trong năm và khi hát luôn có khán, thính giả, người hát không chỉ trao đổi tình cảm với nhau mà còn trao đổi tình cảm với khán, thính giả. Phạm vi phổ cập của Quan họ mới không chỉ ở làng xã mà vươn đến khán, thính giả ở khắp cả trong và ngoài nước.

Nét đặc trưng của hát Quan họ chính là hát đối đáp giữa một bên là liền anh và một bên là liền chị trong không gian văn hoá Quan họ. Hình thức hát Quan họ cũng rất phong phú. Cần nhất định, hát Quan họ là nét đẹp mới lạ trong sinh hoạt văn hoá cộng đồng của người Kinh Bắc, không những trổ tài mối quan hệ ứng xử trong một cộng đồng làng xóm, mà đang là phương thức tương giao giữa các xã với nhau trên nền tảng lấy chữ “Lễ” làm trọng tâm, lấy chữ “Nghĩa” làm động lực trong mọi mối quan hệ giữa loài người với nhau.

Người chơi Quan họ luôn trổ tài sự lịch lãm, nền nã, duyên dáng trong cách ăn mặc, lời nói, dáng đi. Khi hát Quan họ, nam thường mặc áo dài vải the năm thân, khăn xếp, che ô đen; nữ mặc áo mớ ba mớ bảy, cầm nón quai thao che nửa mặt, vừa ý tứ, vừa để tiếng động khi hát trở nên ấm hơn, vang hơn. Vừa hát người Quan họ vừa mời nhau và mời khách những miếng trầu têm cánh phượng, thấm đượm giá trị nhân văn.

Việc giữ gìn, bảo tồn văn hoá Quan họ đã được các đơn vị hữu quan quan tâm bằng những việc làm thiết thực, rõ ràng. Việc tổ chức Hội Lim-ngày hội lớn nhất hằng năm của làng Quan họ diễn ra từ ngày 13 đến 15 tháng Giêng (âm lịch) là một hoạt động thường xuyên nhằm tôn vinh loại hình dân ca mới lạ này. Đến hẹn lại lên, các liền anh, liền chị đại diện cho 49 làng Quan họ cùng khách tham quan bốn phương-những người yêu Quan họ lại quy tụ về đây thưởng ngoạn thi tài và thưởng thức văn hoá Quan họ.

Những năm gần đây, việc đẩy mạnh các hình thức tuyên truyền, giới thiệu, truyền bá về những giá trị rực rỡ của Dân ca Quan họ dưới nhiều hình thức đang được lưu tâm, cùng với này là coi trọng vai trò truyền dạy của các nghệ nhân, quan tâm nhu cầu sinh hoạt văn hoá Quan họ trong cộng đồng, thừa nhận và tôn vinh các nghệ nhân Dân ca Quan họ Bắc Ninh nhằm khuyến khích, khích lệ các nghệ nhân làm tốt vai trò lưu giữ và truyền dạy Dân ca Quan họ trong cộng đồng.

Đồng thời nâng cao chất lượng, quy mô các sinh hoạt văn hoá Quan họ như tổ chức lễ hội, liên hoan văn nghệ, hội diễn hát Quan họ từ nền tảng đến tỉnh; tìm hiểu, biên soạn và phát hành các ấn phẩm về những giá trị rực rỡ của Dân ca Quan họ đến công chúng. Đồng thời nâng cao chất lượng hoạt động của Đoàn Dân ca Quan họ làm nòng cốt trong các hoạt động thể nghiệm, trình diễn, giới thiệu Dân ca Quan họ… Đó chính là biện pháp để chung tay bảo tồn, phát huy giá trị của di sản văn hoá thế giới-Dân ca Quan họ Bắc Ninh.

Gợi ý cho bạn 🌼 Thuyết Minh Về Một Danh Lam Thắng Cảnh Ngắn Gọn 🌼 15 Mẫu Hay Nhất

Văn Thuyết Minh Về Dân Ca Quan Họ Bắc Ninh Chọn Lọc – Mẫu 7

Bài văn thuyết minh về dân ca quan họ Bắc Ninh chọn lọc sẽ mang độc giả tìm hiểu rõ ràng về một giá trị văn hoá mang đậm bản sắc dân tộc.

Quan họ Bắc Ninh là một hiện tượng văn hóa dân gian sống động tồn tại ngay trong cuộc sống của người dân Kinh Bắc, nó phục vụ cho chính đời sống trí não và tâm linh của họ mỗi ngày, hàng tiếng đồng hồ, góp phần vào sự phát triển của mỗi cá nhân và cộng đồng. Này là một loại hình dân ca dân gian đặc trưng của vùng Kinh Bắc, có từ lâu đời. Quan họ có nguồn gốc sâu xa từ sinh hoạt giao duyên, hát đối đáp nam nữ từ thủa xa xưa mà hầu như các dân tộc anh em với người Việt đều có. Nó tồn tại thường nhật nhưng tập trung nhất và thăng hoa trong sinh hoạt lễ hội của nhân dân.

Di sản văn hóa Quan họ tồn tại và lan tỏa ở cả một vùng rộng lớn. Tuy nhiên, sinh hoạt văn hóa Quan họ thực chất chỉ tồn tại ở một địa vực nhất định, này là 49 làng Quan họ gốc, trong đó tại Bắc Ninh có 44 làng. Các làng Quan họ ở Bắc Ninh phân bố ở huyện Tiên Du (11 làng), huyện Yên Phong (17 làng), huyện Từ Sơn (2 làng), tp Bắc Ninh (14 làng). Không gian văn hóa Quan họ tập trung trong khoảng 250km2 , tập trung và xoay quanh tp Bắc Ninh .

Những làng Quan họ đa phần phân bố xung quanh các dòng sông: sông Cầu, sông Ngũ Huyện Khê, sông Tiêu Tương. Những dòng sông này uốn lượn quanh chân đồi, chảy len lỏi giữa những cánh đồng phẳng phiu góp phần làm cho cuộc sống nông nghiệp của người dân Bắc Ninh được thuận tiện hơn, họ có thời gian thảnh thơi trong những lúc nông nhàn.

Các làng Quan họ Bắc Ninh còn đồng thời là những làng nghề hoặc nằm ở vị trí gần sát các làng nghề khác.Bên cạnh việc tạo dựng những làng nghề, các làng buôn cũng dần xuất hiện và phát triển. Này là điều kiện cho việc giao lưu buôn bán giữa các vùng quê được mở rộng và sôi động. Những chợ quê trở thành trung tâm giao lưu kinh tế, đó cũng là môi trường tạo điều kiện giao lưu văn hóa, trong đó có văn hóa Quan họ. Như vậy, có thể nói văn hóa Quan họ là sản phẩm của một vùng kinh tế phát triển.

Một nét đặc biệt trong dân ca Quan họ là mặc dù câu ca rất giàu chất thơ và chất nhạc khi ca lên, nhưng người ta không thấy việc sử dụng nhạc cụ đệm. Cái chính trong sinh hoạt của hát Quan họ đa phần là để trao đổi tâm tình với nhau nên nó không nhất thiết phải có phần đệm hay nhạc cụ đệm. Việc sử dụng nhiều từ đệm, từ láy chính là cách nâng cấp tính nhạc cho câu hát. Ngoài ra, ca từ Quan họ cũng được trổ tài dưới hình thức thơ lục bát biến thể, song thất lục bát, bốn từ năm từ (theo dạng vè), bảy từ tám từ, hát nói, ca dao. Và ca dao luôn giữ vai trò chủ đạo trong ca từ Quan họ.

Quan họ là sản phẩm sáng tạo của chính những người dân địa phương, những người lao động. Vì vậy, lời ca Quan họ phản ánh cuộc sống, trí não, tình cảm của người dân. Nó chính là thể loại mang đặc trưng của một loại hình văn nghệ dân gian. Tuy nhiên, thể loại này đã khởi đầu tiến tới chuyên môn hóa trong sáng tạo và sinh hoạt văn nghệ. Điều này trổ tài không chỉ ở kỹ thuật hát Quan họ mà đang là ở sự phân công sáng tác. Mặt khác, văn hóa ứng xử của người Quan họ cũng có những nét rất riêng, này là cách nói ý nhị, mộc mạc, chân tình nhưng rất “bác học” trổ tài qua cách ví von, dùng từ ngữ bóng bẩy để diễn tả tâm tư tình cảm của mình.

Như vậy, xét về mặt văn nghệ trong câu hát Quan họ, ta thấy nó “không thuần túy là nghệ thuật dân gian, cũng không hoàn toàn là nghệ thuật bác học mà là vạch nối giữa nghệ thuật dân gian và nghệ thuật bác học.

Ngày 30/9/2009, tại Kỳ họp lần thứ 4 của Ủy ban liên chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (từ ngày 28/9 tới ngày 2/10/2009), Quan họ đã được công nhận là “Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại”, sau “Âm nhạc cung đình Việt Nam – Nhã nhạc”, “Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên” và cùng đợt với Ca trù. Việc được tổ chức UNESCO thừa nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại càng minh chứng những giá trị văn hóa trọng yếu của Quan họ.

Giới thiệu tuyển tập 💧 Thuyết Minh Về Bắc Kạn 💧 14 Bài Giới Thiệu Bắc Kạn Hay

Thuyết Minh Về Dân Ca Quan Họ Bắc Ninh Học Sinh Giỏi – Mẫu 8

Bài văn thuyết minh về dân ca quan họ Bắc Ninh học viên giỏi sẽ giúp các em học viên nắm vững phương pháp làm bài và đạt điểm cao cho nội dung của mình.

Dân ca Quan họ là loại hình văn hóa phi vật thể. Theo các nhà tìm hiểu văn hóa, Quan họ có từ thế kỷ 17, bắt nguồn từ tục kết chạ giữa các làng xóm. Về mặt sáng tạo văn nghệ dân ca Quan họ được xem như là đỉnh cao của văn nghệ thi ca. Bắc Ninh có 44 làng Quan họ gốc, đến nay còn gần 30 làng duy trì được lối chơi văn hóa Quan họ. Quan họ là một làn điệu, một loại hình dân ca rực rỡ, một lối hát giao duyên nổi tiếng của vùng đồng bằng Bắc Bộ – Việt Nam mà tập trung đa phần ở vùng Bắc Ninh – Kinh Bắc.

Tên gọi “quan họ” đã có từ rất xa xưa, không ai biết chuẩn xác vì sao lại có tên gọi này. Có rất nhiều giả thuyết lý giải nhưng cho đến nay chưa có giả thuyết nào có đủ tính thuyết phục.Có giả thuyết cho rằng “quan họ” là thể loại âm nhạc của “họ nhà quan” nên được gọi là “quan họ” (khác với các thể loại dân ca khác, quan họ không được sinh ra từ tầng lớp nhân dân lao động, mà được sinh ra từ tầng lớp trung lưu nông thôn). Cũng có truyền thuyết cho rằng, có một ông quan cưỡi ngựa đi qua làng Diềm Xá (xã Hòa Long, huyện Yên Phong), gặp một cô gái đang hát điệu dân ca. Ông quan dừng ngựa lại (họ) để nghe, mê tiếng hát và đặt tên là làn điệu quan họ.

Nội dung chính trong buổi hát Quan họ thường là khi hai bên nam – bọn Quan họ nam và nữ – bọn Quan họ nữ hát đối nhau. Đứng đầu mỗi bọn Quan họ là liền anh, bên nữ gọi là liền chị. Các câu hát có thể được chuẩn bị sẵn, nhưng ra đến khi đối đáp nhau thì thường dựa trên khả năng ứng biến của hai bên. Từ mồng 4 Tết âm lịch, trong gần ba tháng mùa xuân đầu năm, hội làng ở các làng Quan họ và các làng kế cận liên tiếp diễn ra. Suốt tháng 8 âm lịch lại là các hội lệ vào đám của các làng. Do đó mùa xuân và mùa thu là mùa hội cũng là mùa ca hát Quan họ rộn rịp, tưng bừng làng trên, thôn dưới.

Trong hát quan họ trai thường mặc trang phục áo lụa, áo the, quần sớ, khăn xếp; nữ thì mặc mớ bảy mớ ba, áo tứ thân nhiều điều, nhiều tía, yếm xẻ con nhạn, thắt lưng hoa đào, hoa lý, đeo khuyên vàng xà tích. Khi hát ngoài trời thì nam thường che ô còn nữ che nón thúng quai thao để tăng thêm vẻ lịch sự, duyên dáng.

Quan họ rất phong phú về làn điệu: la rằng, đường bạn kim loan, cây gạo, giã bạn, hừ la, la hới, tình tang, cái ả, lên núi, xuồng song, cái hồ, gió mát trăng thanh, tứ quý,… Một cuộc hát quan họ hay một canh hát khi nào cũng có ba chặng. Chặng mở màn thuộc về giọng lề lối, hát chừng mười bài giọng lề lối họ chuyển sang giọng sổng để vào chặng giữa, các bài ở chặng giữa là ở giọng vặt, chặng cuối là giọng giã bạn.

Giọng lề lối là giọng hát mở màn, được diễn xướng với vận tốc chậm, nhiều luyến láy, nhiều tiếng đệm. Đôi lúc nhịp phách lập lờ, âm điệu thường ở âm khu thấp tầm cữ hẹp, ví dụ như các bài: Hừ la, Cây gạo, Tình tang, Cái ới cái ả… Giọng sổng là giọng chuyển tiếp từ giọng lề lối sang giọng vặt. Ngoài tính năng nối giữa hai phần nó đang là tiêu đề cho sự phát triển khá mới lạ của hát quan họ. Giọng sổng với tính chất ung dung mực thước nên có tác động tới những nhạc điệu tiếp theo ở giọng vặt.

Giọng vặt là các giọng thuộc phần chính của buổi ca hát. Có thể nói tính chất văn nghệ của quan họ được trổ tài rõ ở giọng này. Âm nhạc ngắn gọn, bố cục chặt chẽ, tiết tấu linh hoạt chứ không đơn giản như giọng lề lối. Nội dung lời ca khá phong phú, số lượng bài bản tương đối nhiều. Ví dụ như các bài: Trống cơm, Qua cầu gió cất cánh, Tương phùng – tương ngộ, Ngồi tựa mạn thuyền, 36 thứ chim…

Giọng giã bạn là giọng hát trước lúc chia tay. Số lượng bài bản ở giọng giã bạn không nhiều nhưng chất lượng văn nghệ của các bài ở giọng này khá cao. Đề tài chính của giọng này là tiễn biệt. Vì vậy nhạc điệu thường buồn, nhưng rất mặn nồng đắm say như tình cảm nhớ thương của các liền anh liền chị quan họ. Ví dụ như các bài: Người ở đừng về, Chuông vàng gác cửa tam quan, Kẻ bắc người nam, Chia rẽ đôi nơi, Con nhện giăng mùng…

Khi nghe hát quan họ, tất cả chúng ta thường có cảm nhận đặc biệt về loại hát dân ca này bởi tính chất âm nhạc trữ tình mượt mà đằm thắm. Họ mượn câu hát để giãi bày tình yêu nhưng rất ý nhị, lời ca đầy chất thơ. Lối hát quan họ giàu tính kỹ thuật như: hát ngắt, lảy hạt (hay hay còn gọi là nhả hột), rung giọng, ngân nga, nhiều luyến láy. Ngoài ý thơ chính, lời ca của bài hát quan họ còn tồn tại nhiều từ phụ, tiếng đệm… tăng thêm vẻ ngọt ngào làm say đắm lòng người.

Quan họ nam mời trầu quan họ nữ. Sau đó họ hát với nhau những lời ướm hỏi, nếu ý hợp tâm đầu họ sẽ hẹn hò nhau ở làng bên nữ để tổ chức lễ kết nghĩa. Nơi tổ chức kết nghĩa có thể ở đình hoặc ở nhà bố mẹ chị Cả, chị Hai và do cụ Đám (hay còn gọi là ông trùm hoặc bà trùm) đứng ra quản lý sự. Lễ kết nghĩa được khởi đầu bằng những lời thăm hỏi tận tình hoặc những lời thề thốt. Sau đó, họ lại có buổi gặp nhau ở bên nam. Tại đây họ có thể hát thâu đêm suốt sáng để thổ lộ với nhau về tình cảm.

Căn cứ vào sự đồng nhất về cữ giọng, âm sắc, họ xếp thành từng cặp: Anh Cả – Chị Cả, anh Hai- chị Hai, anh Ba – chị Ba, anh Tư – chị Tư… Lời ca trong quan họ đa phần nói về tình yêu nam nữ, sự gắn bó thủy chung. Nhưng trên thực tiễn họ không hề nghĩ đến chuyện yêu nhau mà chỉ quan hệ trên nền tảng đồng đẳng tôn trọng lẫn nhau. Họ gọi nhau bằng anh, chị và xưng em hoặc tôi. Thời gian kết nghĩa của người quan họ có thể từ đời này sang đời khác hay có khi chỉ một vài năm.

Vị trí ca hát quan họ thường là ở sân nhà, trước cửa đình, cửa chùa, dưới gốc đa, bên sườn đồi, trên thuyền, bến nước… Hàng năm, mỗi khi đình đám hội hè, làng có hội phải cử đôi quan họ đến các làng quan họ kết chạ để mời. Đúng hẹn, các Liền anh Liền chị được mời đến đông đủ.

Ngay từ cổng làng, cổng đình chùa, quan họ chủ nhà đã ra đón khách: Tay bê cơi trầu miệng hát mời đón khách bằng những lời ca nghe ngọt ngào, tế nhị. Sau đó, quan họ chủ nhà mời quan họ bạn đi lễ Phật, lễ thánh, hát hội. Và ngày xưa hát hội là để giao lưu văn hoá giữa các bọn quan họ nam và nữ, chứ không thi hát lấy giải. Vui chơi hát hội đến sẩm tối, quan họ chủ nhà mời quan họ bạn về nhà ông (bà) Trùm để hát canh vào mỗi canh quan họ thường thâu đêm đến sáng.

Vào canh quan họ, các Liền anh Liền chị ngồi trên tràng kỷ hoặc phản thành bọn nam riêng và bọn nữ riêng để hát đối đáp và khi nào cũng phải hát bằng hệ thống giọng lề lối như Hừ La, La Rằng…, sau đó chuyển sang giọng Sổng, giọng Bỉ, giọng Vặt và cuối cùng là giọng Giã Bạn. Khi nào, giữa canh quan họ, quan họ chủ nhà cũng mời cơm quan họ. Gọi là cơm quan họ, nhưng thực ra là cỗ ba tầng có đầy đủ các món ăn đặc sản nổi tiếng của địa phương như giò, chả, nem, bóng, nấm… và bánh trái hoa quả.

Trong lúc ăn uống, quan họ luôn mời mọc nhau bằng những lời ca, tiếng hát nghe ngọt ngào, tế nhị. Ăn uống xong, các bọn quan họ nghỉ ngơi chốc lát, sau này lại hát tiếp đó khi nghe thấy tiếng chuông chùa thỉnh mới tàn canh quan họ và chia tay nhau để ra về. Quan họ chủ nhà tiễn bạn ra tận đầu làng và còn lưu luyến nhau bằng đôi câu quan họ để đến hẹn lại lên.

Phương thức sáng tác một bài bản Quan họ mới được người Quan họ tổng quan trong một câu nói: “Ðặt câu, bẻ giọng”. Ðặt câu là sáng tác lời ca, thường là thơ, bẻ giọng là phổ nhạc cho lời ca ấy. Như vậy việc sáng tác lời thơ làm lời ca thường niên trước, sau này là phổ phổ nhạc cho lời ca. Phương thức sáng tác này cho phép được lấy một đoạn thơ, một bài thơ, một đoạn ca dao có sẵn trong vốn thơ ca dân gian, dân tộc để phổ nhạc, hoặc, cũng có thể có người chỉ giỏi “đặt câu” để rồi người khác “bẻ giọng”, hoặc cũng có thể một người làm cả việc “đặt câu” và “bẻ giọng”.

Ai cũng nghĩ tiếng hát Quan họ là tiếng hát cầu duyên, cầu phúc, cầu lộc, cầu tài, cầu may và có thể là cái điểm kết nối với đất trời, thần, phật để thỉnh cầu: cầu mưa, giải hạn, tiêu trùng… Chính tâm lý này đã tạo thành những thói quen, phong tục đẹp của làng xã, gia đình so với những người ca hát Quan họ, so với hoạt động ca Quan họ, do đó, góp phần trọng yếu vào việc giữ gìn, phát triển Quan họ kiên cố, lâu dài. Quan họ Bắc Ninh vốn là một đặc sản nổi tiếng của người dân Kinh Bắc. Đời sống của người dân nơi đây nối liền với những làn điệu quan họ. Nói đến quan họ là nói đến Bắc Ninh, cũng như nói về nơi khởi đầu của quan họ thì người ta nói đến Bắc Ninh.

Quan họ không chỉ là lời ca, câu hát mà quan họ đang là máu thịt của người dân Bắc Ninh. Từ khi sinh ra và lớn lên, mỗi người dân nơi đây ít nhiều cũng biết hát quan họ. Ở đây việc truyền lại cho thế hệ tiếp theo những hệ thống bài bản là trách nhiệm của những người quan họ lớp trước. Khi lớp quan họ đàn em đã có một số vốn liếng bài bản tương đối thì việc trước hết là họ tìm người để kết giao (mỗi nhóm khoảng từ 5 đến 6 người).

Ngày nay quan họ dần dần thay đổi. Quan họ mới” và quan họ “truyền thống” khác nhau dấu hiệu ở nhiều khía cạnh. Khung cảnh không những tập trung vào lễ hội xuân thu nhị kì mà còn hoạt động trên sân khấu và chỉ có riêng tiếng hát. Trong hát quan họ ngày xưa không có khán giả, người trình diễn đồng thời là người người thưởng thức, nhất là thưởng thức “cái tình” của các bạn hát. Quan họ mới luôn có khán thính giả, người hát trao đổi tình cảm với khán thính giả không đang là tình cảm giữa bạn hát với nhau.

Quan họ truyền thống chỉ có ở các làng quan họ, quan họ mới được trình diễn trong cả tỉnh, cả nước và đến với toàn bộ các châu lục trên toàn cầu. Quan họ truyền thống đa phần sinh hoạt trong ngày hội, quan họ mới được trình diễn vào bất kỳ ngày nào trong năm. Quan họ truyền thống không có nhạc đệm và đa phần hát đôi, đôi nam ca đối đáp với đôi nữ (hát hội, hát canh) và hát cả bọn, cả bọn nam ca đối đáp cùng cả bọn nữ (Hát chúc, mừng, hát thờ).

Quan họ mới hình thức trình diễn phong phú hơn, bao gồm cả hát đơn, hát đôi, hát tốp, hát có múa phụ họa… Khi đệm nhạc để hát, ít nhiều là một sự cải biên. Đại đa số các bài bản được gọi là quan họ mới là ở mức độ cải biên này. Cải biên có ý thức là những bài bản đã cải biên cả nhạc và lời của bài bản quan họ truyền thống.

Về mặt mục đích hoạt động là khác nhau cơ bản nhất giữa quan họ truyền thống và quan họ mới, cũng là nhất định quy luật phát triển tất yếu của quan họ. Mục đích chính của quan họ trong các làng xã quan họ hiện tại là để bảo tồn quan họ. Mục đích này đã và đang từng bước hoàn thiện. Tuy vẫn còn nhiều điều phải điều chỉnh tiếp, nhưng không ai có hiểu biết thực tiễn có thể nói rằng “không gian và những sinh hoạt theo lề lối cổ của quan họkhông còn nữa”. Quan họ mới có nhiệm vụ tuyên truyền, giới thiệu, truyền bá QH trên diện rộng, giúp đông đảo nhân dân trong cả nước và quốc tế nghe đến quan họ. Về cơ bản vẫn là nhạc điệu âm nhạc

Cũng như nhiều nước trên toàn cầu, âm nhạc dân gian Việt Nam là nguồn cội để nền âm nhạc Việt Nam phát triển. Quan họ Bắc Ninh là một sinh hoạt văn hóa văn nghệ rực rỡ của văn hóa dân gian Việt Nam. Cùng với thời gian, quan họ Bắc Ninh không còn chỉ bó gọn là “quan họ làng” mà đã lan tỏa tới khắp mọi miền của tổ quốc, thậm chí còn cất cánh qua biên giới tới bè bạn năm châu. Việc giới thiệu truyền bá cho dân ca quan họ là rất nên làm, bởi tất cả chúng ta đã biết và có ý thức tới việc bảo tồn lưu giữ vốn cổ của dân tộc. Tất cả chúng ta cũng từng biết dùng vốn cổ đó để làm niềm tự hào cho văn nghệ nước nhà.

Trước kia, các liền anh liền chị quan họ chỉ được hát trong sinh hoạt của “quan họ làng”, còn nay, tiếng hát của họ đã được phát trên làn sóng đài phát thanh, trên làn sóng truyền hình – trên các phương tiện thông tin đại chúng. Quan họ không chỉ là các cuộc thi hát giữa các làng với nhau mà đã trở thành những cuộc thi hát dân ca tiêu biểu của đất Bắc, trở thành những làn điệu thân thuộc của người Việt Nam. Tuy vậy, tất cả chúng ta cũng nên mạnh dạn nhìn nhận lại một số vấn đề về việc bảo tồn và phát huy giá trị của dân ca quan họ.

Tìm hiểu hướng dẫn 🔥 Kiếm Thẻ Cào Miễn Phí 🔥 Kiếm Tiền Online Kiếm Thẻ Cào

Bài Văn Thuyết Minh Về Dân Ca Quan Họ Bắc Ninh Sinh Động – Mẫu 9

Để viết bài văn thuyết minh về dân ca quan họ Bắc Ninh sinh động, các em học viên có thể vận dụng phối hợp nhiều phương thức diễn tả để xây dựng những ý văn giàu hình ảnh.

Em đi khắp bốn phương trời
Không đâu thanh lịch bằng người ở đây

Chỉ hai câu thơ thôi đã gói gọn những lời hay ý đẹp về người quê Quan họ rồi. Không biết câu ca ấy là sự nhận xét tinh tế của người tỉnh khác về loài người xứ Bắc Ninh – Kinh Bắc hay của chính người dân xứ sở Quan họ này tự hào về quê hương yêu dấu của mình.

“Trong sáu tỉnh người đà chưa tỏ
Ngoại năm thành chỉ có Bắc Ninh
Yêu nhau trở lại xuân tình
Nghề chơi Quan họ có tinh mới tường”
(Dười giờ mấy kẻ biết ra)

Trong các loại hình dân ca tiêu biểu, có thể nói dân ca Quan họ Bắc Ninh được nhìn nhận là loại hình dân ca rực rỡ và được nhiều người yêu thích nhất. Điều đó được nhất định không chỉ bởi những làn điệu ngọt ngào, đằm thắm; những ca từ mộc mạc nhưng rất tinh túy mà còn bởi nghề chơi Quan họ mới lạ, đầy sức hấp dẫn. Xưa kia, người Quan họ không gọi là hát Quan họ mà gọi là chơi Quan họ, một thú chơi dân dã, thanh nhã, nhưng có sức quyến rũ mãnh liệt người chơi và người được thưởng thức. Vào canh hát, người Quan họ như tỉnh như say, canh hát càng về khuya càng trầm, càng bổng, càng mặn nồng thiết tha.

Từ khi còn trong nôi, lời ru của bà, của mẹ đẫm chất Quan họ đã thấm sâu vào hồn tôi để rồi mỗi ngày lớn lên, cái chất dân ca đằm say ấy nó lại càng ngấm vào từng mạch máu, hơi thở của tôi. Càng đi sâu vào những làn điệu, những câu ca Quan họ cổ, tôi càng mường tượng ra một không gian Quan họ xưa kia sao mà bạt ngàn, ngút ngát nhưng cũng thân thiện, mộc mạc làm sao. Chứa đựng trong sự mộc mạc, dung dị của dân ca Quan họ là những nét thanh cao, kiêu sa đến ngưỡng mộ. Có những câu ca rất giản dị, thân thiện mà ăm ắp tình người:

“Dưới giời mấy kẻ biết chơi
Chơi cho lở đất, long giời mới hay
Chơi cho sông cạn lại đầy
Cho thuyền về bến, cho mây gặp rồng
Chơi cho loan phượng trùng phùng
Chơi cho nên nghĩa nên tình đôi ta”.
(Dưới giời mấy kẻ biết chơi)

Có những câu ca lại sâu sắc, chứa đựng những tâm sự đầy vơi nỗi niềm mà người đời xem chừng khó có thể miêu tả:

“Sầu riêng em vẫn âm thầm
Vui này cho bõ đau ngầm ngày xưa
Ai làm gan héo dạ sầu
Em ngồi, em nghĩ càng cay đắng lòng.
Người về tựa chốn loan phòng
Em về thắp ngọn đèn chong canh dài”.
(Trống Rồng)

Những nỗi niềm gửi trao, những hờn ghen, trách cứ trong câu ca được giãi bày hết sức tế nhị mà sâu sa đến thế:

“Anh tư đã có chốn để em chờ đợi luống công
Chữ chung tình đã hẹn từ xưa”.
(Lòng vẫn đợi chờ)

Hoặc:

“Yêu hoa phải giữ lấy màu cho hoa
Xin đừng chê xấu chê xa,
Chê em vụng nói cửa nhà neo đơn.
Trong làng cũng có nơi hơn,
Trái duyên chẳng thuận phải sang quê người”.
(Người ngoan)

Bao nhiêu làn điệu, bao nhiều lời ca cũng chỉ gói gọn trong đề tài tình yêu, nhưng đề tài này nói sao cho vừa, nói sao cho hết; một đề tài vô tận để người quan họ khai thác, thế mới thấy sự tài tình xưa kia của người quê Quan họ khi sáng tạo loại hình dân ca quý báu này.

Lối chơi thanh nhã, phóng khoáng mà lại khiêm nhường của người Quan họ càng làm nổi trội cốt cách của mình. Người Quan họ có nét sinh hoạt văn hóa đặc trưng mà không nơi nào có được. Giữa bộn bề công việc thường nhật của mình, họ đã tạo ra một không gian tách biệt, một thú chơi lôi cuốn mọi tầng lớp trong xã hội xa xưa ở xứ sở này đều muốn vào cuộc chơi một cách tự nguyện và hết sức say sưa.

Sau những giờ lao động vất vả, họ lại tụ họp cùng nhau để ca hát, đặt lời, bẻ giọng những câu ca mới. Họ ca với nhau những canh Quan họ thâu đêm, rạng ngày; cho tàn canh mãn võ để vui dân, vui xóm, vui bầu, vui bạn. Và rồi lúc chia tay họ cứ mãi dùng dằng, tằng tịu mà chẳng nỡ dứt dây sao cho đành.

Ngoài những lúc thư nhàn cùng nhau sinh hoạt văn hóa Quan họ, họ lại thân thiện, khuyến khích, tương trợ, trợ giúp lẫn nhau trong cuộc sống khó khăn mỗi ngày của mình. Điều vô cùng quan trọng là họ thực hiện hết sức nghiêm cẩn những gì đã đề ra trong lối chơi Quan họ khi đã thành quy tắc. Người Quan họ luôn thận trọng trong trang phục, giao tiếp và mọi hành vi ứng xử của mình. Toàn bộ những gì mà quê hương Quan họ đã khởi nguồn và gìn giữ cho đến ngày nay thật xứng với thành tựu mà họ đã gặt hái được.

Cũng chính vì vậy mà vào ngày 30 tháng 9 năm 2009, dân ca Quan họ Bắc Ninh chính thức được tổ chức Unessco thừa nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Sau thời điểm này, dân ca Quan họ Bắc Ninh có thể nói đã đoạt đến đỉnh cao về nhu cầu của cộng đồng người nghe cũng như những người muốn tự mình ca lên được những làn điệu dân ca quan họ. Khắp trong và ngoài tỉnh rộ lên trào lưu ca hát Quan họ. Nhiều nơi thành lập những câu lạc bộ Quan họ và có nhu cầu học hỏi về loại hình dân ca này.

Thật tự hào về nét văn hóa rực rỡ của quê hương và một niềm tin trong tôi cũng như người dân nơi đây chắc cú sẽ không khi nào phai: Dân ca Quan họ Bắc Ninh sẽ mãi mãi trường tồn và lan tỏa.

Đọc nhiều hơn dành riêng cho bạn ☀️ Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử ☀️ 17 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Thuyết Minh Về Dân Ca Quan Họ Bắc Ninh Chi Tiết Nhất – Mẫu 10

Bài văn thuyết minh về dân ca quan họ Bắc Ninh cụ thể nhất sẽ phân phối cho độc giả những tri thức nâng cao về loại hình văn nghệ dân gian mới lạ này.

Miền quê Kinh Bắc xưa, nay là Bắc Giang – Bắc Ninh được ngăn chia bởi dòng sông Cầu (sông Như Nguyệt), trong đó bờ Nam thuộc tỉnh Bắc Ninh còn bên này là Bắc Giang. Dân cư hai bên sông cũng nổi tiếng với những làn điệu dân ca quan họ êm đềm, mượt mà, những làng quan họ cổ “có lề lối” với “khuôn vàng thước ngọc”.

Ai đã tới quê tôi miền Bắc sông Cầu vào mỗi độ Giêng Hai, được đắm mình trong không gian của lễ hội, chắc hẳn sẽ không thể nào quên hình ảnh thấp thoáng bên từng cổng làng, con ngõ nhỏ là những tà áo tứ thân, nón quai thao thướt tha, hoặc bắt gặp một ánh nhìn lúng liếng trao gửi tình tứ, e thẹn của những anh hai, chị hai quê tôi giữa độ xuân thì. Những câu hát thực sự đã làm rung động trái tim bao người:“Làng quan họ quê tôi, tháng Giêng mùa hát hội/Những đêm trăng hát gọi, con sông Cầu làng bao xanh”.

Có đi sâu vào tận cùng những mạch nguồn văn hóa mới hiểu hết cái hay, nét đẹp và sâu lắng của người quan họ. Bởi bao đời nay, người dân đôi dòng sông Cầu vẫn tư tưởng, đã chơi quan họ thì phải “tinh mới tường”, tức là phải hiểu, phải chơi có lề có lối, thanh cao và phải hát bằng cả trái tim, giữ gìn được bản sắc truyền thống. Cũng do đó, người quan họ mới có câu: Xưa kia nam nữ trẻ già/Ai mà ca được ắt là hiển vinh/Ngẫm xem các giọng cho tinh/Ai mà ca được hiển vinh muôn đời.

Ở mạn Bắc sông Cầu, có những nghệ nhân cao tuổi vẫn say mê câu hát, họ là những “báu vật sống” đang tự nguyện truyền dạy vốn văn hóa dân tộc cho thế hệ sau. Như làng Trung Đồng, xã Vân Trung, làng Đình Cả, xã Quảng Minh hay Tam Tầng, xã Quang Châu (Việt Yên)… có câu lạc bộ quan họ toàn những nghệ nhân 70 tuổi trở lên. Các cụ biết hát quan họ từ khi “Răng non trắng tựa như ngà – Đến nay trơ lợi vẫn ca rõ nhời” và vẫn thuộc cả trăm bài quan họ cổ, “biết đủ lối, thuộc đủ câu”.

Thế nhưng trong cái chung vẫn có nét riêng. Quan họ truyền thống không có nhạc đệm, liền anh, liền chị chỉ hát “chay” mà đã trổ tài được tâm sự, nỗi lòng, cái da diết, khôn nguôi, khắc khoải của người quan họ. Ở Bắc sông Cầu cũng có những làng quan họ cổ với sinh hoạt mới lạ đến mức có thể xem là “độc nhất vô nhị”. Như Thổ Hà – nơi duy nhất vẫn giữ được lối hát canh gia truyền, nơi có cảnh hát đón bạn trên sông Cầu mà khắp vùng Kinh Bắc không đâu có được. Nghệ nhân ở làng này vẫn thuộc vanh vách mấy trăm bài đối đáp cổ.

Đứng bên bến đò Thổ Hà, khách tham quan cảm thu được không gian trên bến dưới thuyền mênh mông sóng nước. Cảnh vật, loài người đó khiến nhiều người liên tưởng đến các làn điệu quan họ cổ như Gọi đò, Ngồi tựa mạn thuyền, Giã bạn… ra đời từ chính không gian ấy. Hay làng Trung Đồng có một số bài quan họ cổ mới lạ, không chỉ khác về lời mà còn cả nhịp điệu chậm hơn. Nếu quan họ có bài “Giã bạn” thì ở riêng Trung Đồng có bài “Dặn bạn” hay như một số bài quan họ lạ đã được người xưa tóm gọn bằng thơ chỉ có ở nơi đây:

“Vẳng nghe tiếng hát Trung Đồng
Phượng Hoàng cũng muốn sổ lồng mà ra”…

Nhạc sĩ tài hoa Phó Đức Phương từng viết: “Trên quê hương quan họ, một làn nắng cũng mang điệu dân ca”. Đúng thế, có hòa mình vào những canh hát quan họ ở Kinh Bắc mới cảm nhận, thấm thía mạch nguồn của dòng chảy văn hóa quan họ trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc.

Hàng loạt các làng quan họ thuộc Bắc sông Cầu có tục kết chạ với các làng quan họ thuộc tỉnh Bắc Ninh (Nam sông Cầu): Làng Thổ Hà kết chạ với làng Diềm; làng Trung Đồng kết chạ với Thượng Đồng và Hạ Đồng; làng Nội Ninh kết chạ với làng Hàn, Diềm; làng Mai Vũ kết chạ với Chấp Bút; làng Hữu Nghi kết chạ với Cao Lôi; làng Tiên Lát kết chạ với Bịu Sim… Chính nhờ mối kết chạ này, các nghệ nhân quan họ từ hai phía có sự gắn bó, giao lưu và sáng tạo trong sinh hoạt văn hoá. Dân ca ấy đã từ làng bước ra toàn cầu để trở thành di sản của nhân loại.

Bao đời nay, dân ca quan họ đã và đang được các liền anh, liền chị đôi bờ nuôi dưỡng, chắt lọc gìn giữ và tạo sức lan tỏa mạnh mẽ cho đến ngày hôm nay.

Tham khảo văn mẫu 💕 Thuyết Minh Về Vũng Tàu 💕 16 Bài Giới Thiệu Vũng Tàu Hay

Thuyết Minh Về Dân Ca Quan Họ Bắc Ninh Văn Mẫu Hay – Mẫu 11

Thuyết minh về dân ca quan họ Bắc Ninh văn mẫu hay sẽ là tư liệu tham khảo trợ giúp các em học viên trong quá trình làm bài.

Tp Bắc Ninh ngày nay là trung tâm của vùng Quan họ, nơi tập trung hầu như các làng Quan họ gốc (31 làng trong tổng số 44 làng Quan họ gốc của tỉnh Bắc Ninh), là quê hương của Đức Vua Bà – Thủy tổ Quan họ ở làng Viêm Xá (xã Hòa Long) với câu ca truyền đời của người Quan họ:

Thủy tổ Quan họ làng ta,
Những lời ca xướng, Vua Bà sinh ra.

Vì vậy, Tp Bắc Ninh chính là nơi khởi nguồn của Dân ca Quan họ Bắc Ninh – Di sản văn hóa được UNESCO tôn vinh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Dân ca Quan họ với hơn 300 bài (làn điệu) được sưu tầm đa phần ở nghệ nhân các làng Quan họ Viêm Xá (tức làng Diềm), Thị Cầu, Đào Xá, Bò Sơn, У Na, Thị Chung… thuộc tp Bắc Ninh ngày nay, đã nhất định lớp lớp các thế hệ nghệ nhân của tp, góp phần đa phần trong việc sáng tạo, bảo tồn và truyền dạy cho các thế hệ tiếp nối không chỉ hàng trăm làn điệu Quan họ cổ, mà còn truyền dạy văn nghệ ca hát, hướng dẫn lối chơi Quan họ ở mỗi làng, mỗi bọn Quan họ với những ý tưởng riêng, vừa rực rỡ và mới lạ.

Ngày nay các nhà tìm hiểu Quan họ đã xác nhận văn nghệ ca hát cùng lối chơi Quan họ mang ý tưởng riêng của từng làng Viêm Xá, Thị Cầu, Bò Sơn, У Na, Thị Chung, Châm Khê… không chỉ trổ tài sự phong phú, phong phú của sinh hoạt văn hóa Quan họ, mà đang là lối chơi Quan họ điển hình và rực rỡ của Dân ca Quan họ Bắc Ninh.

Sự kết giao giữa “các bọn” Quan họ, giữa các làng Quan họ gốc của tp Bắc Ninh như Bò Sơn với У Na, Bò Sơn với Khả Lễ, Diềm với Bựu Sim. Khả Lễ với Hòa Đình, Hữu Chấp với Khúc Toại… là những mẫu mực của tình bạn Quan họ: vừa thủy chung vừa gắn kết, vừa rộng mở hòa đồng “tứ hải giao tình, bốn biển một nhà”, “tình chung một khắc, nghĩa dài trăm năm”.

Qua trường kỳ lịch sử với biết bao thăng trầm, đến nay, mối liên kết Quan họ của nhiều làng Quan họ, nhiều bọn Quan họ vẫn được duy trì, điển hình như Bò Sơn – У Na, Đọ Xá – Phúc Sơn, Diềm – Bựu Sim, Đào Xá – Thị Cầu… Quan họ thường nối liền với lễ hội và là một đặc trưng trọng yếu của sinh hoạt văn hóa Quan họ. Lễ hội Quan họ ở tp Bắc Ninh không chỉ phong phú, mà còn rực rỡ tạo thành sức mê hoặc đặc biệt của sinh hoạt văn hóa Quan họ.

Hầu như làng Quan họ nào của tp cũng có lễ hội, mỗi lễ hội có một sắc thái riêng mới lạ và mê hoặc, và hội nào cũng gắn với sinh hoạt văn hóa Quan họ với các cuộc đón bạn Quan họ kết giao, tổ chức tiếp đón nhau thật thắm tình, lịch lãm, ca hát với nhau thâu đêm suốt sáng, vừa thi tài văn nghệ ca hát đối đáp, vừa phổ diễn nét rực rỡ trong sinh hoạt, phong tục ca hát Quan họ của mỗi làng, mà “trong 6 tỉnh, ngoại năm thành” chỉ có ở Bắc Ninh, như lời người quan họ:

Trong sáu tỉnh người còn chưa tỏ,
Ngoài năm thành chỉ có Bắc Ninh.
Yêu nhau trở lại xuân tình,
Nghề chơi Quan họ có tinh mới tường.

Các lễ hội và sinh hoạt văn hóa Quan họ của các làng Quan họ của tp được diễn ra trong không gian của những công trình tín ngưỡng, tâm linh và văn hóa nổi tiếng như các đền Vua Bà, đền Bà Chúa Kho, đình chùa Bồ Sơn, đình chùa Cổ Mễ, Văn Miếu Bắc Ninh, Thành cổ Bắc Ninh, chùa У Na, chùa Yên Mẫn, chùa Hàm Long, chùa Dạm… Này là những công trình thiết kế cổ vừa có giá trị lịch sử, vừa có giá trị văn hóa văn nghệ tiêu biểu, kết tinh những giá trị của quê hương Bắc Ninh – Kinh Bắc nổi tiếng “địa linh nhân kiệt”.

Các nhà tìm hiểu Quan họ đã nhất định lễ hội cùng các sinh hoạt tín ngưỡng tâm linh diễn ra ở các đình, đền, chùa của các làng Quan họ là môi trường nuôi dưỡng và bảo tồn sinh hoạt văn hóa Quan họ qua trường kỳ lịch sử với biết bao thăng trầm, biến cố của thiên nhiên và xã hội. Từ ngày tỉnh Bắc Ninh được tái lập, đặc biệt từ khi thị xã Bắc Ninh được mở rộng và nâng cấp lên tp, và Dân ca Quan họ Bắc Ninh trở thành Di sản văn hóa nhân loại, được sự quan tâm của cấp ủy và chính quyền tp, sự nghiệp bảo tồn, phát huy Dân ca Quan họ của tp Bắc Ninh đã được những thành tựu trọng yếu.

Sinh hoạt văn hóa Quan họ truyền thống đã được khôi phục và duy trì ở nhiều làng Quan họ gốc tiêu biểu Viêm Xá, Đào Xá, Châm Khê, Bò Sơn… Trào lưu ca hát Quan họ phát triển rộng khắp ở nhiều đơn vị, nhà cung cấp và ở hầu khắp các làng trong tp. Tp Bắc Ninh có 31 nghệ nhân trong tổng số 41 nghệ nhân của toàn tỉnh chiếm số lượng đông nhất. Các cụ nghệ nhân và các anh hai, chị hai ở các làng quan họ đã tích cực truyền dạy cho các lớp thanh thiếu niên và những người yêu thích Quan họ những bài ca, điệu hát cùng lề lối sinh hoạt và lối chơi Quan họ.

Qua đó các Đội văn nghệ, các Câu lạc bộ Quan họ của tp luôn được phát triển, là lực lượng đa phần tham gia và đóng góp thành công vào các sự kiện sinh hoạt văn hóa văn nghệ lớn của tỉnh như: Hội thi hát Quan họ đầu xuân, các cuộc Festival văn hóa và thể thao, các ngày kỷ niệm trọng đại của tỉnh và của tp. Dân ca Quan họ đã đóng vai trò nòng cốt trong việc truyền bá giới thiệu sinh hoạt văn hóa và ca hát Quan họ truyền thống với quý khách hàng trong và ngoài nước mỗi khi có dịp tới thăm miền quê Quan họ Bắc Ninh

Với sự nỗ lực bảo tồn và phát huy giá trị Dân ca Quan họ, phục dựng các nghi lễ truyền thống và không gian văn hóa Quan họ, tổ chức truyền dạy và mang chương trình dạy hát Dân ca Quan họ vào các trường phổ thông; tổ chức chức chương trình giao lưu “Canh hát Quan họ đêm Rằm”, xây dựng các nhà chứa Quan họ… Với những tiềm năng và những thành tựu đã đoạt được, tp Bắc Ninh thực sự giữ vai trò quyết định trong sự nghiệp bảo tồn và phát huy Dân ca Quan họ – Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại được UNESCO thừa nhận năm 2009.

SCR.VN tặng bạn 💧 Nhận Thẻ Cào 50k Miễn Phí 💧 Kiếm Thẻ Cào miễn phí

Thuyết Minh Về Dân Ca Quan Họ Bắc Ninh Ngắn Hay – Mẫu 12

Bài văn thuyết minh về dân ca quan họ Bắc Ninh ngắn hay sẽ giúp các em học viên nhanh chóng ôn tập và chuẩn bị tốt cho bài xác minh trên lớp.

Dân ca Quan họ Bắc Ninh không chỉ là một loại hình văn hóa dân gian xứ Kinh Bắc, mà đã lan tỏa trong và ngoài nước, mang những giá trị văn hóa Việt kết nối cộng đồng. Trở thành một loại hình văn nghệ đạt tới trình độ cao về diễn xướng, lời ca và âm nhạc… tổng hợp, hòa quện với các phong tục, tập quán, tín ngưỡng, lễ hội… đậm chất trữ tình, hào hoa, thanh lịch.

Theo “Kho tàng diễn xướng dân gian Việt Nam” có thể chia hát Quan họ thành những dạng sau: Hát Quan họ ở hội, gọi là hát Hội. Hát Quan họ ở đám, gọi là hát Mừng. Hát Quan họ ở cửa đình, cửa đền, gọi là hát Thờ hát Cầu. Hát Quan họ tận nhà giữa hai nhóm Quan họ trai gái mời nhau, gọi là hát Canh. Trong số đó, hát Hội và hát Canh là hai hình thức nổi trội, có giá trị văn hóa cao.

Nét đẹp nhất của văn hóa Quan họ chính là ở sự tinh tế, ý nhị trong cách ứng xử, trong tâm tư gửi gắm ở mỗi câu ca. Dù là nam hay là nữ, khi cất lời, người quan họ luôn nhún nhường bằng những câu thưa gửi: “Thưa chị hai, chị ba, biết thì ca trước để anh em chúng em cất bước theo sau”.

Quan họ đẹp từ lời nghênh đón khi khách đến chơi nhà:

“Đốt than quạt nước pha trà mời người xơi
Trà này quý lắm người ơi
Mỗi người xơi mỗi chén cho em vừa lòng”.

Hay:

“Giầu này trong tráp mở ra
Giấu cha giấu mẹ đem ra mời chàng”.

Nói về khoảnh khắc gặp mặt, người quan họ cũng mượn những hình ảnh đẹp:

“Hôm nay sum họp trúc mai
Tình chung một khắc nghĩa dài trăm năm”.

Nói về nghĩa tình, người quan họ bảo:

“Nghĩa người em để trong cơi
Nắp vàng đậy lại để nơi giường nằm”.

Đến khi “Giã bạn”, những câu ca quan họ như níu chân kẻ ở người đi:

“Người về em vẫn khóc thầm
Đôi bên vạt áo ướt đầm như mưa”.

Sự sâu sắc, ý nhị trong lời ca, trong sinh hoạt văn hóa quan họ, tinh tế mà vẫn thân thiện, tình cảm chứ không đài các, cách xa.

Trong những năm qua, Bắc Ninh đã tích cực đẩy mạnh công tác tuyên truyền, truyền bá Quan họ với nhiều hình thức phong phú cả trong và ngoài nước; xây dựng nhiều chương trình như về với Quan họ, hát Quan họ trên thuyền. Canh hát Quan họ đêm rằm đã trở thành hoạt động thường niên, thu hút hàng vạn khán giả theo dõi. Đây là một trung tâm lưu trữ, bảo tồn và khai thác Quan họ, tìm hiểu 34 chuyên mục, ký âm 107 bài Quan họ cổ, xuất bản 9 đầu sách về Dân ca Quan họ; khuyến khích phát triển các làng, câu lạc bộ Quan họ…

Từ chỗ chỉ có 49 làng Quan họ gốc và 34 câu lạc bộ, đến nay Bắc Ninh đã phát triển lên 369 làng Quan họ thực hành, 381 câu lạc bộ với trên 1 vạn hội viên tham gia, hàng nghìn người có khả năng truyền dạy. Đặc biệt, có hơn 140 câu lạc bộ ở các tỉnh và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.

Quan họ Bắc Ninh đã lan tỏa tới mọi miền của Tổ quốc và trở thành một biểu tượng văn hóa mê hoặc, góp phần tích cực trong quá trình hội nhập văn hóa quốc tế, mang một sức sống mới hòa vào dòng chảy thời kì của văn hóa dân tộc Việt Nam.

Giới thiệu cùng bạn 🍀 Thuyết Minh Về Bạc Liêu 🍀 15 Bài Giới Thiệu Bạc Liêu Hay

Thuyết Minh Về Dân Ca Quan Họ Bắc Ninh Luyện Viết – Mẫu 13

Bài văn thuyết minh về dân ca quan họ Bắc Ninh luyện viết không chỉ giúp các em học viên nâng cao tuyệt kỹ miêu tả câu văn mà còn biết thêm những thông tin thú vị.

Quan họ Bắc Ninh là những làn điệu dân ca của vùng đồng bằng Bắc Bộ, tập trung đa phần ở vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh và Bắc Giang). Đây là môn văn nghệ được hợp thành bởi nhiều yếu tố như âm nhạc, lời ca, phục trang, lễ hội với một lối hát giao duyên dân dã, trổ tài mối quan hệ gắn bó tình nghĩa giữa những “liền anh”, “liền chị” hát quan họ và là nét văn hóa tiêu biểu của người dân vùng Kinh Bắc.

Muốn hát quan họ phải có “bọn”: “bọn nam” hoặc “bọn nữ”. Vì vậy trong một làng quan họ thường có nhiều “bọn nam” và “bọn nữ”. Mỗi “bọn” thường có 4, 5, 6 người và được đặt tên theo thứ tự: chị Hai, Ba, Tư, Năm, Sáu hoặc anh Hai, Ba, Tư, Năm, Sáu. Nếu số người đông tới 7, 8 người thì đặt tên là chị Ba, chị Tư (bé) hoặc anh Ba, anh Tư (bé) mà không đặt chị Bảy, Tám hay anh Bảy, Tám. Trong các sinh hoạt quan họ, các thành viên của “bọn” quan họ không gọi nhau bằng tên thật mà gọi theo tên đặt trong “bọn”.

“Bọn hát” phân công người hát dẫn, người hát luồn nhưng giọng của hai người hát cặp với nhau phải tương hợp thành một giọng để tạo ra một tiếng động thống nhất. Dân ca quan họ có 213 giọng khác nhau, với hơn 400 bài ca. Lời một bài ca có hai phần: lời chính và lời phụ. Lời chính là thể thơ và ca dao của Việt Nam, phần lớn là thể lục bát, lục bát biến thể, bốn từ hoặc bốn từ hỗn phù hợp với từ ngữ giàu tính ẩn dụ, trong sáng, mẫu mực. Đây là phần cốt lõi, phản ánh nội dung của bài ca là trổ tài tình yêu lứa đôi. Lời phụ gồm toàn bộ những tiếng nằm ngoài lời ca chính, là tiếng đệm, tiếng mang hơi như ι hi, ư hư, α ha 𝒱.𝒱

Nói đến quan họ Bắc Ninh là nói đến ẩm thực quan họ. Đã là trầu quan họ thì phải là trầu têm cánh phượng hoặc trầu têm cánh quế, chè phải là chè Thái Nguyên. Cơm quan họ dùng mâm đan nghĩa là mâm gỗ tròn sơn đỏ, hay còn gọi là “mâm son”, vừa trang trọng vừa trổ tài tình cảm thắm thiết của chủ nhà so với khách. Các món ăn trong bữa cơm phụ thuộc vào tập quán của từng làng nhưng phải có một đĩa thịt gà, hai đĩa giò lụa, thịt lợn nạc, đặc biệt không dùng thức ăn nhiều mỡ để tránh hỏng giọng.

Ủy ban UNESCO đã thừa nhận quan họ Bắc Ninh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của Nhân loại dựa trên các giá trị văn hóa, giá trị lưu giữ tập quán xã hội, văn nghệ trình diễn, phong thái ứng xử văn hóa, ca từ và trang phục.

Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Thuyết Minh Về Bắc Giang 🌟 15 Bài Giới Thiệu Bắc Giang Hay

Bài Văn Thuyết Minh Về Dân Ca Quan Họ Bắc Ninh Đơn Giản – Mẫu 14

Tham khảo bài văn thuyết minh về dân ca quan họ Bắc Ninh đơn giản những ý văn ngắn gọn giúp các em học viên nắm vững bố cục và những nội dung chính của nội dung.

Quan họ là thể loại dân ca phong phú nhất về mặt nhạc điệu trong kho tàng dân ca Việt Nam và được lưu truyền từ đời này sang đời khác qua phương thức truyền khẩu. Hát quan họ là hình thức hát đối đáp giữa “bọn nam” và “bọn nữ”. Một “bọn nữ” của làng này hát với một “bọn nam” của làng kia với một bài hát cùng nhạc điệu, khác về ca từ và đối giọng. Dân ca quan họ có 213 giọng khác nhau, với hơn 400 bài ca.

Quan họ Bắc Ninh tồn tại trong một môi trường văn hóa với những tập quán xã hội riêng. Trước hết là tập quán “kết chạ” giữa các làng quan họ. Từ tục “kết chạ”, trong các “bọn” quan họ xuất hiện một tập quán xã hội nhất là tục kết giao quan họ. Mỗi “bọn” quan họ của một làng đều kết giao với một “bọn” quan họ ở làng khác theo phép tắc quan họ nam kết giao với quan họ nữ và trái lại. Với các làng đã “kết chạ”, trai gái trong các “bọn” quan họ đã kết giao không được cưới nhau.

Một điểm nổi bật của quan họ Bắc Ninh so với các loại hình dân ca khác ở Việt Nam trong việc truyền dạy là tục “ngủ bọn”. Sau một ngày lao động, “bọn” quan họ, nhất là thiếu niên nam, nữ từ 9 đến 17 tuổi thường rủ nhau “ngủ bọn” ở nhà ông/bà Trùm để tập nói năng, ứng xử, giao tiếp, học câu, luyện giọng, và nhất là phải biết kịp thời. Yêu cầu đề ra với tục “ngủ bọn” là “liền anh” và “liền chị” phải ghép đôi và luyện sao cho từng đôi một thật hợp giọng nhau để đi hát.

Trong quan họ, trang phục của “liền anh” và “liền chị” có sự khác biệt. Trang phục của “liền chị” gồm nón ba tầm hoặc nón thúng quai thao, khăn vấn và khăn mỏ quạ, yếm, áo, váy, thắt lưng, dép. Trang phục của “liền anh” gồm khăn xếp, ô lục soạn, áo cánh bên trong và áo dài 5 thân bên ngoài, quần, dép.

Năm 2009, UNESCO đã thừa nhận quan họ Bắc Ninh là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Phạm vi thừa nhận chính thức gồm có 49 làng quan họ: tỉnh Bắc Giang có 5 làng; tỉnh Bắc Ninh có 44 làng.

Đừng bỏ lỡ thời cơ 🍀 Nhận Thẻ Cào 100k Miễn Phí 🍀 Card Viettel Mobifone

Giới Thiệu Về Quan Họ Bắc Ninh Bằng Tiếng Anh – Mẫu 15

Bài giới thiệu về quan họ Bắc Ninh bằng tiếng Anh dưới đây sẽ giúp các em học viên trau dồi vốn từ vựng và luyện tập ngữ pháp đúng để học tốt ngoại ngữ.

Tiếng Anh:

Quan ho is α romantic folk performing art, which is rooted in Kinh Bac area (present Bac Ninh province). There are 49 Quan ho villages in Bac Ninh province and each village has one or more Quan ho man or woman Quan ho groups. There are 5 to 6 performers who sing well in α group of Quan ho.

From the beginning time when it has just been created, “ Quan ho” was only regarded as α cultural activity at which people in Bac Ninh and some other areas nearby gathered, shared their passions, with their fascinating voices. They “played” Quan ho, not “performed” it, with the main purpose to satisfy their demand to meet and make friends with other people who have same hobbies, and exchange their love on traditional art in α large community.

The songs are performed as alternating verses between two women from one village who sing in harmony, and two men from another village who respond with similar melodies, but with different lyrics. Quan họ singing is common at rituals, festivals, competitions and informal gatherings, where guests will perform α variety of verses for their hosts before singing farewell.

Tiếng Việt:

Quan họ là một loại hình văn nghệ diễn xướng dân gian có nguồn gốc từ vùng Kinh Bắc (tỉnh Bắc Ninh ngày nay). Tỉnh Bắc Ninh có 49 làng Quan họ và mỗi làng có một hoặc nhiều nhóm Quan họ nam hoặc nữ. Có từ 5 đến 6 người trình diễn hát hay trong một đội Quan họ.

Ngay từ thuở mới ra đời, “Quan họ” chỉ được xem như là một nét sinh hoạt văn hóa để người dân Bắc Ninh và một số vùng lân cận tụ họp, chia sẻ niềm thích thú với những giọng ca mê hoặc của mình. Họ “chơi” Quan họ chứ không phải “biểu diễn” với mục đích chính là để thỏa mãn nhu cầu gặp mặt, giao lưu kết giao với những người có cùng sở thích, giao lưu yêu văn nghệ truyền thống trong một cộng đồng lớn.

Các bài hát được trình diễn dưới dạng những câu hát xen kẽ giữa hai người phụ nữ ở một làng hát hòa giọng và hai người đàn ông ở làng khác đối đáp với những nhạc điệu tương tự, nhưng với lời bài hát khác nhau. Hát Quan họ thông dụng trong các nghi lễ, lễ hội, hội thi và các cuộc họp mặt thân mật, nơi khách sẽ trình diễn nhiều câu hát cho chủ nhà trước khi hát tiễn biệt.

Mời bạn tìm hiểu thêm 💕 Thuyết Minh Về Bến Tre 💕 15 Bài Giới Thiệu Bến Tre Hay


Xem thêm những thông tin liên quan đến đề tài dân ca quan họ bắc ninh

Quan Họ Bắc Ninh Hay Nhất 2017 || Dân Ca Quan Họ Bắc Ninh Chọn Lọc Hay Nhất Phần 3

alt

  • Tác giả: Đồng Dao Music
  • Ngày đăng: 2016-12-08
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 1267 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Quan Họ Bắc Ninh Hay Nhất 2017 || Dân Ca Quan Họ Bắc Ninh Chọn Lọc Hay Nhất Phần 3

    ●▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬●
    ►Theo dõi kênh Phòng Trà Đồng Dao: https://goo.gl/EHI3X6
    ► Website: http://www.phongtradongdao.vn/
    ► Fb: https://www.facebook.com/phongtracanhacdongdao
    ► Twitter: https://twitter.com/Dongdaomusic
    ●▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬●
    ♫ CHÚC CÁC BẠN NGHE NHẠC VUI VẺ ♫
    ♫ Tuyển tập Những Nhạc Phẩm Bất Hủ : https://goo.gl/xRvBIa
    ♫ Đêm Sài Gòn – Phòng Trà Của Mọi Nhà: https://goo.gl/fHoFVH
    ♫ Những Ca Khúc Nhạc Trẻ Hay Nhất 2016: https://goo.gl/Ctp1z0
    ♫ Tuyển Tập Nhạc Hoài Lâm: https://goo.gl/ePFPeD

    ♫ Tuyển Tập Nhạc Huế: https://goo.gl/DPQmEu
    ♫ NSND Thu Hiền Chọn Lọc: https://goo.gl/reQJsx
    ♫ Nhạc Trữ Tình Quê Hương: https://goo.gl/lFnI4z
    ♫ Anh Thơ Tuyển Chọn: https://goo.gl/4cQLLN

    ♫ Nhạc Hay Nhất Chọn Lọc: https://goo.gl/MUvQmg
    ♫ Tuyển Tập Nhạc Trữ Tình Chọn Lọc: https://goo.gl/EdCqXc
    ♫ Nhạc Trữ Tình Miền Tây Hay Nhất: https://goo.gl/aUAJJV

    ●▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬●
    ♫ CHÚC CÁC BẠN NGHE NHẠC VUI VẺ ♫
    Kênh Youtube chính thức của Phòng Trà Đồng Dao.
    Nổi tiếng với những chương trình ca nhạc rực rỡ có sự góp mặt của nhiều nghệ sĩ hàng đầu showbiz, Phòng Trà Đồng Dao là lựa chọn của nhiều bạn trẻ cũng như giới triệu phú và nhân viên văn phòng khi muốn tìm kiếm một không gian thưởng thức âm nhạc thực sự.
    Phòng Trà Đồng Dao Official update liên tục và nhanh chóng các ca khúc cũng như phần giao lưu của những ca sĩ, nghệ sĩ nổi tiếng đến trình diễn tại phòng trà. Những bài hát live hay nhất của các nghệ sĩ được yêu thích hiện tại như Mỹ Tâm, Đàm Vĩnh Hưng, Thu Phương, Khánh Ly, Hoài Lâm, Trấn Thành,… sẽ là món quà âm nhạc rực rỡ dành riêng cho người yêu nhạc.
    Địa chỉ : 164 Pasteur, Phường Bến Nghé, Quận 1. TP.HCM
    Smartphone : 08.3829.6210 – 08.3829.0729
    Hotline : 091.848.8585
    ————
    Powered by: BHMEDIA . Tin nhắn hộp thư online : banquyen@bhmedia.vn

Quan họ Bắc Ninh

  • Tác giả: quanhobacninh.vn
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 9056 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Quan họ Bắc Ninh – Dân ca quan họ – Đến hẹn lại lên là Website nghe quan họ trực tuyến, tải nhạc quan họ, nhạc beat quan họ, karaoke quan họ Bắc Ninh.

Dân ca Quan họ Bắc Ninh là gì và nguồn gốc

  • Tác giả: www.vntrip.vn
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 2386 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Quan họ Bắc Ninh có từ khi nào? Cách hát Quan họ Bắc Ninh ra sao? Trang phục của người hát Quan họ có gì đặc biêt? Hãy tìm hiểu cùng Vntrip.vn nhé!

Thuyết minh về Dân ca quan họ Bắc Ninh

  • Tác giả: thptsoctrang.edu.vn
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 5748 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Đề bài: Thuyết minh về Dân ca quan họ Bắc Ninh

Nghe nhạc Quan Họ Bắc Ninh MP3, tải, download dân ca quan ho – Đang cập nhập

  • Tác giả: mp3.zing.vn
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 5811 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Nghe nhạc Quan Họ Bắc Ninh MP3, tải, download dân ca quan ho, Đang cập nhập Tải download 320 nhạc chờ Nghe nhac Quan Ho Bac Ninh MP3, tai, download dan ca quan ho,Dang cap nhap

Quan họ Bắc Ninh 10 năm nhìn lại

  • Tác giả: vietnamnet.vn
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 7467 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Tối ngày 23/2, tại Trung tâm Văn hóa Kinh Bắc, Tỉnh Bắc Ninh long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 10 năm Dân ca Quan họ Bắc Ninh được UNESCO thừa nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại với đề tài “Rạng rỡ miền Quan họ’.

Thuyết minh về Dân ca quan họ Bắc Ninh

  • Tác giả: kthn.edu.vn
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 8362 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm:

Xem thêm các nội dung khác thuộc thể loại: Du lịch