Cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải – cầu hiền lương sông bến hải

Cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải Cầu Hiền Lương được phục chế nguyên bảnCầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải, tại thôn Hiền Lương, xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, Việt Nam. Cũng tại nơi đây, đã từng diễn ra những cuộc “chọi loa”, “chọi cờ” quyết liệt trong Chiến tranh Việt Nam[1][2]. Thời kỳ đó, cầu Hiền Lương là ranh giới chia cắt Việt Nam thành hai quốc gia (trong suốt 21 năm, từ năm 1954 đến năm 1975). Còn ngày nay nó đã trở thành biểu tượng của “nỗi đau chia cắt”.Lịch sử xây dựngTrước khi chưa có cầu bắc qua sông Bến Hải, đoạn sông rộng chưa đầy 100m[3] này chỉ có một bến phà. Cầu Hiền Lương trước hết được xây dựng năm 1928[1] do phủ Vĩnh Linh kêu gọi nhân dân trong vùng đóng góp sức. Cây cầu này được làm bằng gỗ, đóng cọc sắt, rộng 2m, trọng tải chỉ đủ cho người đi bộ. Năm 1931 cây cầu này được thực dân Pháp sửa chữa lại nhưng xe cộ muốn qua sông thì vẫn phải đi bằng phà. Năm 1943 cầu được nâng cấp thêm một lần nữa, lúc này xe cơ giới loại nhỏ có thể qua được.Đến năm 1950, do nhu cầu quân sự, Pháp đã cho xây lại cầu bằng bê tông cốt thép, dài 162m, rộng 3,6m, trọng tải 10 tấn. Cây cầu này tồn tại được hai năm thì bị du kích Việt Minh đặt bộc phá đánh sập để ngăn chặn sự tiến công của địch. Tháng 5 1952 thực dân Pháp xây lại một chiếc cầu mới gồm 7 nhịp, dài 178m, trụ bằng bê tông cốt thép, dầm cầu bằng thép, mặt lát bằng gỗ thông, rộng 4m, hai bên có thành chắn cao 1,2m, trọng tải cầu tối đa là 18 tấn.“Cầu chia làm hai phần, mỗi bên dài 89m, sơn hai màu khác nhau. Bờ Bắc gồm 450 tấm ván mặt cầu, bờNam444 tấm.”—Nhà văn Nguyễn Tuân[2]Chiếc cầu này tồn tại được 15 năm (từ 1952 đến 1967) thì bị bom Mỹ đánh sập.Từ 1972 đến 1974, để phục vụ chiến trường miền Nam, công binh Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam đã bắc chiếc cầu phao dã chiến cách cầu cũ 20m về phía Tây. Đến năm 1974 chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã cho xây dựng lại bằng bê tông cốt thép dài 186m, rộng 9m, có hành lang cho người đi bộ rộng 1,2m. Chính chiếc cầu này mang trong mình ý nghĩa như “Chiếc cầu thống nhất đất nước”.Sau ngày hòa bình, cầu cũ ngày càng xuống cấp nghiêm trọng. Năm 1996, Bộ Giao thông Vận tải đã cho xây chiếc cầu mới dài 230m, rộng 11,5m, nằm về phía Tây cầu cũ[4]. Cầu mới được thi công bình công nghệ đúc đẩy – một phương pháp hiện đại nhất lần trước hết được ứng dụng tại ViệtNam. Năm 2001 chiếc cầu sắt năm 1952 – một chứng tích lịch sử của sự chia cắt quốc gia được phục chế lại nguyên bản theo thiết kế của chiếc cầu cũ bị bom Mỹ đánh sập năm 1967.Ngày 18 tháng 5 năm 2003, tỉnh Quảng Trị đã tổ chức khánh thành công trình phục chế cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải, được khởi công tháng 4, 2002 với tổng số vốn đầu tư 6,5 tỷ đồng, cầu phục chế dài 182,97m gồm 7 nhịp, mặt lát gỗ lim.[1]Lịch sử chia cắt Việt Nam“        Cách một con sông mà đó thương đây nhớChung một nhịp cầu mà duyên nợ cách xa ”Năm 1954, sau thời điểm để thua trận quyết đấu kế sách Điện Biên Phủ, Pháp tán thành trao trả độc lập cho ViệtNamtheo Hiệp định Genève. Sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17 được chọn làm ranh giới chia ViệtNamthành hai vùng tập trung quân sự: Quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa rút về miền Bắc, quân đội Liên minh Pháp rút về miềnNam. Thoạt tiên việc chia thành hai vùng quân sự này vô nghĩa về lãnh thổ hay chính trị, và chỉ có giá trị trong vòng hai năm, từ năm 1954 đến năm 1956 rồi sau đó sẽ tổ chức cuộc tổng tuyển cử để hoàn toàn thống nhất quốc gia. Sau khoảng thời gian thiết lập ranh giới phi quân sự, theo hiệp định, quân đội Việt Minh từ miền Nam phải tập kết ra Bắc, quân đội Pháp từ miền Bắc phải tập kết vào Nam. Giữa hai quân đội là “Vùng phi quân sự” tính từ 5 ki-lô-mét từ mỗi bên Sông Bến Hải được sử dụng làm “vùng đệm” nhằm tránh sự xung đột (hoạt động thù địch) có thể xảy ra giữa hai quân đội.Nhưng năm 1956, Ngô Đình Diệm, tổng thống Việt Nam Cộng hòa, với sự ủng hộ của Hoa Kỳ từ chối không tham gia cuộc tổng tuyển cử do đó sông Bến Hải tiếp tục chia cắt quốc gia và làm ly tán nhiều gia đình ở hai miền Việt Nam.Khi xa gia đình mình ở miềnNam, người lính Việt Minh nghĩ rằng hai năm sau họ sẽ được sum họp với gia đình. Nhưng do sự từ chối tổ chức Tổng tuyển cử của Việt Nam Cộng hòa nên họ không chỉ bị xa nhà 2 năm mà lên đến 21 năm. Ngày nay, ở bờNamsông Bến Hải có một tượng đài với tên gọi: “Khát vọng thống nhất non sông”. Tượng đài có kiểu dáng của một thiếu phụ đang đứng ở bờNamsông Bến Hải nhìn về phía Bắc để tưởng nhớ những ngày tháng đau thương khi họ không thể vượt sông để gặp chồng và người thân.Tuy nhiên trong thời gian chia cắt vẫn có những vụ trao đổi nhân viên giữa hai miền như vào ngày 19 tháng 3 năm 1965 một nhóm người hoạt động cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam như Tôn thất Dương Kỵ và Phạm Văn Huyến bị Việt Nam Cộng hòa tống xuất ra miền Bắc qua cầu Hiền Lương.[5][6]”Cuộc chiến màu sắc”Trong sự tranh chấp chính trị giữa hai bên, trong đó nổi bậc là trào lưu tranh đấu chính trị đòi hiệp thương Tổng tuyển cử thống nhất quốc gia của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và những người cộng sản Nam Việt Nam, cây cầu Hiền Lương và dòng sông Bến Hải bị cuốn vào cuộc tranh chấp vì đây là nơi giáp mặt của hai chính quyền đối lập. Ở đoạn giữa cầu có một vạch trắng kẻ ngang, rộng 1cm được dùng làm ranh giới. Thoạt đầu Việt Nam Cộng hòa chủ động sơn một nửa cầu phía nam thành màu xanh, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa liền sơn tiếp màu xanh một nửa cầu sót lại. Sau Việt Nam Cộng hòa lại chuyển sang màu nâu thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng sơn lại màu nâu. Cứ như vậy, cầu Hiền Lương luôn thay đổi màu sắc, hễ Việt Nam Cộng hòa sơn một màu khác đi để tạo ra hai màu đối lập thì ngay mau lẹ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa liền sơn lại cho giống. Cuối cùng vào năm 1975, cây cầu chung một màu xanh thống nhất. Hành động sơn màu cầu là một cách tranh đấu chính trị nhằm nói lên khát vọng thống nhất quốc gia của VNDCCH.”Cuộc chiến âm thanh”2 loa công suất 500W có đường kính rộng 1,7m tại Nhà trưng bày Vĩ tuyến 17Đồn công an giới tuyến“        Vĩ tuyến 17 – nơi “trưng bày” sự man rợ đến tột cùng của đế quốc Mỹ và lòng dũng cảm đến mức thần thánh của nhân dân Việt Nam.”—Nhà điện ảnh Thụy Điển Gerald Evans[1]Những năm 1954-1964 là thời kỳ không còn tiếng súng ở đôi bờ giới tuyến, song trận chiến bằng tiếng nói đã diễn ra ở đây rất stress và quyết liệt giữa hai phe đối lập.Lúc đầu, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho xây dựng một hệ thống loa phóng thanh được phân bố thành 5 cụm trong chiều dài 1.500m ở bờ Bắc, mỗi cụm gồm 24 loa có công suất 25W.Sau những ngày phát sóng trước hết, hệ thống loa phóng thanh này không thể át được các loa do Tây Đức, Úc phân phối phát với tiếng động to hơn của chính quyền Việt Nam Cộng hoà. Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trả đũa bằng cách tăng thêm 8 loa có công suất 50W và 1 loa có công suất 250W được viện trợ từ Liên Xô. Trái lại chính quyền Việt Nam Cộng hòa được Mỹ viện trợ cho những loại loa tối tân hơn, vang xa hàng chục cây số.Vào thời điểm đầu năm 1960, một giàn loa của Mỹ với công suất của mỗi loa lên tới hàng trăm oát được chuyển đến và đặt tại bờNamsông Bến Hải. Lúc bấy giờ chính quyền Việt Nam Cộng hoà tuyên bố: “Hệ thống loa “nói vỡ kính” này sẽ vang tận Quảng Bình, dân bờ Bắc sẽ nghe rõ tiếng nói của “chánh nghĩa Quốc gia”!” Không chịu thua, lúc bấy giờ chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã lắp đặt chiếc loa có công suất 500W với đường kính rộng đến 1,7m và bổ sung thêm 20 loa loại 50W, 4 loa loại 250W của Liên Xô tại chiến tuyến Bến Hải. Khi thuận gió, tiếng loa có thể truyền xa hơn 10km.Để có đủ điện cho hệ thống loa có tổng công suất 7.000W này hoạt động, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phải xây dựng một đường dây cao thế 6KVA dài gần 10km, kéo dài từ thôn Tiên An, Vĩnh Sơn đến thông Tùng Luật, Vĩnh Giang. Ngoài ra, còn tồn tại một trạm cao tần đặt tại Liêm Công Phường cách cầu Hiền Lương 2,5km về phía bắc để tăng âm cho hệ thống loa.Cuộc “đấu khẩu” giữa hai phía qua hệ thống loa là những lời tuyên truyền chính trị chỉ trích đối phương, thường là những tin không có lợi hoặc có thể trái ngược với tình trạng. Mỗi ngày buổi phát thanh kéo dài 14-15 tiếng đồng hồ, có khi phát vào lúc 1 – 2 giờ sáng, mở với công suất tối đa làm người dân cả hai bờ đều nghe thấy.Vào thời kỳ 1954 – 1964, ở đôi bờ Bến Hải vang vọng trong ký ức của một giọng ca ngọt ngào, truyền cảm của nghệ sĩ Châu Loan của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với những bài thơ, bài hò do nghệ sĩ trổ tài rất biểu cảm:”Chim xa rừng còn thương cây nhớ cộiThiếp xa chàng ngày đợi đêm trôngTrong đồn chàng có nhớ thiếp không?Ngoài này thiếp vẫn chờ mong chàng về”[2]Cuộc “chọi cờ”Cột cờ giới tuyến ở bờ Bắc (hiện tại)Người vá cờ Hiền LươngTheo quy định của hiệp định Genève, toàn bộ các đồn công an giới tuyến phải treo cờ mỗi ngày[2]. Treo cờ là chuyện bình thường, song “chọi cờ” mới là chuyện “quốc gia đại sự” đã từng xảy ra ở hai cột cờ ở hai đầu cầu Hiền Lương và kéo dài hàng chục năm.Lúc đầu, vào năm 1954 – 1956, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho làm một cột cờ bằng cây phi lao cao 12m để treo một lá cờ có khổ 3,2m Ҳ 4,8m. Ở bờNam, Pháp cắm cờ tam tài lên nốc lô cốt Xuân Hoà ở bờNamcao 15m. Theo yêu cầu của nhân dân giới tuyến, cờ của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải cao hơn cờ của đối thủ nên những người lính của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã vào rừng sâu để tìm bằng được một cây gỗ cao 18m, cao hơn cột cờ của Pháp 3m và treo một lá cờ bằng vải sa tanh rộng 24m.Ngay sau đó, Ngô Đình Diệm đã cho dựng một trụ cờ bằng xi măng cốt thép cao 30m tại bờNam. Trên đỉnh treo một lá cờ vàng ba sọc đỏ lớn, có hệ thống đèn nê-ông nhấp nháy đủ màu. Khi dựng cờ xong, loa chiến tranh tâm lý hướng sang bờ Bắc truyền thông: “Tổng thống Việt Nam Cộng hoà cho dựng cột cờ cao 30m ở Vĩ tuyến 17 để dân chúng miền Bắc thấy rõ chánh nghĩa Quốc gia”.Tháng 7 – 1957, Tổng Công ty tư vấn du học lắp máy Việt Nam đã gia công một cột cờ bằng thép ống cao 34,5m tại Hà Nội rồi vận tải vào giới tuyến. Trên đỉnh cột cờ gắn một người nổi tiếng bằng đồng có đường kính 1,2m, 5 đỉnh người nổi tiếng gắn một chùm bóng điện loại 500W, lá cờ rộng 108m2.Chính quyền Việt Nam Cộng hòa hoàn toàn ngạc nhiên trước sự kiện này nên vội vàng tôn cột cờ của họ lên 35m và lên giọng: “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa muốn chọi cờ nhưng chọi sao nổi với Quốc gia”.Năm 1962, thêm một lần nữa, Tổng Công ty tư vấn du học lắp máy Việt Nam gia công một cột cờ cao 38,6m rồi chuyển vào dựng ở Hiền Lương, kéo lên lá cờ đại 134m2, nặng 15kg, cách đỉnh 10m có một cabin để chiến sĩ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đứng treo và thu cờ. Cột cờ này được xem là cột cờ cao nhất giới tuyến. Mỗi ngày, các người lính an ninh Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kéo cờ lên sớm hơn và hạ cờ xuống muộn hơn giờ quy định (6h30’ đến 18h30’) để cho những người đi làm sớm, về muộn cũng nhìn thấy được lá cờ đỏ sao vàng cất cánh phấp phới bên cạnh đối thủ. Người dân ở xa hàng chục cây số vẫn nhìn thấy rõ lá cờ Tổ quốc ở bờ Bắc. Nếu như trước đó người đi rừng, đi biển nhìn sao Bắc đẩu, thì nay họ nhìn vào ngọn cờ cao 38,6m này để tìm phương hướng.Theo ước tính, từ 19-5/1956 đến 28-10/1967, những người lính an ninh miền Bắc giới tuyến đã treo hết 267 lá cờ cỡ lớn[2]. Sau khoảng thời gian cột cờ bị bom Mỹ đánh gãy vào năm 1967, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thêm 11 lần dựng cờ bằng gỗ cao 12 – 18m, 42 lần lá cờ bị bom phá hỏng.Cờ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa treo cao hơn lúc nào cũng đập vào mắt lực lượng an ninh Việt Nam Cộng hòa làm họ phải luôn tìm cách phá hoại. Khi Mỹ tìm cách phá hoại bằng không quân so với miền Bắc, thì cột cờ Hiền Lương là mục tiêu đánh phá hàng đầu. Ngày 8-02-1965, tướng không quân của chính quyền Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Cao Kỳ đã lái chiếc máy cất cánh AD6 bắn phá cột cờ, nhưng pháo cao xạ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắn trả bị thương.Mặc dù Việt Nam Cộng hòa kêu gọi hàng trăm chiếc máy cất cánh ném bom và hàng vạn đạn pháo cỡ lớn từ Dốc Miếu, Cồn Tiên bắn ra, từ Hạm đội 7 ngoài biển bắn vào, nhưng vẫn không thể xóa được cái “chấm đỏ” này ở bắc cầu Hiền Lương. Đến ngày 2-8-1967, họ lại tập trung nhiều tốp máy cất cánh thay nhau đánh phá liên tục suốt ngày làm cho cột cờ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bị gãy và đánh sập cầu Hiền Lương. Tối hôm đó, loa của Việt Nam Cộng hòa truyền thông: “Cột cờ của Bắc Việt trên đầu cầu Hiền Lương đã bị không lực Hoa Kỳ đánh tan tành tro bụi”. Nhưng ngay đêm hôm đó, một cột cờ mới được dựng lên. Sáng ngày hôm sau, trong lúc loa Việt Nam Cộng hòa đang đọc bản tin thì lá cờ đỏ sao vàng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lại đã xuất hiện tung cất cánh trong nắng sớm. Cũng chính ngay đêm hôm đó, những người lính Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ôm bộc phá sang đánh gãy cột cờ ở bờNam, để chấm hết lá cờ của Việt Nam Cộng hòa trên khung trời giới tuyến.Cụm di tíchCũng bình thường như bao vùng đất khác ở khắp miền quốc gia, song đến khi hai miền bị chia cắt trong trận chiến (1954 – 1975) thì dòng sông Bến Hải và vùng đất đôi bờ trở nên nổi tiếng, được cả nước và cả toàn cầu biết tới. Đôi bờ Hiền Lương đã trở thành “nhân chứng lịch sử” trên 20 năm mang trên mình nỗi đau chia cắt quốc gia, nơi đã nhìn thấy cảnh tang tóc, đau thương nhưng vô cùng kiêu dũng kiên trung của nhân dân đôi bờ Nam – Bắc vì sự nghiệp tranh đấu thống nhất nước nhà. Cụm di tích gồm tại đôi bờ Hiền Lương: cầu Hiền Lương, sông Bến Hải, cột cờ ở bờ Bắc, nhà Liên hợp, Đồn công an giới tuyến, giàn loa phóng thanh, cụm tượng đài “Khát vọng thống nhất” ở bờ Nam, Nhà Bảo tàng Vĩ tuyến 17Đồn Công anTheo hiệp định Genève, dọc hai bên bờ sông giới tuyến quân sự tạm thời có 4 đồn công an đóng ở các nơi: Hiền Lương, Cửa Tùng (bờ Bắc), Xuân Hòa và Cát Sơn (bờNam).Đồn công an Hiền Lương nằm cạnh cầu phía Bắc gồm 3 khu nhà: 𝓐, Ɓ, Ͼ tạo thành chữ 𝒱. Nhà 𝓐 được xây dựng từ năm 1955. Đây là nơi đặt trụ sở lãnh đạo của công an bờ bắc. Mỗi nhà được dùng cho một mục đích khác nhau. Nhà Ɓ là nơi để ở và sinh hoạt của các chiến sỹ công an giới tuyến. Nhà Ͼ là nơi làm kho hậu cần. Đồn Hiền Lương có 2 tiểu đội (16 người) thuộc lực lượng công an vũ trang. Đây cũng là nơi để tiếp các đoàn khách quốc tế và khách trong nước…Đồn công an Cửa Tùng đóng ở bờ biển xã Vĩnh Quang (bờ Bắc) có nhiệm vụ kiểm tra ngư dân của hai bờ ra vào Cửa Tùng. Đồn có 16 người thuộc lực lượng công an vũ trang. Đồn Cát Sơn đóng ở làng Cát Sơn (bờ Nam), có 16 người thuộc lực lượng của công an Việt Nam Cộng hòa làm nhiệm vụ kiểm tra ngư dân 2 bờ ra vào. Đồn Xuân Hòa (bờNam) do công an Việt Nam Cộng hòa đóng. Đồn này tận dụng lại bốt cũ của thực dân Pháp xây năm 1954.Đến năm 1965, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì hệ thống đồn bốt dọc 2 bờ sông Bến Hải tan rã…Các đồn công an giới tuyến bên bờ bắc sông trong suốt 12 năm (1954 – 1965) là nơi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dùng để tố cáo sự vi phạm Hiệp định của Mỹ – Việt Nam Cộng hòa với Ủy hội Quốc tế đình chiến cùng tranh đấu với Việt Nam Cộng hòa về quy chế khu phi quân sự.[2]Một vụ được nhắc đến là vào năm 1963 tướng Nguyễn Chánh Thi của Quân lực Việt Nam Cộng hòa ra thăm cầu Hiền Lương. nhà chức trách Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khiếu nại là sự hiện diện của tướng Thi vi phạm Hiệp định Genève vì đây là vùng phi quân sự. Bên Việt Nam Cộng hòa phải giải thích là tướng Thi là đại biểu khu 11 chiến thuật, một chức vụ hành chánh chứ không ra với tư cách quân sự nên Ủy hội Quốc tế phải đồng ý.[5]Cầu Hiền LươngCầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải nằm trên Khu phi quân sự vĩ tuyến 17 được xem là biểu tượng của sự chia cắt hai miền Việt Nam trong quá khứ, đồng thời cũng là một biểu tượng oanh liệt về trận đấu tranh giành tự do, thống nhất tổ quốc mà nhân Việt Nam đã kiên trì tiến hành trong một thời kỳ lịch sử đặc biệt.

Bạn đang xem: cầu hiền lương sông bến hải

Cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải

 

Cầu Hiền Lương được phục chế nguyên bản

Cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải, tại thôn Hiền Lương, xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, Việt Nam. Cũng tại nơi đây, đã từng diễn ra những cuộc “chọi loa”, “chọi cờ” quyết liệt trong Chiến tranh Việt Nam[1][2]. Thời kỳ đó, cầu Hiền Lương là ranh giới chia cắt Việt Nam thành hai quốc gia (trong suốt 21 năm, từ năm 1954 đến năm 1975). Còn ngày nay nó đã trở thành biểu tượng của “nỗi đau chia cắt”.

Lịch sử xây dựng

Trước khi chưa có cầu bắc qua sông Bến Hải, đoạn sông rộng chưa đầy 100m[3] này chỉ có một bến phà. Cầu Hiền Lương trước hết được xây dựng năm 1928[1] do phủ Vĩnh Linh kêu gọi nhân dân trong vùng đóng góp sức. Cây cầu này được làm bằng gỗ, đóng cọc sắt, rộng 2m, trọng tải chỉ đủ cho người đi bộ. Năm 1931 cây cầu này được thực dân Pháp sửa chữa lại nhưng xe cộ muốn qua sông thì vẫn phải đi bằng phà. Năm 1943 cầu được nâng cấp thêm một lần nữa, lúc này xe cơ giới loại nhỏ có thể qua được.

Đến năm 1950, do nhu cầu quân sự, Pháp đã cho xây lại cầu bằng bê tông cốt thép, dài 162m, rộng 3,6m, trọng tải 10 tấn. Cây cầu này tồn tại được hai năm thì bị du kích Việt Minh đặt bộc phá đánh sập để ngăn chặn sự tiến công của địch. Tháng 5 1952 thực dân Pháp xây lại một chiếc cầu mới gồm 7 nhịp, dài 178m, trụ bằng bê tông cốt thép, dầm cầu bằng thép, mặt lát bằng gỗ thông, rộng 4m, hai bên có thành chắn cao 1,2m, trọng tải cầu tối đa là 18 tấn.

“Cầu chia làm hai phần, mỗi bên dài 89m, sơn hai màu khác nhau. Bờ Bắc gồm 450 tấm ván mặt cầu, bờNam444 tấm.”—Nhà văn Nguyễn Tuân[2]

Chiếc cầu này tồn tại được 15 năm (từ 1952 đến 1967) thì bị bom Mỹ đánh sập.

Từ 1972 đến 1974, để phục vụ chiến trường miền Nam, công binh Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam đã bắc chiếc cầu phao dã chiến cách cầu cũ 20m về phía Tây. Đến năm 1974 chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã cho xây dựng lại bằng bê tông cốt thép dài 186m, rộng 9m, có hành lang cho người đi bộ rộng 1,2m. Chính chiếc cầu này mang trong mình ý nghĩa như “Chiếc cầu thống nhất đất nước”.

Sau ngày hòa bình, cầu cũ ngày càng xuống cấp nghiêm trọng. Năm 1996, Bộ Giao thông Vận tải đã cho xây chiếc cầu mới dài 230m, rộng 11,5m, nằm về phía Tây cầu cũ[4]. Cầu mới được thi công bình công nghệ đúc đẩy – một phương pháp hiện đại nhất lần trước hết được ứng dụng tại ViệtNam. Năm 2001 chiếc cầu sắt năm 1952 – một chứng tích lịch sử của sự chia cắt quốc gia được phục chế lại nguyên bản theo thiết kế của chiếc cầu cũ bị bom Mỹ đánh sập năm 1967.

Ngày 18 tháng 5 năm 2003, tỉnh Quảng Trị đã tổ chức khánh thành công trình phục chế cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải, được khởi công tháng 4, 2002 với tổng số vốn đầu tư 6,5 tỷ đồng, cầu phục chế dài 182,97m gồm 7 nhịp, mặt lát gỗ lim.[1]

Lịch sử chia cắt Việt Nam

“        Cách một con sông mà đó thương đây nhớ

Chung một nhịp cầu mà duyên nợ cách xa ”

Năm 1954, sau thời điểm để thua trận quyết đấu kế sách Điện Biên Phủ, Pháp tán thành trao trả độc lập cho ViệtNamtheo Hiệp định Genève. Sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17 được chọn làm ranh giới chia ViệtNamthành hai vùng tập trung quân sự: Quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa rút về miền Bắc, quân đội Liên minh Pháp rút về miềnNam. Thoạt tiên việc chia thành hai vùng quân sự này vô nghĩa về lãnh thổ hay chính trị, và chỉ có giá trị trong vòng hai năm, từ năm 1954 đến năm 1956 rồi sau đó sẽ tổ chức cuộc tổng tuyển cử để hoàn toàn thống nhất quốc gia. Sau khoảng thời gian thiết lập ranh giới phi quân sự, theo hiệp định, quân đội Việt Minh từ miền Nam phải tập kết ra Bắc, quân đội Pháp từ miền Bắc phải tập kết vào Nam. Giữa hai quân đội là “Vùng phi quân sự” tính từ 5 ki-lô-mét từ mỗi bên Sông Bến Hải được sử dụng làm “vùng đệm” nhằm tránh sự xung đột (hoạt động thù địch) có thể xảy ra giữa hai quân đội.

Nhưng năm 1956, Ngô Đình Diệm, tổng thống Việt Nam Cộng hòa, với sự ủng hộ của Hoa Kỳ từ chối không tham gia cuộc tổng tuyển cử do đó sông Bến Hải tiếp tục chia cắt quốc gia và làm ly tán nhiều gia đình ở hai miền Việt Nam.

Khi xa gia đình mình ở miềnNam, người lính Việt Minh nghĩ rằng hai năm sau họ sẽ được sum họp với gia đình. Nhưng do sự từ chối tổ chức Tổng tuyển cử của Việt Nam Cộng hòa nên họ không chỉ bị xa nhà 2 năm mà lên đến 21 năm. Ngày nay, ở bờNamsông Bến Hải có một tượng đài với tên gọi: “Khát vọng thống nhất non sông”. Tượng đài có kiểu dáng của một thiếu phụ đang đứng ở bờNamsông Bến Hải nhìn về phía Bắc để tưởng nhớ những ngày tháng đau thương khi họ không thể vượt sông để gặp chồng và người thân.

Tuy nhiên trong thời gian chia cắt vẫn có những vụ trao đổi nhân viên giữa hai miền như vào ngày 19 tháng 3 năm 1965 một nhóm người hoạt động cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam như Tôn thất Dương Kỵ và Phạm Văn Huyến bị Việt Nam Cộng hòa tống xuất ra miền Bắc qua cầu Hiền Lương.[5][6]

“Cuộc chiến màu sắc”

Trong sự tranh chấp chính trị giữa hai bên, trong đó nổi bậc là trào lưu tranh đấu chính trị đòi hiệp thương Tổng tuyển cử thống nhất quốc gia của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và những người cộng sản Nam Việt Nam, cây cầu Hiền Lương và dòng sông Bến Hải bị cuốn vào cuộc tranh chấp vì đây là nơi giáp mặt của hai chính quyền đối lập. Ở đoạn giữa cầu có một vạch trắng kẻ ngang, rộng 1cm được dùng làm ranh giới. Thoạt đầu Việt Nam Cộng hòa chủ động sơn một nửa cầu phía nam thành màu xanh, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa liền sơn tiếp màu xanh một nửa cầu sót lại. Sau Việt Nam Cộng hòa lại chuyển sang màu nâu thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng sơn lại màu nâu. Cứ như vậy, cầu Hiền Lương luôn thay đổi màu sắc, hễ Việt Nam Cộng hòa sơn một màu khác đi để tạo ra hai màu đối lập thì ngay mau lẹ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa liền sơn lại cho giống. Cuối cùng vào năm 1975, cây cầu chung một màu xanh thống nhất. Hành động sơn màu cầu là một cách tranh đấu chính trị nhằm nói lên khát vọng thống nhất quốc gia của VNDCCH.

“Cuộc chiến âm thanh”

2 loa công suất 500W có đường kính rộng 1,7m tại Nhà trưng bày Vĩ tuyến 17

Đồn công an giới tuyến

“        Vĩ tuyến 17 – nơi “trưng bày” sự man rợ đến tột cùng của đế quốc Mỹ và lòng dũng cảm đến mức thần thánh của nhân dân Việt Nam.”—Nhà điện ảnh Thụy Điển Gerald Evans[1]

Những năm 1954-1964 là thời kỳ không còn tiếng súng ở đôi bờ giới tuyến, song trận chiến bằng tiếng nói đã diễn ra ở đây rất stress và quyết liệt giữa hai phe đối lập.

Lúc đầu, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho xây dựng một hệ thống loa phóng thanh được phân bố thành 5 cụm trong chiều dài 1.500m ở bờ Bắc, mỗi cụm gồm 24 loa có công suất 25W.

Sau những ngày phát sóng trước hết, hệ thống loa phóng thanh này không thể át được các loa do Tây Đức, Úc phân phối phát với tiếng động to hơn của chính quyền Việt Nam Cộng hoà. Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trả đũa bằng cách tăng thêm 8 loa có công suất 50W và 1 loa có công suất 250W được viện trợ từ Liên Xô. Trái lại chính quyền Việt Nam Cộng hòa được Mỹ viện trợ cho những loại loa tối tân hơn, vang xa hàng chục cây số.

Vào thời điểm đầu năm 1960, một giàn loa của Mỹ với công suất của mỗi loa lên tới hàng trăm oát được chuyển đến và đặt tại bờNamsông Bến Hải. Lúc bấy giờ chính quyền Việt Nam Cộng hoà tuyên bố: “Hệ thống loa “nói vỡ kính” này sẽ vang tận Quảng Bình, dân bờ Bắc sẽ nghe rõ tiếng nói của “chánh nghĩa Quốc gia”!” Không chịu thua, lúc bấy giờ chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã lắp đặt chiếc loa có công suất 500W với đường kính rộng đến 1,7m và bổ sung thêm 20 loa loại 50W, 4 loa loại 250W của Liên Xô tại chiến tuyến Bến Hải. Khi thuận gió, tiếng loa có thể truyền xa hơn 10km.

Để có đủ điện cho hệ thống loa có tổng công suất 7.000W này hoạt động, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phải xây dựng một đường dây cao thế 6KVA dài gần 10km, kéo dài từ thôn Tiên An, Vĩnh Sơn đến thông Tùng Luật, Vĩnh Giang. Ngoài ra, còn tồn tại một trạm cao tần đặt tại Liêm Công Phường cách cầu Hiền Lương 2,5km về phía bắc để tăng âm cho hệ thống loa.

Cuộc “đấu khẩu” giữa hai phía qua hệ thống loa là những lời tuyên truyền chính trị chỉ trích đối phương, thường là những tin không có lợi hoặc có thể trái ngược với tình trạng. Mỗi ngày buổi phát thanh kéo dài 14-15 tiếng đồng hồ, có khi phát vào lúc 1 – 2 giờ sáng, mở với công suất tối đa làm người dân cả hai bờ đều nghe thấy.

Vào thời kỳ 1954 – 1964, ở đôi bờ Bến Hải vang vọng trong ký ức của một giọng ca ngọt ngào, truyền cảm của nghệ sĩ Châu Loan của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với những bài thơ, bài hò do nghệ sĩ trổ tài rất biểu cảm:

“Chim xa rừng còn thương cây nhớ cội

Thiếp xa chàng ngày đợi đêm trông

Trong đồn chàng có nhớ thiếp không?

Ngoài này thiếp vẫn chờ mong chàng về”[2]

Cuộc “chọi cờ”

Cột cờ giới tuyến ở bờ Bắc (hiện tại)

Người vá cờ Hiền Lương

Theo quy định của hiệp định Genève, toàn bộ các đồn công an giới tuyến phải treo cờ mỗi ngày[2]. Treo cờ là chuyện bình thường, song “chọi cờ” mới là chuyện “quốc gia đại sự” đã từng xảy ra ở hai cột cờ ở hai đầu cầu Hiền Lương và kéo dài hàng chục năm.

Lúc đầu, vào năm 1954 – 1956, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho làm một cột cờ bằng cây phi lao cao 12m để treo một lá cờ có khổ 3,2m Ҳ 4,8m. Ở bờNam, Pháp cắm cờ tam tài lên nốc lô cốt Xuân Hoà ở bờNamcao 15m. Theo yêu cầu của nhân dân giới tuyến, cờ của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải cao hơn cờ của đối thủ nên những người lính của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã vào rừng sâu để tìm bằng được một cây gỗ cao 18m, cao hơn cột cờ của Pháp 3m và treo một lá cờ bằng vải sa tanh rộng 24m.

Ngay sau đó, Ngô Đình Diệm đã cho dựng một trụ cờ bằng xi măng cốt thép cao 30m tại bờNam. Trên đỉnh treo một lá cờ vàng ba sọc đỏ lớn, có hệ thống đèn nê-ông nhấp nháy đủ màu. Khi dựng cờ xong, loa chiến tranh tâm lý hướng sang bờ Bắc truyền thông: “Tổng thống Việt Nam Cộng hoà cho dựng cột cờ cao 30m ở Vĩ tuyến 17 để dân chúng miền Bắc thấy rõ chánh nghĩa Quốc gia”.

Tháng 7 – 1957, Tổng Công ty tư vấn du học lắp máy Việt Nam đã gia công một cột cờ bằng thép ống cao 34,5m tại Hà Nội rồi vận tải vào giới tuyến. Trên đỉnh cột cờ gắn một người nổi tiếng bằng đồng có đường kính 1,2m, 5 đỉnh người nổi tiếng gắn một chùm bóng điện loại 500W, lá cờ rộng 108m2.

Chính quyền Việt Nam Cộng hòa hoàn toàn ngạc nhiên trước sự kiện này nên vội vàng tôn cột cờ của họ lên 35m và lên giọng: “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa muốn chọi cờ nhưng chọi sao nổi với Quốc gia”.

Năm 1962, thêm một lần nữa, Tổng Công ty tư vấn du học lắp máy Việt Nam gia công một cột cờ cao 38,6m rồi chuyển vào dựng ở Hiền Lương, kéo lên lá cờ đại 134m2, nặng 15kg, cách đỉnh 10m có một cabin để chiến sĩ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đứng treo và thu cờ. Cột cờ này được xem là cột cờ cao nhất giới tuyến. Mỗi ngày, các người lính an ninh Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kéo cờ lên sớm hơn và hạ cờ xuống muộn hơn giờ quy định (6h30’ đến 18h30’) để cho những người đi làm sớm, về muộn cũng nhìn thấy được lá cờ đỏ sao vàng cất cánh phấp phới bên cạnh đối thủ. Người dân ở xa hàng chục cây số vẫn nhìn thấy rõ lá cờ Tổ quốc ở bờ Bắc. Nếu như trước đó người đi rừng, đi biển nhìn sao Bắc đẩu, thì nay họ nhìn vào ngọn cờ cao 38,6m này để tìm phương hướng.

Theo ước tính, từ 19-5/1956 đến 28-10/1967, những người lính an ninh miền Bắc giới tuyến đã treo hết 267 lá cờ cỡ lớn[2]. Sau khoảng thời gian cột cờ bị bom Mỹ đánh gãy vào năm 1967, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thêm 11 lần dựng cờ bằng gỗ cao 12 – 18m, 42 lần lá cờ bị bom phá hỏng.

Cờ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa treo cao hơn lúc nào cũng đập vào mắt lực lượng an ninh Việt Nam Cộng hòa làm họ phải luôn tìm cách phá hoại. Khi Mỹ tìm cách phá hoại bằng không quân so với miền Bắc, thì cột cờ Hiền Lương là mục tiêu đánh phá hàng đầu. Ngày 8-02-1965, tướng không quân của chính quyền Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Cao Kỳ đã lái chiếc máy cất cánh AD6 bắn phá cột cờ, nhưng pháo cao xạ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắn trả bị thương.

Mặc dù Việt Nam Cộng hòa kêu gọi hàng trăm chiếc máy cất cánh ném bom và hàng vạn đạn pháo cỡ lớn từ Dốc Miếu, Cồn Tiên bắn ra, từ Hạm đội 7 ngoài biển bắn vào, nhưng vẫn không thể xóa được cái “chấm đỏ” này ở bắc cầu Hiền Lương. Đến ngày 2-8-1967, họ lại tập trung nhiều tốp máy cất cánh thay nhau đánh phá liên tục suốt ngày làm cho cột cờ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bị gãy và đánh sập cầu Hiền Lương. Tối hôm đó, loa của Việt Nam Cộng hòa truyền thông: “Cột cờ của Bắc Việt trên đầu cầu Hiền Lương đã bị không lực Hoa Kỳ đánh tan tành tro bụi”. Nhưng ngay đêm hôm đó, một cột cờ mới được dựng lên. Sáng ngày hôm sau, trong lúc loa Việt Nam Cộng hòa đang đọc bản tin thì lá cờ đỏ sao vàng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lại đã xuất hiện tung cất cánh trong nắng sớm. Cũng chính ngay đêm hôm đó, những người lính Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ôm bộc phá sang đánh gãy cột cờ ở bờNam, để chấm hết lá cờ của Việt Nam Cộng hòa trên khung trời giới tuyến.

Cụm di tích

Cũng bình thường như bao vùng đất khác ở khắp miền quốc gia, song đến khi hai miền bị chia cắt trong trận chiến (1954 – 1975) thì dòng sông Bến Hải và vùng đất đôi bờ trở nên nổi tiếng, được cả nước và cả toàn cầu biết tới. Đôi bờ Hiền Lương đã trở thành “nhân chứng lịch sử” trên 20 năm mang trên mình nỗi đau chia cắt quốc gia, nơi đã nhìn thấy cảnh tang tóc, đau thương nhưng vô cùng kiêu dũng kiên trung của nhân dân đôi bờ Nam – Bắc vì sự nghiệp tranh đấu thống nhất nước nhà. Cụm di tích gồm tại đôi bờ Hiền Lương: cầu Hiền Lương, sông Bến Hải, cột cờ ở bờ Bắc, nhà Liên hợp, Đồn công an giới tuyến, giàn loa phóng thanh, cụm tượng đài “Khát vọng thống nhất” ở bờ Nam, Nhà Bảo tàng Vĩ tuyến 17

Đồn Công an

Theo hiệp định Genève, dọc hai bên bờ sông giới tuyến quân sự tạm thời có 4 đồn công an đóng ở các nơi: Hiền Lương, Cửa Tùng (bờ Bắc), Xuân Hòa và Cát Sơn (bờNam).

Đồn công an Hiền Lương nằm cạnh cầu phía Bắc gồm 3 khu nhà: 𝓐, Ɓ, Ͼ tạo thành chữ 𝒱. Nhà 𝓐 được xây dựng từ năm 1955. Đây là nơi đặt trụ sở lãnh đạo của công an bờ bắc. Mỗi nhà được dùng cho một mục đích khác nhau. Nhà Ɓ là nơi để ở và sinh hoạt của các chiến sỹ công an giới tuyến. Nhà Ͼ là nơi làm kho hậu cần. Đồn Hiền Lương có 2 tiểu đội (16 người) thuộc lực lượng công an vũ trang. Đây cũng là nơi để tiếp các đoàn khách quốc tế và khách trong nước…

Đồn công an Cửa Tùng đóng ở bờ biển xã Vĩnh Quang (bờ Bắc) có nhiệm vụ kiểm tra ngư dân của hai bờ ra vào Cửa Tùng. Đồn có 16 người thuộc lực lượng công an vũ trang. Đồn Cát Sơn đóng ở làng Cát Sơn (bờ Nam), có 16 người thuộc lực lượng của công an Việt Nam Cộng hòa làm nhiệm vụ kiểm tra ngư dân 2 bờ ra vào. Đồn Xuân Hòa (bờNam) do công an Việt Nam Cộng hòa đóng. Đồn này tận dụng lại bốt cũ của thực dân Pháp xây năm 1954.

Đến năm 1965, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì hệ thống đồn bốt dọc 2 bờ sông Bến Hải tan rã…

Các đồn công an giới tuyến bên bờ bắc sông trong suốt 12 năm (1954 – 1965) là nơi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dùng để tố cáo sự vi phạm Hiệp định của Mỹ – Việt Nam Cộng hòa với Ủy hội Quốc tế đình chiến cùng tranh đấu với Việt Nam Cộng hòa về quy chế khu phi quân sự.[2]

Một vụ được nhắc đến là vào năm 1963 tướng Nguyễn Chánh Thi của Quân lực Việt Nam Cộng hòa ra thăm cầu Hiền Lương. nhà chức trách Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khiếu nại là sự hiện diện của tướng Thi vi phạm Hiệp định Genève vì đây là vùng phi quân sự. Bên Việt Nam Cộng hòa phải giải thích là tướng Thi là đại biểu khu 11 chiến thuật, một chức vụ hành chánh chứ không ra với tư cách quân sự nên Ủy hội Quốc tế phải đồng ý.[5]

Cầu Hiền Lương

Cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải nằm trên Khu phi quân sự vĩ tuyến 17 được xem là biểu tượng của sự chia cắt hai miền Việt Nam trong quá khứ, đồng thời cũng là một biểu tượng oanh liệt về trận đấu tranh giành tự do, thống nhất tổ quốc mà nhân Việt Nam đã kiên trì tiến hành trong một thời kỳ lịch sử đặc biệt.


Xem thêm những thông tin liên quan đến đề tài cầu hiền lương sông bến hải

Câu Hò Bên Bờ Hiền Lương – NSND Thu Hiền [Official MV]

alt

  • Tác giả: Nhạc Cách Mạng Tiền Chiến
  • Ngày đăng: 2016-01-24
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 5775 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Câu Hò Bên Bờ Hiền Lương – NSND Thu Hiền
    Những Bài Hát Hay Nhất:https://goo.gl/VcdKsJ
    Nhạc Đỏ Trữ Tình Quê Hương:https://goo.gl/29b7nt
    Tình Ca Tây Bắc Hay Nhất:https://goo.gl/TTVzMq
    Official MV Tuyển Chọn:https://goo.gl/AL54eX
    Tuyển Chọn Nhạc Đỏ Trữ Tình:https://goo.gl/ZWTToR
    NSND Thu Hiền – Official MV:https://goo.gl/NqEVws
    Tuyển Tập Nhạc Cách Mạng Chọn Lọc:https://goo.gl/5vo6hD
    Nhạc Đỏ Trữ Tình Hay Nhất:https://goo.gl/99mZ3l
    Album Nhạc Đỏ Bất Hủ:https://goo.gl/IciM2i
    Official MV Hay Nhất:https://goo.gl/UI0n2L
    Nhạc Cách Mạng Hay Nhất:https://goo.gl/WH3LcB

    ▶ Theo dõi kênh Nhạc Cách Mạng Tiền Chiến: https://goo.gl/asFAPL

    Lời Bài Hát:
    Bên ven bờ Hiền Lương chiều nay ra đứng trong về
    Mắt đượm tình quê đôi mắt đượm tình quê
    Xa xa đoàn thuyền nam buồm căng theo gió xuôi dòng
    Bỗng trong sương mờ không gian trầm lặng nghe câu hò
    Hò ơi, ơi thuyền ơi, thuyền ơi có nhớ bến trăng
    Bến thường một dạ một mực đợi thuyền
    Nhắn ai xin giữ câu nguyền trong cơn lốc tố
    Vẫn bền lòng son
    Ơi câu hò chiều nay sao nghe nặng tình ai
    Hay là anh bên ấy trong phút giây nhớ nhung trào sôi
    Gởi niềm tin theo gió qua mấy câu thiết tha hò ơi
    Hò ơi, ơi dù cho dù cho bến cắt sông ngăn
    Dễ gì chặn được duyên em với chàng
    Se mây cho sáng trăng vàng
    Khái son nỗi bến cho nàng về anh
    Ơi câu hò chiều nay tôi mang nặng tình ai
    Nơi miền quê xa vắng anh có nghe thấu chăng lòng em
    Tình này ta xây đắm nên thủy chung không lúc nào phai
    ——————-
    ► Copyright © 2015 BH Media Corp

Cầu Hiền Lương – sông Bến Hải

  • Tác giả: tripzone.vn
  • Nhận xét: 5 ⭐ ( 9677 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm:

Cầu Hiền Lương Biểu tượng khát vọng thống nhất non sông

  • Tác giả: baoninhbinh.vn
  • Nhận xét: 5 ⭐ ( 5484 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Cầu Hiền Lương là trung tâm của cụm Di tích lịch sử Đôi bờ Hiền Lương-Bến Hải, được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam. Cầu nằm ngay trên vĩ tuyến 17, bắc qua sông Bến Hải, đoạn chảy qua thôn Hiền Lương, xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Trong kháng chiến chống Mỹ, cầu Hiền Lương là ranh giới chia cắt Việt Nam thành hai miền Bắc -Nam.

Di tích Quốc gia đặc biệt Đôi bờ Hiền Lương – Bến Hải

  • Tác giả: ipa.quangtri.gov.vn
  • Nhận xét: 5 ⭐ ( 6745 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Di tích Đôi bờ Hiền Lương – Bến Hải là một trong bốn Di tích quốc gia đặc biệt của tỉnh Quảng Trị,  là tên gọi cho Cụm di tích ở hai bên bờ sông Bến Hải, cầu…

Du lịch Cầu Hiền Lương

  • Tác giả: lendang.vn
  • Nhận xét: 5 ⭐ ( 7455 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Sông Bến Hải với hình ảnh đẹp về một dòng sông quê hương, về sự bình yên. Thế nhưng dòng sông lại từng phải mang trong mình nỗi uất hận, oằn mình chịu cảnh chia cắt quê hương, chia cắt quốc gia; một dòng sông bị xẻ làm đôi 2 bờ giới tuyến. Con Sông…

Cầu Hiền Lương, sông Bến Hải thuộc tỉnh nào?

  • Tác giả: vnexpress.net
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 9287 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Tỉnh này là một trong những chiến trường ác liệt nhất trong suốt 20 năm kháng chiến chống Mỹ (1954-1975). – VnExpress

Di Tích Cầu Hiền Lương và sông Bến Hải – Quá khứ và hiện tại.

  • Tác giả: www.vntrip.vn
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 4004 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Di tích cầu Hiền Lương – sông Bến Hải là một minh chứng lịch sử hào hừng của dân tộc, vẻ vang. Trải qua cuộc kháng chiến kịch liệt và cho đến hiện tại nơi đây phát triển, thay da đổi thịt

Xem thêm các nội dung khác thuộc thể loại: giải trí