Bạn đang xem: bảo tàng lịch sử quốc gia
BẢO TÀNG LỊCH SỬ QUỐC GIA
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia được thành lập năm 2011 trên nền tảng sáp nhập Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và Bảo tàng Cách mạng Việt Nam. Tọa lạc tại trung tâm Thủ đô Hà Nội, trên phố Tràng Tiền và Trần Quang Khải, cách hồ Hoàn Kiếm khoảng 500m về phía đông, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia đã trở thành một trong những vị trí văn hóa mê hoặc trong quần thể các điểm du lịch được đông đảo công chúng trong và ngoài nước quan tâm lựa chọn trong chuyến tham quan, du lịch của mình.
Trên nền tảng kế thừa khối di sản của hai bảo tàng đã có bề dày hơn 50 năm phát triển, Bảo tàng hiện đang lưu giữ, giữ gìn một khối lượng tài sản vô giá với trên 200.000 tài liệu, hiện vật phong phú về loại hình, phong phú về vật liệu có thời đại kéo dài từ thời nguyên thủy đến ngày nay. Trong số đó, gần 8.000 tài liệu, hiện vật, sưu tập hiện vật có giá trị, độc bản và quý hiếm, nhiều hiện vật được thừa nhận là Bảo vật quốc gia được lựa chọn trưng bày trên tổng diện tích 3.700m2 tại hai vị trí: số 1 Tràng Tiền (giới thiệu về lịch sử Việt Nam từ thời Tiền sử đến triều Nguyễn năm 1945) và số 216 Trần Quang Khải (giới thiệu về lịch sử Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX đến nay).
Mỗi tài liệu, hiện vật, sưu tập hiện vật trưng bày đều là những di sản quý hiếm chứa đựng những thông điệp của quá khứ, những tinh hoa của nền văn hóa Việt Nam phong phú, phong phú và giàu bản sắc. Tham quan Bảo tàng Lịch sử quốc gia, công chúng hiểu biết thêm về lịch sử văn hóa lâu đời và truyền thống tranh đấu gan góc, kiên định trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
1. Hệ thống trưng bày về lịch sử Việt từ thời Tiền sử đến triều Nguyễn năm 1945 (tại số 1 Tràng Tiền)
Tòa nhà tại số 1 Tràng Tiền do người Pháp xây dựng từ năm 1926, khánh thành năm 1932, mang tên Bảo tàng Louis Finot và được thiết kế sư người Pháp Ernest Hébrard thiết kế như một tác phẩm văn nghệ, một công trình thiết kế rực rỡ với sự phối hợp hài hòa phong thái thiết kế phương Đông với những nét đẹp thiết kế phương Tây. Sau thời điểm khánh thành, Bảo tàng trưng bày về văn nghệ Phương Đông gồm các sưu tập hiện vật khảo cổ học, dân tộc học, mỹ thuật của Việt Nam và một số nước khu vực Châu Á. Năm 1958, Chính phủ chính thức tiếp quản công trình văn hoá này. Sau 5 tháng tiến hành chỉnh lý, chuyển hóa nội dung trưng bày từ bảo tàng văn nghệ thành bảo tàng thuộc loại hình lịch sử xã hội. Ngày 03/9/1958, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam chính thức mở cửa đón khách tham quan với nội dung trưng bày giới thiệu về tiến trình lịch sử Việt Nam từ thời Tiền sử đến triều Nguyễn năm 1945. Hiện tại nội dung hệ thống trưng bày gồm:
1.1. Việt Nam thời Tiền sử (khoảng 400.000 – 300.000 năm đến khoảng 4.000 năm cách ngày nay).
Giới thiệu những vết tích phản ánh sự xuất hiện sớm của loài người trên quốc gia Việt Nam và những di tích, di vật, văn hóa phản ánh hoạt động của loài người từ Sơ kỳ thời kì đồ Đá cũ đến Hậu kỳ thời kì đồ Đá mới trên quốc gia ta từ miền núi, trung du, đồng bằng, ven biển, hải đảo; sự giao lưu với những văn hóa trong khu vực để phát triển từng bước tạo tiền đề nền tảng vật chất trọng yếu mang Việt Nam bước sang thời kì mới thời kỳ dựng nước trước nhất với những bản sắc riêng của mình.
– Thời kì đồ Đá cũ: những vết tích trước nhất của loài người như: răng người vượn (Homo erectus, Homo sapiens, Home sapiens) và các di cốt hóa thạch động vật được phát hiện trong các hang động ở Lạng Sơn, Yên Bái, Thanh Hóa, Ninh Bình, Nghệ An… và dụng cụ lao động được phát hiện ở Núi Đọ (Thanh Hóa) với đặc trưng là dụng cụ rìu tay; Đồi Thông (Hà Giang) và Sơn Vi (Phú Thọ) với đặc trưng là dụng cụ cuội; Mái đá Ngườm (Thái Nguyên) với đặc trưng là dụng cụ mảnh tước… đã phản ánh Việt Nam là một trong những cái nôi loài người xuất hiện và những hoạt động sinh sống trước nhất của loài người từ rất sớm.
– Thời kì đồ Đá mới: được nhìn nhận là một cuộc “cách mạng” với nhiều thay đổi sâu sắc về kinh tế, văn hoá, xã hội như: kỹ thuật chế tạo đá phát triển đến đỉnh cao, nhất là sự phát triển của kỹ thuật mài dụng cụ; đồ gốm phong phú về số lượng, mẫu mã và loại hình; nghề thủ công xuất hiện; giao lưu trao đổi được mở rộng; nền nông nghiệp sơ khai kết phù hợp với săn bắt, đánh cá, và hái lượm; các tập tục mai táng, tín ngưỡng phong phú và phong phú…đã phản ánh một bước tiến lớn trong cuộc sống của dân cư thời kỳ này.
1.2. Việt Nam thời dựng nước trước nhất
Việt Nam là một trong những quốc gia ở Đông Nam Á sớm nắm được kỹ thuật luyện và đúc đồng, sắt. Vào khoảng giữa thiên niên kỷ Ι trước Công nguyên, trên quốc gia Việt Nam đã tạo ra 3 trung tâm văn hoá, văn minh lớn làm nền tảng vật chất, nền tảng cho 3 quốc gia cổ tạo dựng và phát triển rực rỡ vào những thế kỷ trước và sau công nguyên: văn hóa Đông Sơn – nhà nước Văn Lang, Âu Lạc; văn hóa Sa Huỳnh – Vương quốc Champa; văn hóa Đồng Nai, Óc Eo – Vương quốc Phù Nam.
– Văn hóa Tiền Đông Sơn (Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun): khoảng 4.000 – 2.500 năm cách ngày nay, phân bố đa phần vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ bao gồm:
– Văn hóa Phùng Nguyên được gọi theo tên di chỉ trước nhất được phát hiện năm 1959, ở xã Kinh Kệ (huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ). Đây là nền văn hóa thuộc sơ kỳ thời kì Đồ đồng. Điểm mới lạ trong văn hóa Phùng Nguyên này là hiện vật bằng đá rất phong phú về loại hình như: dụng cụ lao động, vũ khí, đồ trang sức… cho thấy kỹ thuật chế tạo đá đã đoạt đến đỉnh cao. Đặc biệt, đồ trang sức được chế tạo bằng đá, đá Nephirite, đá ngọc… được sử dụng thông dụng. Đồ gốm làm bằng bàn xoay, thường trang trí hoa văn khắc vạch, hoa văn chấm dải. Đã phát hiện những mẩu xỉ đồng.
– Văn hóa Đồng Đậu được gọi theo tên di chỉ trước nhất được phát hiện năm 1962, ở thôn Đồng Đậu (thị xã Yên Lạc, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc). Văn hóa này là sự phát triển tiếp nối của văn hóa Phùng Nguyên. Dụng cụ đá có số lượng ít và không được trau truốt. Hiện vật bằng xương cũng được phát hiện trong nhiều di chỉ. Đồ gốm với nhiều loại hình và hoa văn phong phú như: hoa văn hình sóng nước, khuông nhạc, đường tròn đồng tâm,… Một số dụng cụ bằng đồng (mũi tên, lao,…) được phát hiện trong nhiều di tích, cho thấy tính ưu việt của đồ đồng tạo ra năng suất lao động cao hơn đã được dân cư Đồng Đậu dần sử dụng thông dụng hơn.
– Văn hóa Gò Mun được gọi theo tên di chỉ trước nhất được phát hiện năm 1961, ở xã Tú Xã (huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ). Văn hóa Gò Mun được tạo dựng trên nền tảng văn hóa Đồng Đậu trước đó. Dụng cụ đá giảm dần về số lượng và kỹ thuật chế tạo. Thay vào đó, số lượng dụng cụ đồng dần tăng cao như: lưỡi câu, mũi lao, giáo… cho thấy đồ đồng đã dần trở thành dụng cụ thiết yếu, trọng yếu trong lao động sản xuất. Đồ gốm có tiến bộ vượt bậc, hoa văn trang trí phong phú như: hoa văn chấm cuống rạ, in chấm tròn… Với sự phát triển đồ đồng, dân cư Gò Mun đã từng bước khắc chế thiên nhiên, quản lý vùng châu thổ sông Hồng, tạo nền tảng cho một nền văn hoá phát triển rực rỡ – văn hóa Đông Sơn.
– Văn hóa Đông Sơn được phát hiện năm 1924 ở bên bờ sông Mã thuộc xã Đông Sơn, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Đây cũng là một trong những văn hóa nổi tiếng ở khu vực Đông Nam Á, với nhiều sưu tập hiện vật rực rỡ như: dụng cụ sản xuất, đồ vật sinh hoạt, vũ khí, nhạc khí… Đặc biệt, kĩ thuật đúc đồng đã đoạt tới trình độ hoàn mỹ, trong đó trống đồng là loại hình di vật điển hình nhất, quy tụ đầy đủ những tri thức khoa học của thời kì cũng như tài năng và tâm hồn của người Việt cổ. Có thời đại khoảng 2.500 – 2.000 năm cách ngày nay, trống đồng Đông Sơn hay còn gọi là trống loại Ι theo phân loại của Heger (tên một học giả người Áo), được phân bố đa phần xuôi theo những triền sông lớn ở đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, rải rác ở Nam Trung Bộ, Nam Bộ và còn tồn tại mặt ở một số nước Đông Nam Á. Trống là một loại nhạc khí dùng trong những nghi lễ như lễ hội cầu mưa, cầu mùa, tang ma, cưới xin, làm hiệu lệnh trong chiến trường… vừa là biểu tượng quyền lực thời các vua Hùng dựng nước. Đồ án hoa văn trang trí trên trống đồng Đông Sơn phong phú phản ánh sinh động đời sống vật chất, trí não của dân cư Đông Sơn. Hiện tại, Bảo tàng Lịch sử quốc gia đang lưu giữ và trưng bày sưu tập trống đồng Đông Sơn với số lượng nhiều nhất và giá trị nhất trên cả nước. Trong sưu tập, có tới 2 hiện vật là Bảo vật quốc gia, này là: trống Ngọc Lũ và trống Hoàng Hạ. Trống được xem như là một chuẩn mực về sự phối hợp hài hòa những đặc trưng, phong thái văn nghệ trang trí đồ đồng Đông Sơn. Trống đồng Đông Sơn đã quy tụ đầy đủ những tri thức khoa học của thời kì, cũng như tài năng và tâm hồn của người Việt cổ.
– Nhà nước Văn Lang, Âu Lạc: Cách ngày nay khoảng hơn 2.000 năm, trên nền tảng phát triển rực rỡ của Văn hóa Đông Sơn, Nhà nước trước nhất trong lịch sử dân tộc đã tạo ra, này là Nhà nước Văn Lang của các vua Hùng, đóng đô ở Phong Châu (Việt Trì, Phú Thọ ngày nay) trên nền tảng thống nhất của 15 bộ lạc. Những dấu ấn của buổi đầu dựng nước được phản ánh qua truyền thuyết, sử sách, các di tích lịch sử và nhất là qua các tài liệu khảo cổ học, này là toàn thể di tích, di vật thuộc văn hóa Đông Sơn. Nhà nước Văn Lang được cha truyền con nối trải qua 18 đời. Đến khoảng cuối thế kỷ III TCN, nhà nước Văn Lang khởi đầu suy yếu, song song đó Thục Phán đã nổi lên ở bộ lạc Âu Việt đã sát nhập, thống nhất dân cư Âu Việt và Lạc Việt, lập ra quốc gia Âu Lạc, đóng đô ở Cổ Loa. Nhà nước Âu Lạc phát triển dựa trên nề tảng kinh tế – xã hội – văn hóa của Nhà nước Văn Lang.
– Văn hóa Sa Huỳnh: Cùng thời gian tồn tại với văn hóa Đông Sơn, văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung cũng là một trung tâm kim khí phát triển hưng thịnh. Các di tích thuộc văn hóa Sa Huỳnh được phân bố đa phần dọc các tỉnh miền Trung và Nam Trung Bộ từ Quảng Bình cho tới Đồng Nai và một số đảo như Lý Sơn, Côn Đảo, Thổ Chu. Đặc trưng thường gặp ở những di tích Sa Huỳnh là mộ chum được chôn thành bãi hay cụm, trong đó có chứa đồ tùy táng. Chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh đã biết luyện sắt, chế tạo đồ trang sức, làm gốm… Đặc biệt, khuyên tai hai tự thú và khuyên tai ba mấu bằng đá và thủy tinh vô cùng tinh mỹ không chỉ được người Sa Huỳnh ưa thích mà còn được trao đổi sang nhiều vùng lân cận ở Đông Nam Á. Văn hóa Sa Huỳnh là nền tảng cho sự tạo dựng và phát triển của vương quốc Champa vào những thế kỷ đầu Công nguyên.
– Văn hóa Đồng Nai (Tiền Óc Eo): là tên gọi chung cho các di tích thuộc thời kì kim khí nằm trong vùng hạ lưu sông Đồng Nai. Các dụng cụ và vũ khí sắt được phát hiện ở các di tích thuộc văn hóa Đồng Nai đa phần được tìm thấy trong ngôi mộ vò với nhiều loại hình khác nhau. Chủ nhân văn hóa Đồng Nai đã biết luyện sắt, chế tạo đồ trang sức, làm gốm… Nhất là đồ trang sức bằng thuỷ tinh, đá quý và các đồ trang sức được chế tạo tinh xảo bằng vàng đã phản ánh sự phát triển kinh tế, văn hóa, phong tục tập quán… sự giao lưu với những nền văn hóa xung quanh của văn hóa Đồng Nai.
1.3. Việt Nam 10 thế kỷ đầu sau Công nguyên (thế kỷ Ι-Ҳ)
Năm 111 TCN, nhà Hán khởi binh tiến đánh Nam Việt, nhà Triệu sụp đổ, nước ta bị đặt dưới ách đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc. Quyết sách xuyên suốt của thời kỳ này là quyết sách đồng hóa văn hóa. Song sự hiện diện của sưu tập hiện vật mang nhiều yếu tố văn hóa Đông Sơn thời kỳ này như: trống đồng, đồ gốm, chuông Thanh Mai… đã trổ tài sức sống mãnh liệt của văn hóa Việt cũng như sự tiếp thụ tinh hoa văn hóa nhân loại để phát triển văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, sự nghiệp chống giặc ngoại xâm cũng được trổ tài ở các tư liệu hiện vật với các cuộc khởi nghĩa đã liên tiếp nổ ra: Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lí Bí, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng,… Năm 938, với thắng cuộc vang dội trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền, đã kết thúc một ngàn năm đô hộ của phong kiến phương Bắc, mở ra một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập dân tộc.
– Triều Ngô – Đinh – Tiền Lê (938 – 1009): Năm 938, Ngô Quyền thắng cuộc quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, mở ra kỷ nguyên độc lập trên quốc gia ta. Triều Ngô, Đinh, Tiền Lê là thời kỳ mở màn của chính sách phong kiến Việt Nam. Hệ thống chính quyền được củng cố lại, tuy còn đơn giản nhưng trổ tài rõ một bước tiến trong tiến trình xây dựng chính quyền độc lập tự chủ từ Trung ương tới địa phương. Các ngành nghề quân sự, kinh tế, văn hóa…. cũng được củng cố, ổn định đặt nền tảng cho một thời kỳ phát triển lâu dài của các triều đại phong kiến Việt Nam sau này. Bên cạnh tiến trình xây dựng quốc gia, những chiến công trong tiến trình dẹp thù trong, thắng giặc ngoài của Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn đã phản ánh sự khởi đầu vững chắc cho sự phát triển rực rỡ của nền văn minh Đại Việt sau này.
– Triều Lý – Trần (1009 – 1400): Triều Lý được khởi đầu từ khi vua Lý Thái Tổ lên ngôi tháng 10 âm lịch năm 1009 kết thúc năm 1225, trải qua 9 đời vua. Sau thời điểm Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, triều Trần được lập nên khởi đầu năm 1225 kéo dài đến năm 1400, trải qua 13 đời vua. Lý – Trần là hai triều đại tồn tại dài nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam và phát triển hưng thịnh trên mọi ngành nghề: quân sự, kinh tế, văn hóa, văn nghệ, thiết kế… Trong số đó, Phật giáo được coi trọng phát triển cực thịnh trở thành quốc giáo đồng thời trở thành đặc trưng văn hóa thời kỳ này. Đây đang là thời kỳ đặt nền tảng cho hệ thống pháp luật, giáo dục khoa cử tạo dựng và phát triển. Tiến trình giữ nước của quân dân Đại Việt thời Lý – Trần được trổ tài qua chiến công vang dội của cuộc kháng chiến chống Tống (1077) và 3 lần đại thắng quân Nguyên – Mông (1257 – 1285 – 1288) và đã khắc sâu trong ký ức nhân dân ta và trở thành niềm tự hào lớn về truyền thống gan góc chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.
– Triều Hồ (1400 – 1407): Triều Hồ là một triều đại tồn tại ngắn ngủi trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Năm 1400, Hồ Quý Ly lên ngôi lập ra nhà Hồ, lấy niên hiệu Thánh Nguyên, đặt quốc hiệu Đại Ngu, đóng đô ở thành Tây Đô (Thanh Hóa). Thời Hồ tồn tại 7 năm, trải qua hai đời vua: Hồ Quý Lý và Hồ Hán Thương, song đã để lại những thành tựu nhất định với những quyết sách cải tiến về kinh tế, văn hóa, giáo dục… như: quyết sách hạn điền, hạn nô, phát hành tiền giấy, đề cao Nho giáo, phát triển chữ Nôm, mở mang trường học… Đặc biệt, thời Hồ rất lưu tâm phát triển quân sự. Di tích thành Tây Đô (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) được nhìn nhận là tòa thành mới lạ nhất Đông Nam Á và đã được Tổ chức Khoa học, Giáo dục, Văn hóa của Liên minh quốc (UNESCO) thừa nhận là di sản văn hóa toàn cầu năm 2011.
– Triều Lê – Mạc – Lê Trung hưng (1428 – 1788) (thời Hậu Lê): Đây là thời kỳ lịch sử dài phát triển, trải qua các triều đại: Lê sơ (1428 – 1527), Mạc (1527 – 1592), Lê Trung hưng (1533 – 1788). Trong thời kỳ đầu triều Lê Sơ, những chủ trương, quyết sách được công bố kịp thời, hợp lòng dân đã mang quốc gia phát triển lên một tầm cao mới. Những thay đổi trọng yếu về cải tiến hành chính, tổ chức quân đội, hoàn thiện pháp luật, khuyến khích phát triển giáo dục khoa cử nho học, sáng tác văn học văn nghệ, khôi phục sản xuất, phát triển kinh tế… nhất là kinh tế thương mại, ngoại thương tạo tiền đề cho các cảng thị sầm uất được tạo dựng phát triển như: Thăng Long – Kẻ Chợ, Phố Hiến, Hội An… đã mang Đại Việt trở thành một trong những quốc gia hùng mạnh của khu vực Đông Nam Á thời kỳ này.
– Triều Tây Sơn (1778 – 1802): Đây là một triều đại tồn tại ngắn ngủi với 3 đời vua: Nguyễn Nhạc (1778 – 1793), Nguyễn Huệ (1789 – 1792), Nguyễn Quang Toản (1792 – 1802). Với những cải tiến về kinh tế (quyết sách khuyến nông), văn hóa, giáo dục (quyết sách khuyến học, đề cao chữ Nôm) đã hỗ trợ người dân bước đầu ổn định cuộc sống, phát triển quốc gia sau thời gian dài loạn lạc. Những chiến công trong cuộc kháng chiến chống quân Xiêm (1785), quân Thanh (1789), thống nhất quốc gia từ Bắc – Nam của Quang Trung Nguyễn Huệ đã để lại những dấu ấn lịch sử trọng yếu trong tiến trình lịch sử Việt Nam.
– Triều Nguyễn (1802 – 1945): Triều Nguyễn là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử chính sách phong kiến Việt Nam khởi đầu từ năm 1802 và kết thúc năm 1945, gồm hai thời kỳ: thời kỳ độc lập (1802 – 1883) và thời kỳ thuộc Pháp (1883 – 1945). Trong thời kỳ độc lập, triều Nguyễn đã có nhiều quyết sách củng cố phát triển quốc gia như: cải tiến về hệ thống chính quyền từ trung ương đến địa phương, quyết sách phát triển kinh tế (khai phá, lấn biển, phát triển thủy lợi…) nhất là cải tiến về hệ thống hành chính đã thống nhất từ Bắc – Nam mà đến nay tất cả chúng ta vẫn kế thừa và phát triển.
1.4. Trưng bày sưu tập
– Sưu tập hiện vật văn nghệ đồng (đầu thế kỷ XX): Đây là những tác phẩm của sinh viên trường Mỹ thuật Đông Dương thời thuộc Pháp (nay là Đại học Mỹ Thuật Hà Nội). Với cảm nhận từ thực tiễn cuộc sống, những sinh viên đã tạo ra các tác phẩm văn nghệ mang tính hiện thực cao như: cảnh người người nông dân đi cày, phụ nữ bế con, giặt quần áo, người đàn ông đi bắt cua, cá. Mỗi cụ thể, đường nét đều được trổ tài rất sinh động, chân thực trổ tài trang phục và các hoạt động trong đời sống sinh hoạt đời thường của người dân nước ta thời kỳ này. Với những giá trị ấy, đến nay, những tác phẩm này đã trở thành những hiện vật lịch sử có giá trị trong kho tàng di sản văn hóa Việt Nam.
– Sưu tập điêu khắc đá Champa (TK VII – TK XIII): Vương quốc Champa được tạo dựng trên cở sở phát triển của văn hóa Huỳnh cùng sự tiếp thụ mạnh mẽ các văn hóa lớn (Ấn Độ, Trung Hoa, Đại Việt, Óc Eo – Phù Nam, vùng Đông Nam Á…). Vương quốc Champa tồn tại và phát triển liên tục từ năm 192 đến năm 1832 qua các tên gọi Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành, Champa với cương vực kéo dài từ Quảng Bình đến Bình Thuận ngày nay. Trong lịch sử, vương quốc Champa phát triển rất phồn thịnh về kinh tế, văn hoá – xã hội. Dân cư Champa xưa đã để lại cho nhân loại những ngôi đền tháp đất nung mới lạ, những tác phẩm điêu khắc đá (tượng, phù điêu) tuyệt mỹ. Với hơn 50 tác phẩm văn nghệ trong sưu tập gồm 2 nhóm: nhóm hiện vật có minh văn và nhóm tượng tròn, phù điêu… có thời đại từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIII, đã phần nào phản ánh đời sống sinh hoạt, tôn giáo, tín ngưỡng của dân cư Champa trong lịch sử.
– Văn hóa Óc Eo – Phù Nam (TK 𝒱 TCN – TK XIII): Văn hóa Óc Eo tạo dựng và phát triển từ thế kỷ 𝒱 TCN đến thế kỷ XIII, phân bố ở hạ lưu và châu thổ sông Mê Kông (khu vực Nam Bộ và Đông Nam Campuchia ngày nay). Văn hóa Óc Eo là nền tảng nền tảng vật chất của vương quốc Phù Nam cổ xưa tồn tại từ thế kỷ Ι đến thế kỷ VII với địa phận rộng lớn bao gồm: phía Nam Việt Nam, Campuchia, Lào, Myanmar. Đặc biệt, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế giao thương, buôn bán, sự giao lưu văn hóa mạnh mẽ với văn hóa Ấn Độ, Trung Quốc và các nước khu vực Đông Nam Á, Địa Trung Hải đã tạo tiền đề cho các thương cảng tạo dựng rất sớm (thương cảng Óc Eo) mang vương quốc Phù Nam trở thành quốc gia phát triển hùng mạnh nhất vùng Đông Nam Á vào những thế kỷ đầu công nguyên. Những pho tượng Ấn Độ giáo, Phật giáo mới lạ; những sưu tập đồ trang sức bằng vàng, đá quý phong phú, tinh xảo… đã được công chúng trên toàn cầu quan tâm, biết tới từ rất sớm và trở thành những di sản văn hóa quý hiếm trong kho tàng di sản văn hóa Việt Nam.
1.5. Trưng bày ngoài trời
Cùng với hệ thống trưng bày thường trực và công trình thiết kế cổ kính, trưng bày ngoài trời Bảo tàng Lịch sử quốc gia góp phần làm tổng thể không gian trưng bày bảo tàng sống động, mê hoặc hơn. Trưng bày ngoài trời gồm 2 phần:
– Sưu tập hiện vật thể khối lớn có thời đại từ triều Lý đến triều Nguyễn (thế kỷ XI đến giữa thế kỷ XX).
– Sưu tập bia ký, điêu khắc đá Champa.
2. Hệ thống trưng bày về lịch sử Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX đến ngày nay (tại 216 Trần Quang Khải)
Tòa nhà tại 216 Trần Quang Khải (Bảo tàng Cách mạng Việt Nam trước đó) được xây dựng năm 1917 là trụ sở của Sở Thương chính Đông Dương. Năm 1954, miền Bắc giải phóng, Hội đồng Chính phủ, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định tôn tạo và chuyển hóa nơi này thành Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, trưng bày về lịch sử Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX đến ngày nay. Sau 5 năm xây dựng nội dung, Bảo tàng chính thức khánh thành, mở cửa đón khách tham quan vào ngày 06/01/1959. Nội dung hệ thống trưng bày gồm:
2.1. Trưng bày thường xuyên:
– Trận đấu tranh giành độc lập của dân tộc Việt Nam (1858-1945): Giới thiệu những hiện vật, hình ảnh, tài liệu về trận đấu tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam từ khi Thực dân Pháp nổ súng xâm lược năm 1858, kết thúc là thắng lợi của Cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền của nhân dân Việt Nam tháng Tám năm 1945.
Theo tiến trình lịch sử, phần trưng bày giúp người xem thấy rõ những vấn đề chính: Quá trình thực dân Pháp xâm lược Việt Nam; Các trào lưu yêu nước chống xâm lược của dân tộc Việt Nam theo các ý thức hệ phong kiến tiêu biểu như: khởi nghĩa Ba Đình (1886), Hương Khê (1885-1896), Yên Thế (1884 -1913) trong trào lưu Cần Vương (1885 – 1896), theo ý thức hệ tư sản như: Phan Bội Châu và trào lưu Đông Du (1905-1908); Phan Châu Trinh và trào lưu Duy Tân; Nguyễn Thái Học và Việt Nam Quốc dân Đảng…; các trào lưu tranh đấu của công nhân, trào lưu yêu nước theo tư tưởng vô sản; Vai trò tổ chức và lãnh đạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam trong trận đấu tranh giành độc lập dân tộc: Trào lưu cách mạng năm (1930- 1931) và Xô Viết – Nghệ Tĩnh; Trào lưu Dân chủ (1936 – 1939); Trào lưu Việt Minh (1941-1945) và Cao trào kháng Nhật cứu nước (3-8/1945); Sự đàn áp, khủng bố tàn bạo của chính quyền thống trị; Cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – một nhà nước độc lập, dân chủ trước nhất ở Đông Nam Á, ngày 02/9/1945.
– 30 năm kháng chiến chống các thế lực xâm lược để bảo vệ độc lập và thống nhất quốc gia 1945-1975 gồm:
+ Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954): Sau Cách mạng tháng Tám, chính quyền nhân dân non trẻ phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, thử thách như: giặc đói, giặc dốt và nghiêm trọng hơn hết là giặc ngoại xâm. Quốc gia bị các thế lực phản động phong toả, chống phá, vận mệnh của dân tộc lúc này như “ngàn cân treo sợi tóc”.
Để giữ vững nền độc lập dân tộc, với trí não đoàn kết, ý chí kiên định, Đảng, Chính phủ đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã điềm tĩnh, tỉnh táo mang ra những quyết sách, từng bước tháo gỡ khó khăn: củng cố chính quyền nhân dân, trấn áp bọn phản động, thực hiện những sách lược ngoại giao linh hoạt, mềm dẻo, khôn khéo, tranh thủ “thêm bạn, bớt thù” để phân hóa, cô lập, tập trung vào kẻ thù chính, trực tiếp của dân tộc này là thực dân Pháp.
Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp nổ súng gây chiến ở Sài Gòn – tái chiếm xâm lược Việt Nam, từng bước mở rộng trận chiến ra miền Bắc và thủ đô Hà Nội. Tháng 12/1946, hưởng ứng lời mời gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với trí não “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, với phương châm “Toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cánh sinh”, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, toàn dân tộc Việt Nam đã bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm (1946 – 1954) chống thực dân Pháp: từ những ngày đầu kháng chiến với trí não Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh của quân dân Hà Nội, qua thắng cuộc Việt Bắc (Thu – Đông 1947) đến Biên Giới 1950 và kết thúc bằng thắng cuộc lịch sử Điện Biên Phủ ngày 07/5/1954.
Phần trưng bày này còn giới thiệu nhiều tư liệu, hiện vật về các chủ trương, quyết sách của Đảng; xây dựng đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng hậu phương trong kháng chiến…
+ Trận đấu tranh chống đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất quốc gia (1955-1975): Hiệp định Giơnevơ ký kết 21/7/1954, chính quyền Ngô Đình Diệm đã không thi hành những điều khoản ghi trong Hiệp định và từ đây quốc gia tạm thời bị chia làm 2 miền với hai chính sách khác nhau: miền Bắc hoàn toàn giải phóng, đi lên CNXH, miền Nam bị đế quốc Mỹ và các lực lượng tay sai thống trị.
Các tài liệu, hiện vật được trưng bày giới thiệu về các nội dung chính: miền Bắc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế và tôn tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng CNXH, lao động sản xuất làm nghĩa vụ hậu phương lớn tiếp viện cho miền Nam đồng thời đấu tranh chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ; miền Nam tiếp tục sự nghiệp tranh đấu, lần lượt làm thất bại các kế hoạch chiến tranh của đế quốc Mỹ và tay sai, hoàn thiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, thống nhất quốc gia.
Với quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, nhân dân Việt Nam đã đoàn kết một lòng dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, khắc phục khó khăn, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác: từ Đồng khởi Bến Tre đến Ấp Bắc, Vạn Tường, Tết Mậu Thân 1968, Điện Biên Phủ trên không 1972 đến đại thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất quốc gia.
Phần trưng bày cũng giới thiệu sưu tập hiện vật Nhân dân toàn cầu ủng hộ nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ; các hiện vật về cuộc sống, lao động, làm việc, xây dựng nền tảng vật chất trong thời chiến và chuẩn bị những điều kiện cho sự phát triển quốc gia sau chiến tranh.
– Việt Nam trên đoạn đường xây dựng dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bình, văn minh từ năm 1976 đến nay: Phối hợp giới thiệu nội dung tổng quan về lịch sử với trưng bày sưu tập và sử dụng các hiện vật, hình ảnh, tài liệu và mô hình tĩnh, giới thiệu tổng quan lịch sử 25 năm sau chiến tranh gồm: Tổ quốc thống nhất; các thành tựu lao động của nhân dân; vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong xây dựng quốc gia; sự phát triển về kinh tế – văn hóa – xã hội; sự ổn định vững mạnh về chính trị thời kỳ đổi mới, phát triển quốc gia.
2.2. Trưng bày sưu tập: Tặng phẩm của nhân dân Việt Nam, nhân dân toàn cầu tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam
Phần trưng bày giới thiệu hơn 100 hiện vật nguyên gốc là tặng phẩm của nhân dân Việt Nam, nhân dân toàn cầu tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam. Những tặng phẩm trổ tài tình cảm kính trọng, mang ơn, sự gắn bó, niềm tin tuyệt đối của nhân dân Việt Nam vào sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng thời trổ tài tình đoàn kết, sự ủng hộ to lớn của đồng bọn toàn cầu dành riêng cho Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam.
Tuy nhiên, thông qua các hiện vật, người xem có thể hiểu biết thêm về trình độ kinh tế qua các thời kỳ, dấu hiệu địa lý, bản sắc văn hóa của các vùng, miền trong toàn quốc.
Nguồn: Sở Du lịch Hà Nội
Xem thêm những thông tin liên quan đến đề tài bảo tàng lịch sử quốc gia
Bảo Tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam tầng 1 | Hà Nội Phố
- Tác giả: Hà Nội Phố
- Ngày đăng: 2018-05-29
- Nhận xét: 4 ⭐ ( 8450 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Hà Nội Phố: Bảo tàng Lịch sử Việt Nam cđã được sát nhập dưới tên Bảo tàng Lịch sử quốc gia. Bảo tàng Lịch sử Việt Nam là nơi lưu giữ những hiện vật, phản ánh các nền văn hóa, lịch sử dựng nước và giữ nước của người Việt Nam từ thuở ban đầu khai sáng đến ngày ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Viện bảo tàng có phong thái thiết kế Đông Dương, nằm ở số 1 phố Tràng Tiền, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Viện Bảo tàng mở cửa đón khách cả tuần, trừ thứ hai. Tại đây còn lưu giữ nhiều hiện vật quý như Trống đồng Đông Sơn, gốm Bát Tràng, tượng thần Shiva, cọc gỗ trong trận Bạch Đằng,…
Bảo tàng Lịch sử Việt Nam là thành viên của Hội đồng Bảo tàng Quốc tế (ICOM), là thành viên sáng lập Hiệp hội các bảo tàng quốc gia châu Á (ANMA).
ĐĂNG KÝ KÊNH HÀ NỘI PHỐ MIỄN PHÍ Ở ĐÂY:
https://goo.gl/c3C67k
► Quý vị có thể Donate cho Duy vào tài khoản PayPal: hopeduy@gmail.com
Tài khoản ngân hàng TMCP Á Châu: 101448239 người thụ hưởng: Trần Văn Duy, PGD Nguyễn Thị Định Hà Nội.
► Phản hồi, thảo luận thêm về Hà Nội Phố trên FaceBook: https://www.facebook.com/hanoiphotv/
► Thông tin phản hồi xin gửi về [Email]: hoinghibanvuong@gmail.com
Hà Nội phố kênh chia sẻ những hình ảnh tiên tiến nhất về Hà Nội ngày nay – Hanoi today để gửi tới toàn bộ quý bà con trong và ngoài nước muốn tìm hiểu về văn hóa và lịch sử Hà Nội, đặc biệt đây là món quà gửi tới các Kiều bào người Việt Nam sống xa tổ quốc muốn biết về sự thay đổi của Hà Nội, ngoài ra chúng tôi sẽ chia sẻ những hướng nhìn đơn sơ và dân dã nhất ở từng góc phố , gặp mặt những loài người Hà Nội, tìm hiểu ẩm thực thủ đô ngàn năm văn hiến, và rất nhiều những chia sẻ ngạc nhiên và thú vị về cuộc sống và loài người Hà Nội.
Danh sách phát:
Ẩm thực đường phố Food: http://bit.ly/2sQ0PyD
Người Hà Nội: http://bit.ly/2te8kin
Đi chợ – Market: http://bit.ly/2uiCI06
Phố Cổ Hà Nội: http://bit.ly/2uiLaMwCảm ơn Quý vị đã quan tâm theo dõi, nhớ đăng ký kênh Hà Nội Phố https://goo.gl/c3C67k để nhận tin tiên tiến nhất mỗi ngày nhé
————————————————————————-
Đăng ký kênh để nhận tin: https://goo.gl/c3C67k
Fb Hanoi Pho: http://bit.ly/2tefK9P
₲+ Hanoi Pho: http://bit.ly/2rUuSVB
Blog Ha noi Pho: http://bit.ly/2sTBhRU
————————————————————————-
Cám ơn các bạn đã lưu ý theo dõi
Xin hãy nhấn Đăng Ký để ủng hộ kênh!
Chúng tôi vô cùng mang ơn việc làm đó của quý vị!Hanoi Pho Channel
Thank you for watching!
Subscribe for Ha Noi Pho please!
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia rực rỡ trong sắc hoa gạo
- Tác giả: toquoc.vn
- Nhận xét: 4 ⭐ ( 4751 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: (Tổ Quốc) – Cứ độ tháng Ba, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia (số 1 Tràng Tiền, Hoàn Kiếm, Hà Nội) lại rực rỡ trong sắc đỏ của hoa gạo cổ thụ năm nào cũng tạo nên cho không gian thiết kế của Bảo tàng thêm đẹp mắt của mùa mộc miên
Giá vé tham quan bảo tàng lịch sử Quốc Gia 2022 – Tổng Hợp Giá Vé Tham Quan
- Tác giả: giavethamquan.com
- Nhận xét: 5 ⭐ ( 5668 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm:
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia sôi động khách “online” mùa dịch
- Tác giả: bvhttdl.gov.vn
- Nhận xét: 5 ⭐ ( 6114 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Thích ứng nhanh với đại dịch COVID-19, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia đã ứng dụng công nghệ triệt để trong giới thiệu các nội dung trưng bày, tiếp cận công chúng trong thời điểm giãn cách xã hội. Vì vậy, dù đóng cửa nhưng khách “online” vẫn tấp nập ghé thăm Bảo tàng. Đây đang được xem như là hướng đi thích hợp cho các bảo tàng trong thời điểm dịch bệnh hiện tại.
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
- Tác giả: baotanglichsu.vn
- Nhận xét: 4 ⭐ ( 7831 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Vietnam National Museum of History
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia: Đổi mới để thích ứng
- Tác giả: dangcongsan.vn
- Nhận xét: 5 ⭐ ( 8469 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: (ĐCSVN)- Thỏa mãn thực tiễn phát triển và nhu cầu thưởng lãm giá trị lịch sử văn hóa ngày càng cao của đông đảo khách tham quan, đặc biệt trong hoàn cảnh đại dịch COVID-19 vẫn đang có những tình tiết phức tạp, Bảo tàng Lịch sử quốc gia đã từng bước đổi mới phương thức hoạt động, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, phong phú hóa các hoạt động nhằm thu hút…
TỔ CHỨC KỶ LỤC VIỆT NAM(VIETKINGS)
- Tác giả: kyluc.vn
- Nhận xét: 5 ⭐ ( 6432 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: HỘI KỶ LỤC GIA VIỆT NAM – TỔ CHỨC KỶ LỤC VIỆT NAM (VIETKINGS)
Xem thêm các nội dung khác thuộc thể loại: giải trí