Đô thị cổ Hội An – Quá trình hình thành, phát triển, suy thoái. – đô thị cổ hội an

MỞ ĐẦU Hội An, một trong những đô thị thượng cổ nhất của Việt Nam, có bề dày lịch sử khoảng năm trăm năm, xứng đáng được phân tích thật sâu sắc về bản chất, lịch

Bạn đang xem: đô thị cổ hội an

CLB Sử Học Trẻ Việt Nam
 

Trang ChínhĐăng kýĐăng Nhập

DIỄN ĐÀN SỬ HỌC TRẺ – Điểm hẹn của những người thích thú Sử học từ khắp mọi miền Tổ quốc.

ChauTienLoc

 (823)

Khánh Trang

 (743)

Thành Hưng

 (585)

Thanhsamkhach

 (511)

fudo85

 (394)

tyt_nnl_3994

 (346)

nh0c_0nlin3_92

 (296)

Vuhoangsonhn

 (235)

anvi_than

 (217)

Nam_Thuan

 (193)

Most Viewed Topics

ĐỀ CƯƠNG LỊCH SỬ VIỆT NAM (1919-2000) – ÔN THI TSĐH & HSG…TÀI LIỆU BDHSG MÔN LỊCH SỬ 12 – PHẦN LSTG (Từ năm 1945 đến 2000) ĐĂNG KÝ THÀNH VIÊN CHÍNH THỨC CLB SỬ HỌC TRẺTỔNG HỢP ĐỀ CƯƠNG LỊCH SỬ KHỐI 12 (Cả phần LSTG và LSVN)Tài liệu BDHSG môn Lịch sử (Phần lịch sử toàn cầu)Vai trò của Nguyễn Ái Quốc so với cách mạng Việt Nam thời kỳ trước 1930Đề cương ôn tập lịch sử 12 (full)Tấn công phủ đầu Trung Quốc trong xung đột ở biển ĐôngTÍNH ĐÚNG ĐẮN VÀ SÁNG TẠO CỦA CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CUẢ ĐẢNGĐề cương Sử 12 (Chuẩn và nâng cao) – Phần Lịch sử VN.


CLB Sử Học Trẻ Việt Nam :: VIỆT SỬ :: Lịch sử Việt Nam cổ – trung đại :: Từ TK XVI – đầu TK XVIII Share |  

  Đô thị cổ Hội An – Quá trình tạo dựng, phát triển, suy thoái.

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Đô thị cổ Hội An - Quá trình hình thành, phát triển, suy thoái. I_icon_minitimeSat Oct 22, 2011 8:13 pm

Sat Oct 22, 2011 8:13 pm


doducdung.hnue
Khoa Lịch sử, ĐHSP HN

ĐIỀU HÀNH VIÊN

doducdung.hnue


ĐIỀU HÀNH VIÊN

Họ & tên Họ & tên

Họ & tên

Đỗ Đức Dũng

Vai trò trong CLB Sử học Trẻ Vai trò trong CLB Sử học Trẻ

Vai trò trong CLB Sử học Trẻ

Ủy viên Ban điều hành Câu lạc bộ Sử học trẻ


Huy chương Cống hiến Huy chương Hiến dâng

Huy chương Hiến dâng

Đô thị cổ Hội An - Quá trình hình thành, phát triển, suy thoái. 42
Ngày tham gia Ngày tham gia

Ngày tham gia

07/05/2011

Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi

Tổng số bài gửi

111

Đến từ Tới từ

Tới từ

THPT Chuyên Hùng Vương – Phú Thọ

Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích

Sở trường/ Sở thích

Khoa Lịch sử, ĐHSP HN

Điểm thành tích Điểm thành tựu

Điểm thành tựu

176

Được cám ơn Được cám ơn

Được cám ơn

36

Bài gửiTiêu đề: Đô thị cổ Hội An – Quá trình tạo dựng, phát triển, suy thoái.

Tiêu đề: Đô thị cổ Hội An – Quá trình tạo dựng, phát triển, suy thoái.

 

MỞ ĐẦU
Hội An, một trong những đô thị thượng cổ nhất của Việt Nam, có bề dày lịch sử khoảng năm trăm năm, xứng đáng được phân tích thật sâu sắc về bản chất, lịch sử, khảo cổ học, văn hóa, các hoạt động kinh tế xã hội,… Đô thị cổ Hội An chiếm một khoảng trống gian chừng hai cây số vuông, thật nhỏ so với đô thị Gia Định bề thế, chỉ có bề dày lịch sử khoảng năm trăm năm, thật mỏng hơn nhiều so với Thăng Long – Hà Nội với hàng ngàn năm văn hiến, không có các quần thể di tích lịch sử khổng lồ và phong cảnh lãng mạn như cố đô Phú Xuân – Huế, vậy mà làm sao vùng đất thượng cổ này lại có sức vẫy gọi kỳ lạ đến như vậy, không những so với người dân mọi miền đất nướcViệt Nam mà cả so với các khách du lịch và các nhà phân tích ở nhiều quốc gia của các châu lục trên toàn cầu.
Hội An khác với các đô thị cổ trong nước ở chỗ, mặc dù trải qua khoảng bốn trăm năm với tính năng của một trung tâm ngoại thương nhưng vẫn duy trì được cho đến tận nay một tổng thể với hàng ngàn di tích lịch sử mang những nét đặc trưng của văn nghệ thiết kế đô thị Việt Nam. Đô thị cổ Hội An là một chứng cớ sinh động về sự tạo dựng và phát triển của các đô thị Việt Nam qua các thời kì, mang tính phổ quát của đô thị phương Đông nhiệt đới gió mùa. Đô thị cổ Hội An là một tập hợp các loại hình thiết kế đô thị cổ với một cơ cấu dân cư còn nguyên vẹn. Sự nguyên vẹn trong thiết kế đô thị đó vẫn được bảo tồn ở ba bình diện: hình thái đô thị, nhà cung cấp không gian thiết kế tức khu phố cổ và từng công trình thiết kế riêng rẽ. Đặc biệt, trong chính các ngôi nhà cổ hình ống đã được xây dựng cách đây hàng trăm năm, các thế hệ con cháu đời sau vẫn tiếp tục sống tiếp nối thế hệ cha ông của họ.
Đô thị cổ Hội An là như vậy, một tp đang sống, hiếm thấy trên hành tinh tất cả chúng ta. Bởi vậy, ngày nay đi giữa phố phường của các khu phố cổ, người ta cảm thấy lòng mình ấm cúng, cái xa xưa và cái hiện tại hòa quyện vào nhau trong cuộc sống hiện tại và trong tâm hồn của mỗi người dân nơi đây.
Để hiểu rõ hơn về đô thị cổ Hội An, tất cả chúng ta cùng nhìn lại quá khứ, tìm hiểu về quá trình tạo dựng, phát triển và suy thoái của đô thị này.
NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐÔ THỊ CỔ HỘI AN
1. Tình hình toàn cầu và khu vực có những chuyển biến có thúc đẩy đến sự tạo dựng và hưng khởi của đô thị cổ Hội An
Sau các cuộc Phát kiến địa lí (cuối thế kỷ XV – đầu thế kỷ XVI) giao lưu thương mại trên toàn cầu đã phát triển nhanh chóng. Thương nhân Châu Âu đã mở rộng và xúc tiến hơn nữa các hoạt động buôn bán với các nước phương Đông, trong đó khu vực Đông Nam Á và Đại Việt cũng là một nơi đến của các thương nhân Châu Âu.
Cùng thời gian này thương nhân các nước Đông Á như Trung Quốc, Nhật Bản cũng đẩy mạnh hoạt động buôn bán với các khu vực trong đó có các nước Đông Nam Á. Năm 1576, nhà Minh huỷ bỏ hải cấm, cho thương nhân xuất dương ra nước ngoài. Nhưng vẫn cấm giao dịch với Nhật một số mặt hàng, hầu hết là nguyên liệu. Tình hình đó, đã kéo theo việc Mạc Phủ cấp hộ chiếu cho các thuyền buôn, gọi là “Châu Ấn thuyền” vào năm 1592 để mở rộng quan hệ mậu dịch với các nước Đông Nam Á và những hàng của Trung Quốc ở thị trường này [2; 28], làm cho tình hình buôn bán các nước phương Đông sôi động hẳn lên.
Trước thúc đẩy của nền thương mại toàn cầu, đã tạo nên nhiều trung tâm buôn bán bên bờ biển đông nhằm thỏa mãn nhu cầu sản xuất và tiêu dùng hàng hóa với khối lượng lớn.
Hoàn cảnh toàn cầu và khu vực đã tạo điều kiện cho việc buôn bán giữa Đại Việt với các nước bên ngoài phát triển. Đây cũng là nền tảng cho sự tạo dựng và hưng khởi của các đô thị của Đại Việt, trong đó có đô thị Hội An.
2. Với vị trí thuận tiện đô thị cổ Hội An có điều kiện phát triển
Đô thị cổ Hội An nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn, thuộc vùng đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Nam. Phía Đông Đô thị cổ Hội An nối với biển Đông qua cửa Đại. Phía Nam giáp huyện Duy Xuyên, phía Tây giáp huyện Điện Bàn. Thông qua sông Thu Bồn, đô thị cổ Hội An nối với kinh đô Trà Kiệu, với khu thờ tự Mỹ Sơn ở thượng lưu, và thông qua các đường sông, đường bộ, nối với núi rừng giàu lâm thổ sản miền Tây. Hội An ở giữa vùng đồng bằng sung túc của xứ Quảng và giữ vị trí đầu mối giao thông thuận tiện với các thị trường trong nước và với hệ thống hàng hải quốc tế. Nhà buôn người Pháp Pierre Poivre đến Hội An và ghi lại: “Cảng thì sâu, tàu bè được an toàn. Nó rất thuận lợi đối với các thương nhân… Đường vào cảng này không khó đi, đó là một con sông lớn chảy qua tỉnh Chăm và bắt nguồn từ các vùng núi ở Lào” [2; 50-51].
Hội An là cửa ngõ của Đàng Trong, cũng như của Đại Việt thông thương với toàn cầu bên ngoài. “Hội An và các cảng kề cận khác đều nằm ở rìa bắc của mạng lưới hàng hải quốc tế và đóng vai trò trung gian giữa vùng biển Đông Á và Trung Hoa…, chúng đóng vai trò trung gian kép giữa vùng biển Đông Nam Á và Trung Hoa, cũng như giữa Nhật Bản và Trung Hoa” [2; 29]. Nhờ ở vào vị trí địa lý thuận tiện nên hàng hoá từ bốn phương trong nước tụ về thương cảng Hội An. Rồi lại chính từ thương cảng này, hàng hoá trong nước với những sản phẩm nổi tiếng như tơ, tằm, gốm, sứ, trầm hương, yến sào,… được thuyền buôn các nước chuyển tải đến nhiều nước Đông Á, Nam Á, Đông Nam Á và một số nước phương Tây.
Hàng hoá nước ngoài cũng từ Hội An được toả khắp mọi miền quốc gia. Thương thuyền của Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, các nước Đông Nam Á như Thái Lan, Philippin, Indonesia, Malaysia,… và một số nước Châu Âu như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh, Pháp thường xuyên qua lại buôn bán.
Với vị trí thuận tiện, Hội An trở thành một trung tâm giao lưu kinh tế rộng lớn, một đô thị – thương cảng có tầm cỡ quốc tế.
3. Quyết sách phát triển kinh tế ở Đàng Trong của các chúa Nguyễn
Có thể nhất định rằng, kinh tế công – thương nghiệp Đàng Trong thời kỳ từ thế kỷ XVII – XVIII phát triển một cách mạnh mẽ. Có nhiều nguyên nhân mang đến sự phát triển này, nhưng tất cả chúng ta không thể không nói đến một nguyên nhân trọng yếu và hầu hết là do chủ trương mở cửa, giao lưu buôn bán với nước ngoài của chính quyền Đàng Trong. Thế kỉ XVII – XVIII, các chúa Nguyễn một mặt ra sức củng cố chính quyền Đàng Trong mặt khác cũng rất lưu tâm phát triển kinh tế, đề ra những quyết sách mở cửa giao lưu buôn bán. Chính điều này đã tạo điều kiện thuận tiện cho việc buôn bán giữa Đàng Trong với các quốc gia bên ngoài, thu hút một số lượng lớn các thương nhân ở nhiều nước trên các khu vực khác nhau tập trung buôn bán. Sử cũ đã xác nhận về tác dụng của quyết sách thống trị cởi mởi của các chúa Nguyễn trong cuốι thế kỷ XVII: “Chợ không hai giá, không có chộm cướp. Thuyền buôn các nước đến, nhiều Trấn trở nên một nơi đô hội lớn” [2; 30]. Đây là một tiền đề, một nền tảng trọng yếu góp phần xúc tiến sự tạo dựng và phát triển hưng khởi của các đô thị trong đó có đô thị cổ Hội An.
4. Sự phát triển của kinh tế Đàng Trong trong thời kỳ thế kỷ XVI – XVIII
Nhờ mở cửa quan hệ buôn bán với nước ngoài mà kinh tế Đàng Trong trong những thế kỷ XVI – XVIII có bước phát triển mạnh mẽ.
Về nông nghiệp, xứ Quảng nằm trong khu vực nhiệt đới ôn hòa và trên một vùng đất đai màu mỡ, nhờ này mà nông nghiệp sản xuất được quanh năm, phân phối được các nông sản nhiều về số lượng và tốt về chất lượng; đồng thời, các sản vật lấy từ rừng và biển cũng dồi dào.
Về thủ công nghiệp, kinh tế thủ công nghiệp nhà nước và thủ công nghiệp dân gian đều phát triển mạnh. So với sản xuất thủ công nghiệp nhà nước, chúa Nguyễn lập nhiều xưởng đóng thuyền, đúc súng ở các nơi. Trong thời gian này, các Chúa Nguyễn đã cho đóng được nhiều loại thuyền lớn chuyên trở được khối khối lượng hàng hóa lớn. Nghề đóng thuyền phát triển là một trong những nền tảng cho nền thương mại biển phát triển. Mặt khác, để giải quyết được nhu cầu đóng thuyền, đúc súng, các chúa Nguyễn ở Đàng Trong cũng phải nhập khẩu nguyên vật liệu từ nước ngoài. Vì vậy, đây cũng là một trong những nền tảng tạo điều kiện cho thương cảng Hội An thêm sôi động.
Bên cạnh sản xuất thủ công nghiệp nhà nước, thủ công nghiệp dân gian cũng rất phát triển, với những nghề nghiệp phong phú, phong phú như: nghề làm gốm, sành, sứ, kéo tơ, dệt lụa, trạm trổ, làm đá, làm mộc, đúc chuông,… Trong các mặt hàng thủ công nghiệp, tơ lụa và đồ gốm sứ là những mặt hàng nổi tiếng nhất, có giá trị xuất khẩu cao. Giáo sư khảo cổ học Nhật Bản Hasabe Gakuji đã viết: “Các tàu buôn (Nhật Bản) đến Việt Nam mua tơ sống, hàng lụa, hương liệu và các tạp hóa, đồng thời còn mua một khối lượng đồ gốm sứ Việt Nam. Điều này có thể chứng minh bằng nhiều di vật còn nguyên vẹn hiện nay còn giữ ở Nhật Bản” và “Vào khoảng thế kỷ XVII, trong gia đình các thương gia giàu có và gia đình các phái Trà đạo đều còn giữ các đồ sứ Việt Nam” [12; 86].
Sự phát triển của thủ công nghiệp ở Đàng Trong thế kỷ XVII – XVIII, đã phân phối những mặt hàng đa đạng cho các trung tâm kinh tế, trong đó có đô thị Hội An, là nền tảng quan trong cho sự phát triển của đô thị này.
Bên cạnh sự phát triển của thủ công nghiệp, thế kỉ XVI – XVIII, thương nghiệp của Đàng Trong cũng phát triển sôi động và rộng khắp, cả nội thương và ngoại thương.
Trước hết, là sự phát trển của hệ thống chợ, tạo điều kiện cho việc trao đổi buôn bán giữa các vùng miền được đơn giản và trở nên tấp nập hơn. Mặt khác, việc buôn bán với thương nhân nước ngoài đã phát triển và mở rộng hơn hẳn so với những thế kỉ trước. Bên cạnh các thương nhân Châu Á thân thuộc còn tồn tại sự xuất hiện của các thương nhân Nhật Bản và Phương Tây, mặc dù chưa nhiều, chưa điều độ và liên tục, nhưng đã đánh dấu thời kì Đại Việt đi vào luồng giao lưu buôn bán quốc tế.
Trên dọc bờ biển của Đàng Trong trong thời kỳ này có hàng trục bến cảng vệ tinh cho Hội An hoạt động tích cực như Thanh Hà (thuộc Thuận Hóa), Cửa Hàn, Kỳ Hà, Tân Châu, Đề Gi, Hàm Thủy (Nước Mặn),… đã đóng góp nguồn hàng phong phú cho cảng thị Hội An để xuất khẩu ra nước ngoài hay bán ra cho Đàng Ngoài hoặc để lưu thông trong nội bộ Đàng Trong [12; 58].
Sự phong phú của các mặt hàng nông nghiệp, thủ công nghiệp và sự phát triển của thương mại là nền tảng trọng yếu cho sự ra đời và phát triển của đô thị cổ Hội An.
5. Tiền đề lịch sử cho sự ra đời và phát triển của đô thị cổ Hội An
Vùng đất Thuận Quảng có một lịch sử phát triển lâu dài. Trong suốt thời kỳ “tiền Hội An”, nơi đây từng tồn tại hai nền văn hóa lớn. Này là văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Champa. Di chỉ trước nhất của văn hóa Sa Huỳnh là phố Sa Huỳnh ở Quảng Ngãi bị cát vùi lấp, được các nhà khảo cổ người Pháp phát hiện. Chỉ riêng trong khu vực tp Hội An đã phát hiện được hơn 50 vị trí là di tích của nền văn hóa này, phần lớn tập trung ở những cồn cát ven sông Thu Bồn cũ. Đặc biệt, sự phát hiện hai loại tiền đồng Trung Quốc thời Hán, những hiện vật sắt kiểu Tây Hán… đã minh chứng ngay từ đầu Công nguyên, nơi đây đã khởi đầu có những giao dịch ngoại thương. Tiếp sau nền văn hóa Sa Huỳnh, từ thế kỷ II đến đến thế kỷ XV, dải đất miền trung Việt Nam là lãnh thổ của vương quốc cổ Chăm Pa.
Trải qua nhiều trận chiến tranh, vương quốc Champa bị Đại Việt đẩy dần về phía Nam. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông đem quân chinh phạt Champa, chiếm kinh đô Vijaya. Vua Lê lấy đất Vijaya nhập vào Chiêm Động, Cổ Lũy, lập một đạo mới gọi là đạo Quảng Nam [8; 133]. Vùng đất Hội An trở thành lãnh thổ của Đại Việt từ đó.
Năm 1985, trong Hội thảo Khoa học về Hội An lần thứ nhất, GS Trần Quốc Vượng cho rằng đã có một Chiêm cảng thời kì Champa là thời kì vàng son thứ nhất của Hội An. Vấn đề này được các nhà khoa học tiếp tục phân tích. Đến năm 1990, đã xác nhận có một Lâm Ấp phố nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn [2; 44]. Những vết tích đền tháp Chăm còn sót lại, những giếng nước Chăm, những pho tượng Chăm, những di vật của người Đại Việt, Trung Hoa, làm sáng tỏ giả thuyết nơi đây từng có một Lâm Ấp Phố với một cảng biển là Đại Chiêm phát triển hưng thịnh.
Đô thị cổ Hội An nằm ở Hạ Lưu sông Thu Bồn, nơi đây đã từng là một Lâm Ấp phố với cảng biển Đại Chiêm của vương quốc cổ Champa. Như vậy, ta có thể nhất định tiền thân của Hội An là cảng Đại Chiêm – thương cảng trọng yếu của Champa.
Yếu tố lịch sử là nền tảng trọng yếu cho sự ra đời và phát triển của đô thị cổ Hội An.

Chữ ký của

doducdung.hnue

Chỉ cần phải có niềm tin, sẽ không lúc nào là kết thúc hay vô vọng ! Bế tắc hay khởi đầu – là do chính bạn !
Dung.hnue

Đô thị cổ Hội An - Quá trình hình thành, phát triển, suy thoái. I_icon_minitimeSat Oct 22, 2011 8:14 pm

Sat Oct 22, 2011 8:14 pm


doducdung.hnue
Khoa Lịch sử, ĐHSP HN

ĐIỀU HÀNH VIÊN

doducdung.hnue


ĐIỀU HÀNH VIÊN

Họ & tên Họ & tên

Họ & tên

Đỗ Đức Dũng

Vai trò trong CLB Sử học Trẻ Vai trò trong CLB Sử học Trẻ

Vai trò trong CLB Sử học Trẻ

Ủy viên Ban điều hành Câu lạc bộ Sử học trẻ


Huy chương Cống hiến Huy chương Hiến dâng

Huy chương Hiến dâng

Đô thị cổ Hội An - Quá trình hình thành, phát triển, suy thoái. 42
Ngày tham gia Ngày tham gia

Ngày tham gia

07/05/2011

Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi

Tổng số bài gửi

111

Đến từ Tới từ

Tới từ

THPT Chuyên Hùng Vương – Phú Thọ

Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích

Sở trường/ Sở thích

Khoa Lịch sử, ĐHSP HN

Điểm thành tích Điểm thành tựu

Điểm thành tựu

176

Được cám ơn Được cám ơn

Được cám ơn

36

Bài gửiTiêu đề: Re: Đô thị cổ Hội An – Quá trình tạo dựng, phát triển, suy thoái.

Tiêu đề: Re: Đô thị cổ Hội An – Quá trình tạo dựng, phát triển, suy thoái.

 

Chương 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ SUY THOÁI CỦA ĐÔ THỊ CỔ HỘI AN
1. Quá trình tạo dựng đô thị cổ Hội An
Từ thế kỷ XV, Quảng Nam mới là vùng đất sống của dân cư Việt. Làng mạc ban đầu còn ít, dân cư thưa thớt. Đến thế kỷ XVI, cả vùng đất phía bắc sông Thu Bồn có 66 làng, trong đó vùng Hội An đã xuất hiện làng Cẩm Phô và Hoài Phô và làng chài Võng Nhi ra đời từ cuối thế kỷ XV [2; 44-45]. Những làng nông nghiệp, làng ngư dân sống bên sông Thu Bồn là điều kiện thuận tiện cho phố cảng Hội An ra đời và phát triển.
Sau thời điểm thuộc lãnh thổ Đại Việt, Hội An dần phát triển và trở thành một thương cảng nổi tiếng ở Đàng Trong. Những năm 30 của thế kỷ XVI, khu vực Hội An đã có sự phát triển khá sôi động. Năm 1535, thuyền trưởng tàu Albuquerque của Bồ Đào Nha là Antonic de Faria ghé lại vùng biển Đà Nẵng – Hội An, ông thấy “một thành phố có tường bao quanh gần 10.000 nóc nhà. Đó là nơi neo đậu 40 chiếc thuyền buồm lớn… xung quanh có khoảng 2.000 thuyền buồm với nhiều kích thước khác nhau”. Thương gia người Bồ Đào Nha Ĵ. Buttinger cũng thừa nhận “kể từ năm 1540 Hội An đã là hải cảng chính trong xứ để hàng hóa ngoại quốc du nhập vào Cochinchine” (chỉ chung toàn thể Đại Việt) [2; 46].
Nửa sau thế kỷ XVI, trung tâm mậu dịch đối ngoại ở vùng Thuận Quảng đã chuyển ra Thuận Hóa – nơi Nguyễn Hoàng chọn làm dinh phủ. Nhưng thuyền buôn các nước Nhật Bản, Trung Quốc, Bồ Đào Nha,… vẫn đến buôn bán ở vùng biển Hội An, nhất là sau năm 1592 [2; 47].
Nhiều nhà phân tích gọi thời kỳ này là tiền thân của Hội An, nhưng vị trí của nó thì các tác giả có ý kiến trái ngược nhau. Căn cứ vào sự tích “Thập lão”, năm 1941 Nguyễn Thiệu Lâu nghĩ rằng vị trí Thập lão đến trước nhất chưa phải là Hội An và là Thăng Bình ở khu vực chợ Dược, cách Hội An 15 km về phía tây nam, sau đó chuyển xuống Trà Nhiêu; khi bến tàu Trà Nhiêu bị bồi lấp lại chuyển sang Thanh Hà. Sau này đường thủy Thanh Hà bị bồi lấp nên chuyển đến trung tâm thị xã Hội An hiện tại (lúc này là đất của các xã Cẩm Phô, Hội An và Cổ Trai) [2; 49].
Như vậy, trước khi có một Hội An thịnh đạt vào đầu thế kỷ XVII, ở đây đã có một thời kỳ “tiền Hội An” của Đại Việt thời Lê, Mạc và về sau là chúa Nguyễn thế kỷ XVI. Tiền Hội An là thời kỳ tiếp nối giữa Lâm Ấp phố của Champa với Hội An phố thời chúa Nguyễn ở hạ lưu sông Thu Bồn.
Cuối thế kỷ XVI, khi nền thương mại phương Tây đang ào ạt dồn về phương Đông và lệnh cấm vận của nhà Minh so với các nước Đông Nam Á được huỷ bỏ (1567), khi thương nhân Trung Quốc, Nhật Bản đã không chọn một nơi nào thuận tiện hơn Hội An để trao đổi hàng hóa, mậu dịch ở Hội An thịnh vượng hẳn lên.
Với quyết sách cởi mở của các chúa Nguyễn, không chỉ thương nhân Trung Quốc, Nhật Bản, các nước trong khu vực Đông Nam Á mà thương nhân các nước phương Tây như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan,… đã thường xuyên tới Hội An buôn bán. Đến cuối thế kỷ XVI, ở Hội An đã tạo nên những khu phố của thương gia nước ngoài, mà tiêu biểu là phố của người Nhật, người Hoa, hoạt động buôn bán ngày càng sôi động.
Thời điểm cuối thế kỷ XVI, với sự phát triển của kinh tế thủ công nghiệp, thương nghiệp, mà nổi trội là hoạt động ngoại thương, Hội An đã trở thành một đô thị thực thụ.
2. Sự phát triển của đô thị cổ Hội An thế kỷ XVII – XVIII
Hội An thường được người Châu Âu gọi là Faifoo, ra đời vào cuối thế kỷ XVI. Nhờ quyết sách mở cửa của các chúa Nguyễn mà đô thị Hội An đã phát triển cực thịnh trong các thế kỷ XVII – XVIII và khởi đầu suy thoái vào cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX, để lại dấu ấn vàng son rực rỡ một thời của một đô thị thượng cổ nhất của miền Trung Việt Nam.
Vào thời phát đạt nhất, không gian của cảng thị Hội An trải dọc ven hai bờ sông Thu Bồn, kéo dài từ ngã ba sông Câu Lâu – Chợ Cùi ở phía tây cho đến tận quần đảo Cù Lao Chàm ngoài biển ở phía đông, mở rộng từ các cồn cát thuộc xã Cẩm Châu, Cẩm Hà ở phía bắc cho đến nga ba sông Bà Rén – Thu Bồn và Trường Giang – Thu Bồn về phía nam [12; 20-21].
Trong suốt thời kỳ hưng thịnh, Hội An là một thương cảng sầm uất – điểm trung chuyển của đoạn đường tơ lụa và gốm sứ xuyên đại dương trong các thế kỷ XVII – XVIII giữa các nước phương Tây và phương Đông.
2.1. Hoạt động kinh tế ở Hội An
Dân cư Hội An có phòng ban lao động nông nghiệp, thủ công nghiệp và lưu thông hàng hóa, nhưng thương nghiệp là hoạt động kinh tế hầu hết của đô thị cổ Hội An.
2.1.1. Kinh tế thương nghiệp
* Hội An với thị trường trong nước
Với thị trường nội địa, Hội An là đầu mối thương nghiệp của đất Đàng Trong. Ghi chép cho thấy Hội An không chỉ là trung tâm thương nghiệp, trung tâm giao thông vận tải của một phủ huyện mà là liên phủ và cả vùng Đàng trong hòa nhập vào thị trường quốc tế.
Cảnh tấp nập của đô thị Hội An được nhà sư Trung Quố¢ Thích Đại Sán ghi lại vào thế kỷ XVII “Hội An là một đầu mã lớn, nơi tụ họp của khách hàng các nước… Hai bên đường, hàng phố ở liên nhau khít sịt, chủ phố hết thảy đều là người Phúc Kiến…” [9; 382].
Thế kỷ XVIII, cảnh tấp nập trên bến cảng Hội An cũng được Lê Quý Đôn ghi lại: “Phàm hóa vật sản xuất ở phủ Thăng Hoa, Điện Bàn, Quy Nhơn, Bình Khang và dinh Nha Trang, đường thủy, đường bộ, đi thuyền, đi bộ đều tụ tập ở bến Hội An, vì thế khách phương Bắc đều tụ tập ở đây để buôn bán về nước…”[2; 61].
Việc mua bán hàng hóa của Hội An còn góp phần tạo ra một số thị tứ. Thị tứ Tam Kỳ ở phía nam Thăng Hoa, Nước Mặn ở Quy Nhơn được tạo dựng trong thời gian này. Theo một số gia phả họ Ngụy, họ Mã…thì tổ tiên của họ từ phương bắc đã từng ở Hội An rồi chuyển cư về Nước Mặn. Ở đây họ làm nhiệm vụ chuyển hàng ra Hội An rồi ra đất Bắc. Sự xuất hiện của các thị tứ đô thị và nửa đô thị như Tam Kì, Nước Mặn tạo ra một quan hệ vừa có tính trợ giúp vừa bổ sung thường xuyên cho Hội An.
Nhìn chung, hoạt động nội thương ở Hội An rất phát triển, đây là nền tảng trọng yếu cho sự phát triển của ngoại thương.
* Hội An với ngoại thương Việt Nam
Hoạt động ngoại thương ở Hội An diễn ra tấp nập, với những mặt hàng xuất – nhập khẩu phong phú.
Các mặt hàng nhập khẩu: Hàng nhập khẩu ở Hội An nhiều nhất là hàng của Trung Quốc, bao gồm các sản phẩm thủ công tiêu dùng, mỹ nghệ, thuốc trị bệnh, các món ăn,… Lê Quý Đôn đã ghi lại các mặt hàng Trung Quốc bán ở Hội An “Hàng bán nhiều lời không ế đọng. Hàng mang đến thì sa đoạn, gấm vóc, vải, các vị thuốc, giấy vàng bạc, hương vòng, các thứ bồ giấy, kim tuyến, ngân tuyến, các thứ phẩm y phục, dày tốt, nhung, kính, pha lê, quạt giấy, bút, mực, các thứ đồ đồng, đồ sứ các loại; đồ ăn uống thì có các loại: lá chè, cam, chanh, lê, táo, bánh, miến, bột mì, trám muối, trứng muối, tương, đậu phụng, rau kim châm, mộc nhĩ, nấm hương, kẻ có, người không cùng nhau đổi trác, không ai là không thỏa được sở thích” [7; 182].
Như vậy, chỉ riêng hàng Trung Quốc nhập vào cũng thấy được sự phồn vinh của thị trường Hội An, phán ánh đời sống của nhân dân Đàng Trong đã phong phú, có nhiều thị hiếu thẩm mỹ.
Hàng Nhật ưa thích ở Hội An là các loại bạc nén, vải da, các loại ngọc, đồ mỹ nghệ, kim khâu. Ngoài ra, các chúa Nguyễn còn mua các mặt hàng thiết yếu như diêm tiêu, lưu huỳnh, đồng, sắt, thuốc súng,.. là những nguyên liệu để sản xuất vũ khí và đạn dượt và cả những vũ khí làm sẵn như áo giáp, bảo kiếm, trường đao,…[12; 24].
Hoạt động buôn bán với người phương Tây cũng rất sôi động. Một thương nhân phương Tây là Borri có nhận xét về sở thích người Đàng Trong “Họ rất dễ dàng ưa thích các đồ vậy kì lạ của xứ khác, kết quả là họ đánh giá và mua quá đắt nhiều đồ vật mà đối với nơi khác là ít giá trị, thí dụ như: lược, kim may, vòng đeo tay, hoa tai bằng trai và các đồ trang sức phụ nữ” [2; 63].
Hàng xuất khẩu: Một trong những thế mạnh của phố cảng Hội An là nằm ở địa phận có nhiều mặt hàng phong phú, từ các đặc sản nổi tiếng địa phương, hàng nông sản, các sản phẩm thủ công đến các mặt hàng lâm sản, hải sản nổi tiếng của Đàng Trong. Một thương nhân Trung Quốc thường xuyên buôn bán ở nước ta đã nói với Lê Quý Đôn: “Những thuyền từ Sơn Nam về chỉ mau được một thứ củ nâu, thuyền từ Thuận Hóa về mua có một thứ hồ tiêu, còn từ Quảng Nam về thì các món hàng hóa không có thứ gì là không có”. Hoặc “Hàng hóa nhiều lắm,dù trăm chiếc tàu to chở cùng một lúc cũng không hết” [7; 181].
Các mặt hàng xuất khẩu của Đàng Trong tại Hội An gồm có:
Hàng lâm sản: Trầm hương, tinh dầu thực vật, xạ hương, gỗ lim, gỗ mun, gỗ trắc (các loại thiết mộc), sùng tê giác, ngà voi, da hổ, dầu rái,…
Các loại thảo dược: Quế, hồi, hạt sen, mật ong, mật gấu, gặc nai, gân hươu, tô mộc, đậu khấu, sa nhân, thảo quả và những cây thuốc khác,…
Các hải sản: Ngọc trai, hải sâm, đồi mồi, xa cừ, hải mã, mực khô, tôm khô, rong biển, ốc hương, yến sào. Trong các mặt hàng hải sản, yến sào là mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao.
Các nông sản: Gạo, các loại đường (đường thẻ, đường phèn…), mật mía, bông, tiêu, thuốc lá, cau khô, các loại tơ tằm,…
Các loại khoáng sản: Vàng, các loại đá quý, hổ phách, hoạt thạch,…
Các sản phẩm thủ công nghiệp: Đồ gốm sứ, ấm trà, chóe, độc bình, chậu hoa với men xanh ngọc, lam ngà, ô liu, đồ gỗ điêu khắc, gương đồng [12; 28-29].
Nhìn chung, hoạt động xuất nhập khẩu ở Hội An diễn ra rất sôi động. không chỉ giữa các nước trong khu vực mà cả các nước phương Tây. Cảng thị Hội An trở thành điểm trung chuyển của đoạn đường tơ lụa và gốm sứ xuyên đại dương trong thế kỷ XVII – XVIII, giữa các nước phương Đông và phương Tây.
* Thương nhân trên đất cảng Hội An
Hội An là thương cảng quốc tế lớn ở Đàng Trong nên ngoài thương nhân người Việt, còn tồn tại thương nhân các nước phương Đông như Trung Quốc, Nhật Bản, Indonesia, Malaisia, Xiêm La, Miến Điện,…và thương nhân các nước phương Tây như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp,… Thương nhân mỗi khu vực, mỗi nước đều có vai trò và những yêu cầu nhất định so với thương trường Hội An, là lực lượng trọng yếu thúc đẩy làm cho Hội An phát triển thành trung tâm mậu dịch trọng yếu ở Đông Nam Á.
Thương nhân người Việt. Thương nhân người Việt bao gồm những tiểu thương, tiểu chủ, tầng lớp mại biện, các chủ cửa hiệu, quan lại, hoàng thân của các chúa Nguyễn. Họ là người điều khiển thị trường qua quyết sách, nhưng đa số là đội ngũ tiểu thương mua từ gốc, bán tại ngọn. Những người ít vốn mở cửa hiệu bán lẻ hoặc nhận hàng của chủ tiệm làm trung gian phân phối lưu thông. Những người có nhiều vốn nhất là dân làng Hội An, họ mua hàng tích trữ, đợi đến “mùa mậu dịch” bán cho thương nhân nước ngoài.
Tuy bị quyết sách ức thương của nhà nước kiềm chế nhưng bản thân nền kinh tế phát triển làm cho thương nhân trong nước ngày càng phát triển. Một số buôn bán sung túc trở thành các chủ ghe bầu đi Nam về Bắc, mở nhiều cửa hiệu buôn bán, tạo dựng khu “phố An Nam” hoạt động buôn bên cạnh phố Nhật và phố Khách thế kỷ XVII [2; 68].
Thương nhân người Việt là tầng lớp hoạt động rất tích cực ở thương trường Hội An trước khi ra nước ngoài, nhưng dần dần bị phụ thuộc vào nhà nước phong kiến và Hoa thương nên luôn bị kiềm chế và đối đầu.
Thương nhân Nhật Bản. Thương nhân Nhật Bản đến buôn bán ở Hội An khá sớm. Năm 1635, khi chính quyền Nhật cấm các thương thuyền xuất bến, nhưng các thương gia Nhật Bản vẫn lui tới Hội An buôn bán. Thương nhân người Nhật được chúa Nguyễn ưu tiên mua bán, lập phố xá, nhiều người giữ chức vụ trọng yếu ở ngạch ngoại thương. Thương nhân Nhật Bản đóng vai trò trọng yếu trong việc giao lưu hàng hóa giữa Nhật Bản – Đại Việt, góp phần phát triển thương trường và đô thị Hội An.
Thương nhân Trung Hoa. Thế kỷ XVI, người Hoa lẻ tẻ đến Hội An buôn bán. Nhưng khoảng đầu thế kỷ XVII, khi chúa Nguyễn cho phép lập phố Khách và phố Nhật, người Hoa đã quy tụ về phía tây của tp – khu vực làng Thanh Hà và Cẩm Phô. Sau năm 1635, khi người Nhật ở Hội An không được tăng cường và việc buôn bán giữa các cảng Nhật Bản với Hội An bị nghiêm cấm, Hoa thương dần giữ ưu thế ở Hội An. Giữa thế kỷ XVII, họ tiến về mua đất của làng Hội An để lập phố. Cùng với số Hoa thương được tăng cường từ lục địa mới sang, họ bành trướng dân số, đất đai và doanh thương ở Hội An. Họ nắm các đại lý xuất nhập khẩu, làm trung gian để trao đổi, tham gia quan chức của nhà nước và cho đấu thầu các hoạt động doanh thương.
Bên cạnh thương nhân các nước phương Đông, thương nhân nhiều nước phương Tây cũng đến Hội An buôn bán:
Thương nhân Bồ Đào Nha. Người Bồ Đào Nha đã tìm tòi ra thương trường Hội An từ nửa đầu thế kỷ XVI. Đầu thế kỷ XVII, người Bồ Đào Nha và Nhật Bản là thương nhân nước ngoài hầu hết của thị trường Hội An. Bồ Đào Nha không đặt thương điếm ở Hội An, họ chỉ sử dụng tầng lớp “mại biện” và cho đại diện ở lại mua hàng hóa trong những tháng “áp đông” để chuẩn bị cho mùa mậu dịch năm tới. Về sau tình hình buôn bán của Bồ Đào Nha ngày cảng tỏ ra bất lợi trên đất cảng Hội An và sự đối đầu của người sử dụng Trung Hoa, Nhật Bản, Hà Lan.
Thương nhân Hà Lan. Đầu thế kỷ XVII, thương nhân Hà Lan khởi đầu đến Hội An buôn bán. Đến năm 1636, thương điếm Hà Lan đã được thiết lập ở Hội An, do Abraham Dujeker phụ trách [2;72]. Sau thời điểm thiết lập thương điếm ở Hội An, thương nhân Hà Lan khởi đầu mở rộng thị trường ra Đàng Ngoài, bán vũ khí cho chúa Trịnh để hai chúa đánh nhau. Hành động “lái súng” của Hà Lan đã gây phản ứng mạnh mẽ của chính quyền Đàng Trong, chúa Nguyễn cho tịch thị hàng hóa, đóng cửa thương điếm Hà Lan tại Hội An. Việc buôn bán giữa Hà Lan với chúa Nguyễn đã kéo theo những xung đột nghiêm trọng không những trên bờ biển Quảng Nam mà quân Hà Lan còn link với quân Trịnh tấn công từ phía Quảng Bình. Mọi phấn đấu của Hà Lan và quân Trịnh đều không thành công, thương điếm của Hà Lan ở Hội An vĩnh viễn bị đóng cửa. Việc làm này của chúa Nguyễn đã cảnh cáo giới thương nhân phương Tây khi thực hiện ý đồ vật võ lực để can thiệp vào nội bộ, độc chiếm thị trường nước ta.
Thương nhân Anh. Năm 1600, Công ty tư vấn du học Đông Anh ra đời, đã đẩy mạnh hoạt động buôn bán ở phương Đông. Năm 1613, thương nhân Anh do Peacock đi đầu từ Harado (Nhật Bản) đến Hội An, mang theo quốc thư và lễ vật trình lên chúa Nguyễn xin đặt quan hệ giao thương. Mặc dù được chính quyền chúa Nguyễn tiếp đón tử tế nhưng bị giới thương nhân tại chỗ đối đầu, hành hung nên người Anh không dám mang thuyền đến buôn bán ở Hội An. Trong những năm tiếp theo, thương nhân Anh phấn đấu tiếp cận Hội An, nhưng do sự đối đầu kịch liệt của thương nhân các nước khác, nhất là thương nhân Pháp nên Anh rời bỏ thị trường Hội An, lo củng cố thế lực ở Ấn Độ.
Thương nhân Pháp. Trong số thương nhân phương Tây đến Hội An, Pháp là người đến sau, nhưng chuẩn bị rất chú đáo. Để tranh giành thuộc địa với Anh, thương nhân Pháp đến Hội An mang theo cả plan xâm lược và điều tra thêm tình hình để bổ xung cho dự án xâm lược đó.
Sau bản giải trình của Dumont năm 1748, y đề xuất cần phải chiếm Cù Lao Chàm trước cửa khẩu Hội An. Triều đình Pháp cử Pierre Poivre đến Đàng Trong để điều tra thêm tình. Sau một thời gian thâm nhập thực tiễn Pierre Poivre, đã có một bản phúc trình tỉ mỉ về đất Đàng Trong, nhất là về Hội An. Ông viết: “Đàng Trong không giàu nhưng cũng không khéo buôn bán. Người Trung Quốc chở đến cho họ hàng gì thì họ dùng hàng hóa đó… Ngoài ra có hàng hóa từ Cao Miên, Xiêm La mang đến. Thương cảng lớn nhất là Faifo. Thương cảng này sâu nên tàu thuyền cập bến dễ dàng và an toàn. Faifo là địa điểm thương mại quan trọng nhất Đàng Trong, có gần 6.000 người Trung Hoa là những nhà buôn lớn nhất” [2; 74]. Tuy nhiên, Poivre vẫn gặp những khó khăn trong giao dịch với Đàng Trong do quyết sách của nhà nước, tệ tham ô, nạn những nhiễu của quan lính, sự đối đầu của thương nhân nước ngoài. Poivre đề xuất lập một căn cứ quân sự ở Đà Nẵng. Những dự án xâm lược của Pháp ngày càng được bổ xung và trở thành thực tiễn lịch sử vào thế kỷ sau đó, khi chúng cho bắn loạt đại bác trước nhất vào Đà Nẵng, mở màn cuộc xâm lược nước ta (1858).
* Phương thức buôn bán ở Hội An
Phương thức buôn bán nổi trội nhất là việc tổ chức các phiên chợ kéo dài giữa hai kỳ gió mậu dịch trong năm. Hoạt động buôn bán theo “mùa vụ”, tấp nập nhất là vào tháng ba, tháng tư và tháng năm. Hàng hóa, thương khách, thuyền bè nhiều nước đến Hội An làm cho Hội An sôi động hẳn lên. Khi mưa lũ, bão tố đến, “mùa mậu dịch” đã mãn, khách thương ra về.
Ở Hội An, thương nhân mỗi nước có phương thức và plan buôn bán khác nhau. Thương nhân Hà Lan lập thương điếm để đặt nền tảng buôn bán lâu dài. Thương nhân Bồ ĐàO Nha lại thuê khách sạn, gian hàng hay mua bán trên khoang thuyền. Người Việt buôn bán nhỏ, buôn ghe bầu. Người Nhật, người Hoa lập phố, xây dựng Hội quán để buôn bán.
Một phương thức rất thông dụng ở Hội An là muốn có hàng năm tới, thương nhân nước ngoài thường giao mẫu hàng và ứng tiền trước, sử dụng hình thức “mãi biện” để thu mua hàng và bao mua, bao tiêu để có hàng tốt, rẻ. Thương nhân đến Hội An thường tổ chức quảng cáo, giới thiệu mặt hàng dưới hình thức quà tặng hay bán rẻ.
Ngoài ra, chính quyền chúa Nguyễn còn tồn tại biện pháp độc quyền thu mua. Hoa thương thì đầu cơ, vơ vét, link giảm giá hàng để đối đầu với các thương nhân khác.
2.1.2. Hoạt động kinh tế nông nghiệp và thủ công nghiệp ở Hội An
Kinh tế thương nghiệp là hoạt động chi phối toàn thể nền kinh tế ở thương trường Hội An. Song trên địa phận cư trú Hội An và vùng phụ cận vẫn có dân cư hoạt động nông nghiệp, ngư nghiệp, thủ công nghiệp.
* Kinh tế nông nghiệp
Ở các làng Hoa Phô, Cẩm Phô và Thanh Hà hoạt động kinh tế nông nghiệp vẫn được duy trì. Dân cư ở đây vẫn trồng lúa, mía, cây thuốc lá, cây ăn quả,… Ở các làng Hội An, Minh Hương, Đông An, Diêm Hộ không có đất sản xuất nông nghiệp, chỉ một ít tư thổ để làm nhà, dựng phố còn phần lớn là mọ địa và Thần từ Phật Tự. Nếu chiếu theo quy định “phi nông nghiệp” hay “không chủ yếu sống bằng nông nghiệp” làm tiêu chuẩn xác nhận đô thị thì Hội An và các làng kế cận, xét về mặt kết cấu kinh tế – dân cư đã đô thị hóa từ sớm và khá sâu sắc.
Ngoài ra, một số dân cư ở một số làng sống bằng ngư nghiệp, vận tải, hoặc khai thác, sơ chế hải sản như Đế Võng, Diêm Hộ, Võng Nhi,… cũng nhằm phục vụ cho thương trường Hội An.
* Các nghề thủ công nghiệp
Nghề khai thác yến sào: Yến sào là mặt hàng quý hiếm của Hội An, được nhiều thị trường tiêu thụ. Yến ở trong các hang đá của cụm đảo Cù Lao Chàm. Chúa Nguyễn đặt đội Thanh Châu có nhiệm vụ khai thác yến sào ở Cù Lao Chàm.
Nghề đóng ghe bầu: Ghe bầu là phương tiện vận tải chủ lực trên biển của dân cư vùng Thuận Quảng và gắn bó với thương cảng Hội An. Thời kỳ này người ta có thể đóng được những ghe có rộng 6 – 7 ɱ, dài 40 ɱ, có 3 buồm, trọng tải từ 50 đến 100 tấn [2; 78]. Nhiều thương nhân sung túc mua từ hai đến ba ghe bầu để đi buôn. Trên những chiếc ghe này họ có thể thực hiện những chuyến buôn xa ở Trung Quốc, Singapore, Xiêm La,…
Ngoài ra, thợ mộc Kim Bồng còn làm nhà, đóng đồ gỗ, làm các mỹ phẩm bằng gỗ và trạm khắc,… phục vụ cho việc xây dựng đô thị Hội An và bán sản phẩm ra nước ngoài.
Thợ gốm Thanh Hà khéo tay thường làm các đồ đựng, đồ nấu, tạo nhiều sản phẩm tốt bán ở Hội An. Trong các mặt hàng mua ở Hội An của thương nhân Nhật Bản, có cả đồ gốm được xản xuất tại chỗ.
Hội An và vùng phụ cận có sản xuất các loại đường, tơ sợi, đèn sáp, các loại bánh,… cũng nhằm phục vu cho trị trường Hội An.
Nhìn chung, Hội An có kết cấu kinh tế đa nghề, nhưng tính chất thương nghiệp đã chi phối và trở thành mục tiêu của các hoạt động kinh tế thủ công nghiệp, khai thác và sơ chế hải sản, vận tải – giao lưu hàng hóa. Điều đó chứng tỏ Hội An đã xác lập được một tiến trình đô thị hóa có tính chất lịch sử cơ bản và sâu sắc.
2.2. Vai trò của nhà nước so với đô thị cổ Hội An
Từ một chợ địa phương ra đời trong thế kỷ XVI, Hội An phát triển nhanh chóng, thỏa mãn yêu cầu trao đổi hàng hóa ở trong và ngoài nước. Điều đó không những do bản thân Hội An có ưu thế vị trí, điều kiện tự nhiên mà các nơi khác không thể sánh được mà còn do ý muốn của nhà nước phong kiến Đàng Trong. Nhà nước nắm độc quyền ngoại thương và quy định chặt chẽ so với người nước ngoài đến. Nhà nước vừa là điều kiện để Hội An phát triển, vừa là sức kìm hãm kéo theo Hội An suy tàn.
Dưới thời chúa Nguyễn, từ chúa Nguyễn Hoàng, nhất là chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã tạo điều kiện cho thương nhân Trung Quốc, Nhật Bản, Bồ Đào Nha, Hà Lan,… đến Hội An để buôn bán. Cũng chính vì thế, Hội An khi trở thành thương trường quốc tế có điều kiện phát triển nhanh chóng. Thông qua dinh trấn Thanh Chiêm của Quảng Nam, cách Hội An 9 km, với tính năng như một đơn vị nhà nước, thay mặt cho dinh phủ ở Thuận Hóa để trực tiếp tổ chức thực hiện mối quan hệ ngoại giao và ngoại thương ở Hội An.
Các chúa Nguyễn quy định cho toàn bộ các thuyền buôn nước ngoài muốn đến Đàng Trong đều phải vào Hội An làm thủ tục với đơn vị ngoại thương đóng ở đây. Để xác minh, đánh thuế thuyền buôn ngoại quốc, Chúa Nguyễn đặt đơn vị gọi là Tàu ti ở Hội An. Chính sự ràng buộc này khiến Hội An thu hút khách buôn trội nhất.
Chúa Nguyễn còn tổ chức tình báo nhân dân để đảm bảo trật tự cho thương trường Hội An. “Nhà Nguyễn đặt các xã Minh Hương, Hội An, Lao Chiêm, làng Câu giữ việc thám báo” [2; 81].
Các tàu vào cảng, phải có lễ báo tín do thuyền trưởng đệ lên chúa Nguyễn và các đơn vị thượng hạng trong triều. Lúc tàu ra về, theo thể lệ nhiều hay ít, hóa hạng nộp khi làm lễ tiến, chủ tàu được chúa Nguyễn cấp phát bạc, lụa, gạo, tiền có định chuẩn.
Nhìn chung, các lễ vật dâng cho Chúa, quan lại lắm thứ phiền toái và khá nặng nề. Lại thêm nạn tham quan ô lại ở đơn vị tàu vận làm các thương nhân rất chán nản. Những hạn chế này làm hàng hóa khó thâm nhập rộng rãi trong nhân dân nên không tạo được một bước cơ bản cho nền kinh tế phát triển.
Dưới thời Tây Sơn, Hội An được gọi là Minh Hương xã, Hội An phố. Ở Hội An có lưu được một bản tâu của hương chức làng Minh hương năm 1788: “Nguyên ông cha chúng tôi qua quí quốc buôn bán, trước ở tản mạn khắp các phủ, sau mới quy tụ lập Minh Hương xã. Chúng tôi chịu trách nhiệm nghiên cứu ngân lượng cùng giá hàng các tàu buôn, làm thông ngôn cho tàu buôn các nước, vậy mang ơn trên cấp cho văn bằng có phê chuẩn miễn các việc phục sai, tuần đò và thuế chợ” [2; 84].
Điều này chứng tỏ từ năm 1773, lúc Tây Sơn kiểm tra cảng Hội An, dân làng Minh Hương ở Hội An vẫn được Tây Sơn cho tiếp tục làm công việc ngoại thương và một số ưu đãi. Lúc đó, thuyền buôn nước ngoài vẫn lui tới buôn bán với Hội An.
Trong các năm 1792, 1793 John Barow cũng cho thấy thương cảng Hội An “hàng năm vài thuyền buồm từ Trung Quốc đến Faifo, một con tàu treo cờ nước trung lập như nước Anh chảng hạn từ châu Âu đến. Vài chiếc từ Ấn Độ đến. Cũng bấy nhiêu tàu Bồ Đào Nha từ Macao tới chở theo những hàng hóa của họ bị từ chối ở Trung Quốc” [2; 84].
Những tư liệu trên đây chứng tỏ Hội An vẫn sinh hoạt buôn bán bình thường. Tuy nhiên, không thể tấp nập như ở thế kỷ XVII. Cho đến cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX, do hoàn cảnh chủ quan và khách quan thúc đẩy, hoạt động buôn bán ở Hội An suy giảm, nhường chỗ cho sự phát triển của thương cảng Đà Nẵng.
Nhìn chung, thương cảng Hội An có một vai trò trọng yếu, là cửa ngõ buôn bán của Đàng Trong với toàn cầu bên ngoài trong các thế kỷ XVII – XVIII. Hội An, cũng như nhiều đô thị cổ khác của Đại Việt chịu chi phối, kiểm tra chặt chẽ của nhà nước. Những quyết sách của chính quyền chúa Nguyễn vừa là điều kiện thuật lợi cho Hội An phát triển, vừa là sự kiểm tỏa, hạn chế so với sự phát triển của một thương cảng mang tầm cỡ quốc tế.
2.3. Hội An – một trung tâm văn hóa
So với các đô thị khác của Việt Nam, Hội An có những đặc tính lịch sử và địa lý nhân văn rất tách biệt. Vùng đất nơi đây có một lịch sử lâu đời và là nơi gặp mặt, giao thoa của nhiều nền văn hóa. Đặc tính trước nhất có thể nhận thấy ở văn hóa Hội An chính là tính phong phú. Những người Việt vào cư trú ở Hội An từ cuối thế kỷ XV chung sống hòa bình với phòng ban dân cư người Chăm vẫn định cư rất lâu từ trước đó. Khi Hội An trở thành thương cảng quốc tế sầm uất, nơi đây đã tiếp nhận nhiều dân cư mới tới từ nhiều nền văn hóa khác nhau. Quá trình giao lưu, tiếp xúc với toàn cầu bên ngoài là nền tảng để Hội An trở thành một trung tâm văn hóa, với một nền văn hóa nhiều tầng, nhiều lớp và phong phú, trổ tài ở toàn bộ các hình thái văn hóa vật thể và phi vật thể như thiết kế đô thị, tín ngưỡng, tôn giáo, ẩm thực, lễ hội,…
* Thiết kế đô thị
Đô thị Hội An là một chứng cớ sinh động về lịch sử tạo dựng và phát triển của các đô thị Việt Nam qua các thời kì, mang tính phổ quát của đô thị phương Đông nhiệt đới gió mùa. Đô thị cổ Hội An là một tập hợp các loại hình thiết kế đô thị cổ với một cơ cấu dân cư đô thị còn nguyên vẹn.
Các công trình thiết kế ở đô thị cổ Hội An có thể chia thành ba nhóm:
Trước hết là nhóm các công trình tín ngưỡng, bao gồm các đình, chùa, đền, miếu, lăng, nhà thờ tộc, văn bia, mộ cổ,… Qua các công trình này người ta thấy rõ thiết kế ở khu phố cổ Hội An là kết quả của một sự giao thoa, hòa điệu giữa các nền văn hóa của Đông Nam Á và Viễn Đông.
Nhóm các công trình dân sự bao gồm những đường phố hẹp, nhà ở, khu chợ, giếng cổ và cầu. Trong nhóm thiết kế này, nhà ở là loại hình trọng yếu nhất, là nhà cung cấp cơ bản cấu thành đô thị. Nhà cổ ở Hội An chia thành nhà rường và nhà phố.
Nhà rường có kết cấu xây dựng tương tự như ngôi nhà gia truyền Việt Nam, thoáng mát với ba gian hai chái, mái ngói âm dương, sân gạch và vườn cây.
Nhà phố có thiết kế hình ống hay còn gọi là “nhà ruột ngựa” dài gần năm trục mét, là nơi sống và buôn bán của giới thương nhân người Hoa và người Việt. Không gian ngôi nhà chia làm ba phần: Nếp nhà trước là cửa hiệu buôn bán, nơi giao dịch, tiếp này là sân trời tráng nắng, có giếng nước và nhà điểm kết nối liền với nếp nhà sau là nơi sinh sống và kho hàng; cuối cùng là sân sau với phòng bếp, nhà vệ sinh. Hai mặt nhà phía trước và phía sau đều thông ra các mặt đường, hoặc mặt trước thì thông ra đường còn mặt sau thì thông ra bến sông.
Nhóm các công trình bảo vệ là những tòa thành cổ, chỉ còn sót lại một vài đoạn như tòa thành cổ Thanh Chiêm, thủ phủ của dinh trấn Quảng Nam.
Điều đặc biệt trong các công trình thiết kế ở Hội An là việc sử dụng các loại vì kèo khác nhau gọi là “vì kẻ chuyền” và “vì vỏ cưa” đặc trưng cho phong thái thiết kế Việt cổ, kết phù hợp với các loại vì kèo gọi là “vì chồng rường” và “vì kèo chồng” đặc trưng cho thiết kế Trung Hoa. Trên cùng một cấu kiện thiết kế các loại vì kèo này không tranh chấp nhau mà lại xoắn quyện và hòa phù hợp với nhau thành một thể thống nhất, tạo ra nét đặc trưng của một sở thích riêng biệt: Phong thái Hội An.
Một điểm khác nữa về kết cấu thiết kế là hệ mái. Hệ mái truyền thống Việt Nam của các công trình dân sự ở Hội An đều có độ dốc mái khá thống nhất với tỉ lệ 5/10, nghĩa là 50%, trong lúc đó Chùa Cầu hay Lai Viễn Kiều do người Nhật thiết kế lại có hệ mái với độ dốc khá nhỏ. Này là một đặc tính thiết kế ít gặp ở các nước Đông Nam Á.
Trong trang trí thiết kế nội thất và ngoại thất ở toàn bộ các di tích lịch sử ở đô thị cổ Hội An, các đề tài thường lấy từ thiên nhiên và sinh hoạt đời thường với những hoa văn, hoa văn như hoa lá, chim muông, giao long, tứ linh, mặt trời âm dương,… dược chạm khắc trên các phòng ban thiết kế bằng gỗ, nhất là trên các bộ vì kẻ chuyền, khung cửa, bẩy hiên, tai cột, mắt cửa,… bằng các thủ pháp chạm chìm, chạm nổi, chạm thủng,… Mỗi một hình thức chạm khắc đều mang những nội dung tư tưởng khác nhau. Hình giao long gợi lên sự hóa rồng và quyền lực, hình chim phượng dấu hiệu sự vận hành của vũ trụ, hình giao long đùa với cá chép tiêu biểu cho sự dư thừa,…
Nét đẹp của các công trình điêu khắc đó không chỉ được dấu hiệu trong các hình thức trổ tài sắc sảo mà còn cả trong sự hàm chứa các nội dung triết lý nhân sinh sâu sắc.
Nói tóm lại, đô thị cổ Hội An mang trong lòng mình qua nhiều thế kỷ một kết cấu thiết kế, trang trí thiết kế, trang trí nội thất và ngoại thất với vẻ đẹp thượng cổ trong mọi di tích lịch sử mà chúng trổ tài một sự giao hòa, hòa điệu của nhiều phong thái văn nghệ khác nhau, từ đó tạo ra phong thái Hội An. Này là sự tổng hòa của quá trình hội nhập, thẩm thấu, dung nạp một cách chọn lọc các yếu tố văn hóa ngoại lai, một sự giao lưu và hỗn dung giữa nền văn hóa dân tộc với nền văn hóa của toàn cầu ở khu vực Đông Nam Á và khu vực Viễn Đông. Như vậy, có nghĩa là vẻ đẹp mới lạ của các di tích thiết kế của Hội An đã quy tụ, tổng hòa được các yếu tố của nền văn nghệ truyền thống được làm phong phú thêm nhờ những yếu tố văn nghệ nước ngoài, phong phú về mẫu mã, phong phú về đồ án thành thạo về đường nét. Tuy nhiên, trong quá trình du nhập, vay mượn và tiếp nhận các yếu tố văn hóa bên ngoài đó, phong thái Hội An vẫn không lúc nào để cho các yếu tố ngoại lai lấn át các yếu tố địa phương và đã bảo tồn được vững chắc các nền tảng truyền thống và các yếu tố bản sắc đặc trưng của dân tộc mình và vì vậy mà tạo ra được sự hài hòa và thống nhất giữa cái tách biệt trong cái tổng thể, giữa cái ngoại lai trong cái nội tại.
* Tôn giáo và tín ngưỡng
Về tôn giáo. Bên cạnh sự phát triển về thương mại, Hội An đang là nơi tập trung sự du nhập nhiều tôn giáo lớn, điển hình nhất là Thiên Chúa giáo và Phật giáo. Có thể nói Phật Giáo là tôn giáo có tác động lớn so với văn hóa nước Việt nói chung, Đàng Trong, Hội An nói riêng.
Nhiều gia đình ở Hội An không theo Phật giáo những vẫn thờ Phật và ăn chay. Những vị Phật được thờ hầu hết là Phật Bà Quan Âm và Thích Ca Mâu Ni. Trong mỗi nhà, khám thờ Phật được đặt nơi trang nghiêm, thanh tịnh, thường cao hơn ban thờ gia tiên một bậc. Thậm chí có những gia đình dành riêng một gian rộng để thờ Phật và làm nơi tụng niệm.
Ở Hội An đã từng có một thời dòng Thiền Lâm Tế của Phật giáo phát triển rất mạnh. Chùa Phúc Thánh được xem là ngôi Tổ đình của dòng thiền này.
Nhìn chung, dưới thời chúa Nguyễn, Hội An là nơi có đạo Phật thịnh hành và điều đó có sự chi phối, tác động rất lớn đời sống văn hóa trí não của nhân dân cũng như của thương nhân các nước đến buôn bán tại Hội An.
Bên cạnh Phật giáo, Thiên Chúa giáo cũng có mặt khá sớm. Ngay từ thời kỳ chúa Nguyễn Hoàng vào trấn giữ vùng Thuận Quảng, đạo Thiên Chúa đã được truyền bá vào Hội An nói riêng, Quảng Nam nói chung . Tuy vậy, hoạt động truyền bá của các giáo sĩ dần dần gặp nhiều khó do tôn giáo của họ có nhiều điều khác lạ so với những tôn giáo vốn có ở địa phương như Phật giáo, Nho giáo,… và thậm chí về sau nó còn bị cấm đoán và bị coi bị là tà đạo.
Tuy vậy, quá trình truyền bá tôn giáo này lại có sự đóng góp to lớn cho văn hóa Hội An nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Một số giáo sĩ của họ đã sáng tạo ra chữ quốc ngữ còn được dùng cho ngày nay, tiêu biểu là giáo sĩ Alexandre De Rohdes. Trong các giáo sĩ phương Tây có mặt tại Hội An, Alexandre De Rohdes tỏ ra là một nhà từ ngữ học xuất sắc. Chính ông là người trước nhất đã học hỏi, phân tích các cung giọng trong tiếng Việt bằng chữ cái Latinh. Công sức của Alexandre De Rohdes cùng với sự đóng góp của các giáo sĩ khác và của cả hợp tác viên người Việt đã mang đến sự ra đời chữ quốc ngữ tại Hội An trong khoảng thời gian những năm 30, 40 của thế kỉ XVII.
Chữ quốc ngữ ra đời chính là một thành tựu tốt đẹp của quá trình giao lưu văn hóa Đông – Tây trong đó có đô thị thương cảng Hội An, đã đóng một vai trò quyết định.
Về tín ngưỡng. Tại Hội An, bên cạnh tục thờ cúng gia tiên, những người dân còn tồn tại tục thờ Ngũ tự gia đường. Theo tư tưởng ở đây, nước có vua nhà có chủ, thần chủ nhà chính là Ngũ tự gia đường. Phần lớn ý kiến cho rằng Ngũ tự gia đường là năm vị thần trong coi thống trị và sắp xếp vận mệnh cho một gia đình, gồm thần Bếp, thần Giếng, thần Cổng, Tiên sư bổn mạng và Cửu thiên huyền. Khám thờ Ngũ tự gia đường được đặt trang trọng ngay giữa nhà, trên bàn thờ gia tiên [10; 38].
Một điểm đặc biêt trong tín ngưỡng ở Hội An là tục thờ Quan Công. Tuy hệ thống thần thánh được tôn thờ ở Hội An rất phong phú và phong phú, nhưng Quan Công lại được xem như vị thánh linh thiêng nhất. Miếu thờ Quan Công được xây dựng ngay trong trung tâm khu phố, trở thành một trung tâm tín ngưỡng thiêng liêng. Trong các gia đình, từ xa xưa người Hội An đã có tư tưởng thờ Quan Công như thờ một vị thần hộ mạng, bảo lãnh cho sự bình an của gia đình.
Trong các di tích của người Hoa, nhất là các hội quán, những vị thần thánh được thờ tùy thuộc vào tín ngưỡng riêng của cộng đồng. Tại Hội quán Phúc Kiến, những người Hoa thờ Thiên Hậu Thánh mẫu, vị thần có nguồn gốc Phúc Kiến, cùng Lục tánh vương gia, sáu vị trung thần của nhà Minh. Những người Hải Nam lập Hội quán Quỳnh Phủ thờ 108 vị Chiêu Ứng. Họ là 108 người dân Hải Nam đi buôn bán trên biển, không may bị nạn, sau được triều Nguyễn sắc phong làm Chiêu Ứng Công và ban thờ cúng. Người Triều Châu có Hội quán Triều Châu thờ vị thần chém sóng cứu nạn thuyền buôn trên biển Phục Ba Tướng quân [10; 41].
Ngoài ra, ở Hội An còn tồn tại những hình thức tín ngưỡng khác như thờ bà cô, ông mãnh, vô danh vô vị, thờ đá bùa, đá thạch cảm đương,…
* Một số hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian ở Hội An
Lễ hội. Thông thường, mỗi làng ở Hội An đều có một ngôi đình để thờ thành hoàng và các vị tiền hiền. Mỗi năm, thường vào đầu mùa xuân, các làng lại mở lễ hội để kính ngưỡng vị thánh của làng mình và tưởng nhớ công lao các vị tiên hiền. Công việc này thường do những người cao niên phụ trách, cứ đến kỳ hạn họ bầu ra một ban tế lễ. Lễ cúng thường niên trong hai ngày, ngày thứ nhất chỉ làm lễ cáo yết, ngày thứ hai mới là ngày tế chính thức [10; 32].
Vào dịp rằm tháng giêng và rằm tháng bảy hàng năm, những người dân vùng Hội An tổ chức lễ hội Long Chu tại các đình làng. Dịp tổ chức lễ hội chính là hai thời điểm chuyển từ mùa mưa sang mùa khô và trái lại, khoảng thời gian dịch bệnh thường xảy ra. Trong tư duy của dân gian, các dịch bệnh cho những thế lực thiên nhiên xấu xa mang tới, vì vậy toàn bộ mọi người trong làng, không trừ một ai, đều tham gia vào lễ hội [16].
Tại các làng chài ven sông, biển của Hội An, đua ghe là một sinh hoạt văn hóa không thể thiếu, thường niên trong dịp mừng xuân từ mùng 2 đến mùng 7 tháng giêng. Theo tư tưởng dân gian, đua ghe là dịp làm vui lòng các thánh thần thượng sơn hạ thủy và những đấng khuất mặt đã phù trợ cho thôn xóm được bình yên. Thắng lợi trong các cuộc đua là niềm tự hào của dân làng và mang ý nghĩa mang lại một vận may trong mùa màng sắp tới [16].
Âm nhạc, diễn xướng và trò chơi dân gian. Những hình thức diễn xướng, trò chơi dân gian ở Hội An kết tinh từ quá trình lao động của dân cư địa phương. Có thể nói đến những điệu hát hò khoan, các điệu hò giựt chì, hò kéo neo, những điệu lý, vè, các hình thức hát tuồng, bả trạo, hô thai, hô bài chòi… Hội An còn tồn tại truyền thống về diễn tấu cổ nhạc trong các dịp hội hè, truyền thống ca nhạc tài tử với những nghệ nhân khá nổi tiếng [10; 57].
*
* *
Nói về văn hóa Hội An, giáo sư Trần Quốc Vượng nhận xét: Hội An là nơi hội thủy, hội nhân quy tụ văn hóa vô cùng phong phú. Thời điểm phát triển hầu hết của văn hóa Hội An nằm trong thời kỳ phát triển vàng son của đô thị – thương cảng Hội An, rõ ràng là từ thế kỉ XVII đến nửa đầu thế kỉ XVIII, thời kì mà các chúa Nguyễn, cát cứ trị vì ở xứ Đàng Trong. Văn hóa có sự phong phú, phong phú là do kết tinh từ vốn văn hóa truyền thống của dân cư địa phương với sự giao lưu hội nhập mạnh mẽ với văn hóa các nước, các nền văn hóa lớn của khu vực và toàn cầu. Ngày nay truyền thống ấy vẫn được tiếp tục phát triển, tạo ấn tượng tốt đẹp trong lòng đồng bọn trong và ngoài nước.
3. Sự suy thoái của đô thị cổ Hội An
Cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX, đô thị Việt Nam nói chung đã suy tàn dần dần. Một thời Hội An, Phố Hiến, Thanh Hà,… nổi tiếng, nhưng sang thế kỷ XIX, rải rác còn vài thuyền buôn nước ngoài lỡ vận đến thăm, trao đổi một ít hàng hóa thô sơ rồi nhổ neo ra khơi trong vài ngày sau đó. Không còn cảnh hội chợ 6, 7 tháng liền bên một bãi sông, phố xá trù mật như hồi thế kỷ XVII – nửa đầu thế kỷ XVIII. Có đô thị bị suy sút hẳn như Phố Hiến, Thanh Hà. Có đô thị vẫn gắng gượng, sống dai dẳng trong suốt thế kỷ XIX và kéo dài cho đến ngày nay, giờ đây mới có điều kiện phục hồi. Hội An là trường hợp đặc biệt đó.
Đô thị thương cảng Hội An là một cảng thị lớn nhất của Đàng Trong và của cả Đại Việt trong các thế kỷ XVI – XVIII, nối liền nước ta với nhiều nước khác ở phương Đông và phương Tây trên toàn cầu. Cuối thế kỷ XVIII, hoạt động ngoại thương của Hội An đã có khuynh hướng thoái triển. Đến đầu thế kỷ XIX, đô thị Hội An trở nên “nghèo nàn” và “hoang phế”. Tình trạng suy tàn của Hội An được John White, một người Mỹ đến Đàng Trong vào đầu thế kỷ XIX ghi lại: “Chúng tôi đi qua cảng và đô thị Hội An… người Bồ Đào Nha (ở Ma Cao) và người Nhật Bản từng có hoạt động thương mại rất nhộn nhịp ở cảng này. Nhưng bây giờ, Hội An nghèo nàn, hoang phế, rất ít khi hoặc chẳng có tàu bè nào đến thăm, ngoài các thuyền của địa phương hay ở phía Bắc vào…” [12; 144].
Sự suy thoái của đô thị Hội An xuất phát từ những trận chiến tranh giữa Chúa Trịnh và Tây Sơn và sau này là giữa Tây Sơn và chúa Nguyễn. Trong trận chiến tranh lần thứ nhất và năm 1775, cảng thị Hội An đã bị quân Trịnh phá hủy nặng nề các nền tảng thương mại, nhất là phố Nhật. Năm năm sau, cảng thị Hội An mới khởi đầu phục hồi trở lại nhưng không bằng được như trước. Trận chiến tranh thứ hai kéo dài gần 30 năm (từ năm 1776 đến năm 1801) đã làm cho tình hình chính trị và ngoại thương không ổn định, bởi vậy mà tàu buôn nước ngoài ít cập bến Hội An hơn so với thời chúa Nguyễn trước đó. Vì vậy, cảng thị Hội An không thể tiếp tục vươn lên như trước, dần suy thoái trong thời gian cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX.
Tiếp đó, khi triều Nguyễn được thiết lập (năm 1802) đã thực hiện quyết sách đóng cửa. Một mặt nhà nước phong kiến Nguyễn bài xích phương Tây, mặt khác lại thực hiện quyết sách trọng nông, lấy nông nghiệp làm gốc và kìm hãm thương nghiệp nội địa. Các nghề thủ công, có lượng thợ và hàng hóa sản xuất ra số nhiều có dự trữ, có giao lưu trong thế kỷ trước, giờ chỉ để phục vụ cho việc xây dựng cung đình, lăng tẩm và nhu cầu xa xỉ tầng lớp tên của xã hội đương thời. Chính đường lối chính trị “bế quan tỏa cảng” của triều Nguyễn đã không kích thích việc khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên, kìm hãm sức sản xuất, làm đình trệ việc giao lưu hàng hóa từ các địa phận sản xuất đến các cửa khẩu, các thương cảng, dẫn tới sự suy tàn của hoạt động ngoại thương của cảng thị Hội An một thời tực rỡ.
Đường lối “bế quan tỏa cảng” không giao thương với nước ngoài đã dẫn tới sự sút kém của hoạt động kinh tế của cảng thị Hội An nói riêng và của Việt Nam nói chung, gây khó khăn cho đời sống của dân cư sống ở các vùng cảng thị nước ta, trong đó có Hội An và nhân dân cả nước nói chung. Điều này đã gây ra một phần trọng yếu trong sự sút kém nền kinh tế và tiềm năng quân sự của quốc gia. Trong cục diện các nước phương Tây đang đẩy mạnh xâm lược thuộc địa, một Việt Nam lạc hậu, yếu kém đứng trước mưu mô xâm lược của thực dân Pháp, việc mất độc lập, chủ quyền là điều khó tránh khỏi.
Đây là một bài học lịch sử hết sức trọng yếu cho thời kỳ đổi mới của nước ta hiện tại: Mở cửa quan hệ đa phương với các nước trên toàn cầu nhằm phát triển kinh tế của quốc gia mà vẫn giữ được chủ quyền dân tộc và an ninh quốc gia.
Không những thế, điều kiện tự nhiên cũng tác động lớn đến vận mệnh của thương cảng Hội An, do sự thay đổi của cửa khẩu và lạch sông. Hội An và vùng phụ cận là khu đất có mặt bằng chưa ổn định. Hệ sông nước thay đổi dữ dội trong từng năm Bờ sông lúc lở lúc bồi, cồn cát có cự dân lúc bồi, lúc bị cắt xẻ thành từng mảng trôi ra biển trong mùa mưa lụt. Sông Sài Thị Giang (nay gọi là sông Thu Bồn) ngày càng bị bồi lấp bởi phù sa, lòng sông ít nhiều trở nên nông cạn đi, làm cho các tàu buôn nước ngoài có trọng tải lớn không thể trực tiếp đó cảng Hội An qua Cửa Đại được. Thương gia người Tây Ban Nha Le Floch de la Carriere ghi lại: “Các tàu có trọng tải lớn không thể vào sông Hội An nên phải xuống hàng tại Đà Nẵng” [12; 132].
Với những thay đổi của điều kiện tự nhiên, Hội An đã mất ưu thế – một điều kiện thiết cốt cho sự tạo dựng cũng như suy tàn của một thương trường quốc tế mà lúc đó, phương tiện đi lại hầu hết là đường thủy để đến cảng Faifo.
Trong lúc Hội An mất dần ưu thế tự nhiên thì nhà Nguyễn quy định cho tàu thuyền nước ngoài chỉ được phép vào cửa Đà Nẵng, nguyên trước này là cửα ngõ của Hội An. Này là một đòn đánh quỵ nền ngoại thương của Hội An.
Nói tóm lại, tình tạng suy thoái của cảng thị Hội An đã khởi đầu xảy ra từ cuối thế kỷ XVIII, rõ nhất là sau cuộc nội chiến giữa quân Trịnh và quân Tây Sơn tại Quảng Nam vào năm 1775 mà sau khoảng thời gian thắng lợi, quân Trịnh đã tàn phá nền tảng kinh tế của cảng thị Hội An. Do tình hình của Đàng Trong dưới triều Tây Sơn không ổn định về chính trị nên tàu buôn nước ngoài ngày càng ít cập bến Hội An. Tiếp đó, sau khoảng thời gian vua Gia Long lên ngôi (1802) đã thi hành chính sách đóng cửa, không giao thương với các nước phương Tây cùng các vua kế vị nhằm bảo bệ nền độc lập của quốc gia đã gây ra hầu hết hoàn toàn sự suy thoái của toàn bộ các cảng thị của Việt Nam thời bấy giờ mà cảng thị Hội An chịu ràng buộc nặng nền nhất. Thêm vào này là sự thay đổi của điều kiện tự nhiên, làm cho đô thị cổ Hội An không thể gượng dậy được, mãi đến ngày nay, đô thị này mới có điều kiện phục hồi.
4. Đặc tính của đô thị cổ Hội An
Đô thị cổ Hội An là một chứng cớ sinh động về sự tạo dựng và phát triển của các đô thị Việt Nam qua các thời kì, mang tính phổ quát của đô thị phương Đông nhiệt đới gió mùa.
Đô thị cổ Hộι An cũng như nhiều đô thị khᢠcủα Đạι Việt đều chịu sự kiểɱ soát chặt chẽ và phụ thuộ¢ vàσ chính sách củα nhà nướ¢ phong kiếи. Nóι cách khᢠnhà nước phong kiếи vừa là điều kiện để Hội An phát triển, vừa là sức kìm hãm kéo theo Hội An suy tàn. Vớι vị trí thuậи lợι, Hộι An có điều kiệи phát triểи kinh tế thương nghiệρ, nhưng Hộι An chỉ thự¢ sự hưng khởι trong cᢠthế kỷ XVII – XVIII khi cᢠchúα Nguyễи có những chính sách đốι ngoạι cởι mở. Từ cuốι tế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX, những biếи động về tình hình chính trị cùng vớι chính sách “bế quan tỏa cảng” củα triều Nguyễи đã khiếи cho Hộι An suy thoáι.
Hộι An là là đô thị có quan hệ chặt chẽ và thường xuyên vớι nông thôn. Hộι An là một đô thị thương cảng, trong đó kinh tế thương nghiệp là hoạt động chi phối toàn thể nền kinh tế. Song trên địa phận cư trú Hội An và vùng phụ cận vẫn có dân cư hoạt động nông nghiệp, ngư nghiệp, thủ công nghiệp. Mốι liên hệ giữα đô thị vớι nông thôn ở Hộι An là thường xuyên. Cᢠhoạt động kinh tế ở nông thôn cung cấρ những mặt hàng, sảи vật địα phương cho đô thị Hộι An. Mặt khá¢, sự phát triểи củα Hộι An cũng góρ phầи thú¢ đẩy cᢠhoạt động kinh tế ở những vùng nông thôn phụ cậи phát triểи.
Sự phát triểи củα đô thị Hộι An không tạσ đượ¢ một sứ¢ mạnh đủ để phá vỡ quan hệ sảи xuất phong kiếи. Hộι An phồи thịnh do nềи kinh tế hàng hóα phát triểи nhưng đó chỉ là nềи kinh tế tự nhiên nằɱ trong khuôn khổ chế độ phong kiếи, phụ¢ vụ cho tầng lớρ thống trị, một thành thị phi công nghiệρ. Thương nghiệρ Hộι An chỉ là sự hưng khởι củα sảи xuất hàng hóα giảи đơn, đó là cᢠđặ¢ sảи tự nhiên, cᢠsảи phẩɱ thủ công, ίt nông sảи chế biếи. Nềи kinh tế đó không tạσ ra đượ¢ sự phân công lao động xã hộι mạnh mẽ để tách thành thị ra khỏι nông thôn, đốι lậρ vớι nềи kinh tế củα phương thứ¢ phong kiếи. Hàng nhậρ khẩu không phảι để trang bị cho thành thị có một nềи công nghiệρ phát triểи sẽ phát sinh ra giai cấρ công nhân hiệи đạι dầи dầи tiếи tớι độ¢ lậρ về kinh tế, chính trị, có đủ sứ¢ mạnh chống lạι chế độ phong kiếи mà lạι trang bị cho nhà nướ¢ phong kiếи, tăng thêm quyềи lự¢ cho giai cấρ phong kiếи để có đủ sứ¢ mạnh đàи άρ mọι xu thế đốι kháng trong xã hộι. Ở Hộι An ta không thấy sự đốι kháng mãnh liệt giữα vua chúα, quan lạι vớι thương nhân mà có hiệи tượng thương nhân hóα quan lạι, mâu thuẫи chính trong xã hộι vẫи là nông dân vớι địα chủ phong kiếи.
Đô thị – cảng thị Hộι An cũng như một số cảng thị khᢠở Đông Nam 𝓐́: cảng thị Σ́¢ Eo (thế kỷ III – VI), Srivijaya (thế kỷ VII – XIII), Malacca (thế kỷ XV) là chạɱ trung chuyểи, kết nốι củα con đường buôn báи quố¢ tế trên biểи, chứ không phảι là nơi có nguồи hàng và là một đầu mốι trong con đường buôn báи Đông – Tây. Sự hưng thịnh củα cảng thị Hộι An cũng như những thương cảng trên phụ thuộ¢ vàσ con đường buốи báи quố¢ tế trên biểи giữα phương Đông vớι phương Tây. Vì thế, khi con đường thương mạι trên biểи thay đổι thì cᢠcảng thị này cũng suy tàи và Hộι An cũng không phảι trường hợρ ngoạι lệ.
Bên cạnh những điểɱ chung, sự ra đờι và phát triểи củα đô thị cổ Hộι An cũng có những điểɱ khᢠbiệt so vớι cᢠđô thị khᢠtrên lãnh thổ Việt Nam. Hộι An ra đờι trên cơ sở một nềи thương nghiệρ phát triểи mà Mᢠđã đồng ý rằng: Thương nghiệρ phát triểи đồng thờι vớι thành thị và ngượ¢ lạι sự phát triểи củα thành thị phảι phụ thuộ¢ vàσ thương nghiệρ là một điều đương nhiên. Hộι An ra đờι cũng như cᢠđô thị phương Tây, trên cᢠcơ sở kinh tế hàng hóα phát triểи thành chợ, buôn báи trên cᢠtrụ¢ đường giao thông thuậи lợι, hình thành phố xá, dầи dầи phát triểи thành thành thị.
Hầu hết cᢠđô thị cổ Việt Nam, trong hai chứ¢ năng: kinh tế và chính trị – hành chính thì chứ¢ năng chính trị hành chính bao giờ cũng quan trọng nhất, nhưng ở Hộι An yếu tố kinh tế – thương nghiệρ lạι có phầи trộι hơn so vớι chứ¢ năng chính trị hành chính. Trong thờι kỳ thịnh vượng nhất (thế kỷ XVII – XVIII), Hộι An thự¢ sự trở thành một đầu mốι giao thương quan trọng không chỉ củα Đàng Trong mà củα cả Đạι Việt vớι thế giớι bên ngoàι.
Hộι An, ngườι phương Tây gọι là Faifo, còи nhiều tên gọι khᢠnhư Hảι phố, Hoa phố, Hoàι phố, Hộι phố,… dù mang nhiều tên gọι khᢠnhau nhưng một điều không thể phủ nhậи nó là “phố” – đúng như thự¢ chất giá trị củα loạι hình đô thị thương nghiệρ này, khᢠvớι “kinh” hay “dinh” để chỉ Phú Xuân hay Thăng Long.
6. Vai trò của đô thị cổ Hội An
Nói tới vai trò của đô thị cổ Hội An thì điểm trước nhất tất cả chúng ta phải nhắc tới chính là yếu tố kinh tế. Hội An đã thực sự trở thành một trong những trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước, là một cảng thị – một đầu mối giao thương của Đàng Trong nói riêng và Đại Việt nói chung với toàn cầu bên ngoài. Hội An với vị trí gần bên đoạn đường hàng hải quốc tế sôi động đương thời, với bến cảng tốt và với sự trù phú của xứ Quảng, đã nhanh chóng hòa nhập vào các hoạt động mậu dịch quốc tế trong khu vực.
Với môi trường buôn bán thuận tiện Hội An đã thu hút rất nhiều thương nhân nước ngoài tới trao đổi buôn bán, trong đó phần lớn là thương nhân người Hoa, người Nhật. Ngoài ra còn tồn tại thương nhân phương Tây cũng tới tham gia buôn bán (người Anh, người Hà Lan…). Những ghi chép trong các sách cổ đã cho tất cả chúng ta thấy Hội An không chỉ là trung tâm thương nghiệp, trung tâm giao thông vận tải của một địa phương huyện phủ mà là liên phủ và cả vùng Đàng Trong hòa nhập với thị trường quốc tế. Hội an thực sự đã mang tới một luồng sinh khí mới cho nền kinh tế Đàng Trong. Các chúa Nguyễn thức thời biết cách khai thác Hội An để tạo ra nguồn lợi to lớn (vú khí và các phương tiện quân sự). Nhưng điều trọng yếu hơn là sự phồn thịnh của Hội An đã đẩy mạnh những hoạt động kinh tế ở Đàng Trong. Đàng Trong là vùng đất mới khai thác, phải từ cuối thế kỷ XIV thì người Việt mới vào đây, mà trước nhất là vùng đất lưu đày của những người phạm tội, người việt khai phá và làm ruộng là hầu hết. Chính luồng thương mại từ Hội An đã làm kinh tế vùng này phong phú hơn và phong phú hơn. Hội An đã nhất định vai trò to lớn của mình trong việc xúc tiến nền kinh tế dân tộc phát triển, tạo ra luồng gió mới bên cạnh “nền chính trị u ám” của thế kỷ XVI – XVIII, mang lại cho người dân một cuộc sống thoải mái hơn.
Bên cạnh vai trò là một thương cảng, cửa ngõ mậu dịch đối ngoại, Hội An đang là một trung tâm giao tiếp văn hóa. Thương cảng quốc tế Hội An đã thu hút rất nhiều thương nhân nước ngoài đến trao đổi buôn bán. Họ đã mang tới đây những luồng văn hóa mới và Hội An đã mở rộng đón nhận những thành tố văn hóa ngoại nhập ấy làm phong phú và sung túc thêm văn hóa truyền thống dân tộc.
Những thương nhân nước ngoài ( người Nhật, người Hoa, người Anh…) đến Hội An buôn bán, đã có những người định cư ở Hội An và thành thân với người Việt. Họ đã mang lối sống, phong tục tập quán tới Hội An, tạo ra một cộng đồng dân cư mới trong lòng Hội An, dần hòa phù hợp với cộng đồng dân cư địa phương. Bên cạnh đó, Hội An cũng là điểm quy tụ giao lưu của nhiều tôn giáo: Đạo Thiên Chúa, đạo Phật, đạo Nho với một hệ thống những chùa chiền, giáo đường.
Quá trình truyền bá đạo Thiên Chúa của các giáo sĩ phương Tây ở Hội An đã mang đến một hệ quả trọng yếu. Một số giáo sĩ của họ đã sáng tạo ra chữ quốc ngữ còn được dùng cho ngày nay, tiêu biểu là giáo sĩ Alexandre De Rohdes. Công sức của Alexandre De Rohdes cùng với sự đóng góp của các giáo sĩ khác và của cả hợp tác viên người Việt đã mang đến sự ra đời chữ quốc ngữ tại Hội An trong khoảng thời gian những năm 30, 40 của thế kỉ XVII.
Chữ quốc ngữ ra đời chính là một thành tựu tốt đẹp của quá trình giao lưu văn hóa Đông – Tây, trong đó đô thị thương cảng Hội An đã đóng một vai trò quyết định. Vượt qua khỏi ý đồ chủ quan vụ lợi hạn hẹp của các giáo sĩ Thiên Chúa giáo, chữ quốc ngữ ra đời là một mốc son trong lịch sử văn hóa Việt Nam.

Chữ ký của

doducdung.hnue

Chỉ cần phải có niềm tin, sẽ không lúc nào là kết thúc hay vô vọng ! Bế tắc hay khởi đầu – là do chính bạn !
Dung.hnue

Đô thị cổ Hội An - Quá trình hình thành, phát triển, suy thoái. I_icon_minitimeSat Oct 22, 2011 8:14 pm

Sat Oct 22, 2011 8:14 pm


doducdung.hnue
Khoa Lịch sử, ĐHSP HN

ĐIỀU HÀNH VIÊN

doducdung.hnue


ĐIỀU HÀNH VIÊN

Họ & tên Họ & tên

Họ & tên

Đỗ Đức Dũng

Vai trò trong CLB Sử học Trẻ Vai trò trong CLB Sử học Trẻ

Vai trò trong CLB Sử học Trẻ

Ủy viên Ban điều hành Câu lạc bộ Sử học trẻ


Huy chương Cống hiến Huy chương Hiến dâng

Huy chương Hiến dâng

Đô thị cổ Hội An - Quá trình hình thành, phát triển, suy thoái. 42
Ngày tham gia Ngày tham gia

Ngày tham gia

07/05/2011

Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi

Tổng số bài gửi

111

Đến từ Tới từ

Tới từ

THPT Chuyên Hùng Vương – Phú Thọ

Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích

Sở trường/ Sở thích

Khoa Lịch sử, ĐHSP HN

Điểm thành tích Điểm thành tựu

Điểm thành tựu

176

Được cám ơn Được cám ơn

Được cám ơn

36

Bài gửiTiêu đề: Re: Đô thị cổ Hội An – Quá trình tạo dựng, phát triển, suy thoái.

Tiêu đề: Re: Đô thị cổ Hội An – Quá trình tạo dựng, phát triển, suy thoái.

 
Hội An là một đô thị ra đời từ thế kỷ XVI, phát đạt vào thế kỷ XVII – XVIII và suy thoáι dần từ thế kỷ cuốι thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX, để rồi sau đó nó chỉ đang là một đô thị “vang bóng một thời”.
Trong lịch sử phát triển đô thị Việt Nam, Hội An không phải là đô thị vào loại thượng cổ nhất. Đứng về mặt tuổi thọ, Hội An cũng chưa phải dài lâu nhất. Và về quy mô của một đô thi thì trong thời thịnh vượng của mình Hội An càng phải xếp sau những Thăng Long (Kẻ Chợ), Phú Xuân. Tuy nhiên ở những phương diện khác Hội An lại có vị trí, vai trò ý nghĩa nhất định mà tất cả chúng ta không thể phủ nhận. Hội An là một thương cảng đô thị và trong suốt thời kỳ tồn tại của minh nó đã hoàn thiện xuất sắc vai trò là một đô thị của quốc gia, có đóng góp trọng yếu so với sự phát triển kinh tế và văn hóa quốc gia.
Đô thị cổ Hộι An đã ra đờι trong thờι gian và không gian lịch sử củα thờι kỳ Trung đạι Việt Nam, tồи tạι qua cᢠthế kỷ và thế hệ, rự¢ rỡ trong phát triểи, huy hoàng trong chíи muồι, vàng son trong phồи thịnh, chìɱ đắɱ trong suy thoáι, quằи quạι trong chiếи tranh để rồι lạι hồι sinh mãnh liệt hơn bao giờ hết trong hòα bình, vớι sự cuốи hút mớι, không phảι bằng một nềи ngoạι thương phong phú hàng hóα như xưa mà bằng một nềи du lịch đầy sứ¢ hấρ dẫи nhờ một quầи thể kiếи trú¢ cổ kính tuyệt vờι củα nềи văn hóα vớι phong cách có một không hai. Trảι qua bao thăng trầɱ củα lịch sử đô thị Hộι An vẫи sống, vẫи duy trì sự tồи tạι hiếɱ thấy củα mình như một bảσ tàng sống, vẫи gìи giữ đượ¢ bảи sắ¢ văn hóα độ¢ đáσ củα mình qua cᢠthế hệ. Những ngôi nhà cổ sẽ giảɱ đi giá trị nếu như vắng bóng cᢠchủ nhân đang sống hàng ngày để giữ gìи chúng.
Cuộ¢ sống nơi đây thiên về nộι tâm, phảng phất nét trầɱ lắng, sự ngưng đọng trong cᢠđình chùα, cᢠNhà thờ tộ¢, cᢠHộι quáи, cᢠnhà hình ống, cᢠđường phố nhỏ hẹρ,… như gợι nhớ một quá khứ vàng son, như lắng nghe tiếng nóι củα tiềи nhân thầɱ thì trong cᢠdi tích, như ôm ấρ bướ¢ chân thăng trầɱ qua cᢠthờι đạι.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Trần Văn An (cb), Hồ Tấn Cường, Nguyễn Văn Bé, Tống Quốc Hưng, Văn hóa ẩm thực ở phố cổ Hội An, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000.
[2]. Đỗ Bang, Phố cảng vùng Thuận Quảng (Hội An – Thanh Hà – Nước Mặn) thế kỷ XVII – XVIII, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1996.
[3].Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, tập 1, bản dịch của Lê Xuân Giáo, Sài Gòn, 1972.
[4]. Nguyễn Quốc Hùng, Các loại hình di tích thiết kế trong khu phố cổ Hội An, Luận án Phó tiến sĩ Lịch sử, Viện Khảo cổ học, Hà Nội, 1992.
[5]. Phạm Quang Linh (cb), Trần Hùng, Nguyễn Luận, Đô thị cổ Hội An, Nxb Kim Đồng, Hà Nội, 2002.
[6]. Huỳnh Yên Trần My, Trương Vũ Quỳnh, Nguyễn Đông Hiếu, Những di sản toàn cầu ở Việt Nam, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng, 2000.
[7]. Nhiều tác giả, Đô thị cổ Hội An, Hội thảo quốc tế tổ chức tại Đà Nẵng ngày 22 và 23 tháng 3 năm 1990, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991
[8]. Lương Ninh, Vương quốc Champa, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2006.
[9]. Trương Hữu Quýnh (cb), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2008.
[10]. Bùi Quang Thắng (cb), Bùi Hoài Sơn, Nguyễn Thị Thu Hà, Văn hóa phi vật thể ở Hội An, Nxb Toàn cầu, Hà Nội, 2005.
[11]. Nguyễn Trí Trung, Dân cư Faifo – Hội An trong lịch sử, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010.
[12]. Nguyễn Phước Tương, Hội An – di sản toàn cầu, Nxb Văn nghệ tp Hồ Chí Minh, 2004.
[13]. Tạ Thị Hoàng Vân, Di tích thiết kế Hội An trong tiến trình lịch sử, Luận Án Tiến sĩ Lịch sử, Hà Nội, 2007.
[14]. Nguyễn Thắng Vu (cb), Trần Hùng, Nguyễn Luận, Đô thị cổ Hội An, Nxb Kim Đồng, Hà Nội, 2005.
[15].
[16].

KẾT LUẬNHội An là một đô thị ra đời từ thế kỷ XVI, phát đạt vào thế kỷ XVII – XVIII và suy thoáι dần từ thế kỷ cuốι thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX, để rồi sau đó nó chỉ đang là một đô thị “vang bóng một thời”.Trong lịch sử phát triển đô thị Việt Nam, Hội An không phải là đô thị vào loại thượng cổ nhất. Đứng về mặt tuổi thọ, Hội An cũng chưa phải dài lâu nhất. Và về quy mô của một đô thi thì trong thời thịnh vượng của mình Hội An càng phải xếp sau những Thăng Long (Kẻ Chợ), Phú Xuân. Tuy nhiên ở những phương diện khác Hội An lại có vị trí, vai trò ý nghĩa nhất định mà tất cả chúng ta không thể phủ nhận. Hội An là một thương cảng đô thị và trong suốt thời kỳ tồn tại của minh nó đã hoàn thiện xuất sắc vai trò là một đô thị của quốc gia, có đóng góp trọng yếu so với sự phát triển kinh tế và văn hóa quốc gia.Đô thị cổ Hộι An đã ra đờι trong thờι gian và không gian lịch sử củα thờι kỳ Trung đạι Việt Nam, tồи tạι qua cᢠthế kỷ và thế hệ, rự¢ rỡ trong phát triểи, huy hoàng trong chíи muồι, vàng son trong phồи thịnh, chìɱ đắɱ trong suy thoáι, quằи quạι trong chiếи tranh để rồι lạι hồι sinh mãnh liệt hơn bao giờ hết trong hòα bình, vớι sự cuốи hút mớι, không phảι bằng một nềи ngoạι thương phong phú hàng hóα như xưa mà bằng một nềи du lịch đầy sứ¢ hấρ dẫи nhờ một quầи thể kiếи trú¢ cổ kính tuyệt vờι củα nềи văn hóα vớι phong cách có một không hai. Trảι qua bao thăng trầɱ củα lịch sử đô thị Hộι An vẫи sống, vẫи duy trì sự tồи tạι hiếɱ thấy củα mình như một bảσ tàng sống, vẫи gìи giữ đượ¢ bảи sắ¢ văn hóα độ¢ đáσ củα mình qua cᢠthế hệ. Những ngôi nhà cổ sẽ giảɱ đi giá trị nếu như vắng bóng cᢠchủ nhân đang sống hàng ngày để giữ gìи chúng.Cuộ¢ sống nơi đây thiên về nộι tâm, phảng phất nét trầɱ lắng, sự ngưng đọng trong cᢠđình chùα, cᢠNhà thờ tộ¢, cᢠHộι quáи, cᢠnhà hình ống, cᢠđường phố nhỏ hẹρ,… như gợι nhớ một quá khứ vàng son, như lắng nghe tiếng nóι củα tiềи nhân thầɱ thì trong cᢠdi tích, như ôm ấρ bướ¢ chân thăng trầɱ qua cᢠthờι đạι.TÀI LIỆU THAM KHẢO[1]. Trần Văn An (cb), Hồ Tấn Cường, Nguyễn Văn Bé, Tống Quốc Hưng, Văn hóa ẩm thực ở phố cổ Hội An, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000.[2]. Đỗ Bang, Phố cảng vùng Thuận Quảng (Hội An – Thanh Hà – Nước Mặn) thế kỷ XVII – XVIII, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1996.[3].Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, tập 1, bản dịch của Lê Xuân Giáo, Sài Gòn, 1972.[4]. Nguyễn Quốc Hùng, Các loại hình di tích thiết kế trong khu phố cổ Hội An, Luận án Phó tiến sĩ Lịch sử, Viện Khảo cổ học, Hà Nội, 1992.[5]. Phạm Quang Linh (cb), Trần Hùng, Nguyễn Luận, Đô thị cổ Hội An, Nxb Kim Đồng, Hà Nội, 2002.[6]. Huỳnh Yên Trần My, Trương Vũ Quỳnh, Nguyễn Đông Hiếu, Những di sản toàn cầu ở Việt Nam, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng, 2000.[7]. Nhiều tác giả, Đô thị cổ Hội An, Hội thảo quốc tế tổ chức tại Đà Nẵng ngày 22 và 23 tháng 3 năm 1990, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991[8]. Lương Ninh, Vương quốc Champa, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2006.[9]. Trương Hữu Quýnh (cb), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2008.[10]. Bùi Quang Thắng (cb), Bùi Hoài Sơn, Nguyễn Thị Thu Hà, Văn hóa phi vật thể ở Hội An, Nxb Toàn cầu, Hà Nội, 2005.[11]. Nguyễn Trí Trung, Dân cư Faifo – Hội An trong lịch sử, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010.[12]. Nguyễn Phước Tương, Hội An – di sản toàn cầu, Nxb Văn nghệ tp Hồ Chí Minh, 2004.[13]. Tạ Thị Hoàng Vân, Di tích thiết kế Hội An trong tiến trình lịch sử, Luận Án Tiến sĩ Lịch sử, Hà Nội, 2007.[14]. Nguyễn Thắng Vu (cb), Trần Hùng, Nguyễn Luận, Đô thị cổ Hội An, Nxb Kim Đồng, Hà Nội, 2005.[15]. http://www.quangnamtourism.com.vn/vn/tiemnangdulich.asp [16]. http://vi.wikipedia.org/wiki/Phố_cổ_Hội_An

Chữ ký của

doducdung.hnue

Chỉ cần phải có niềm tin, sẽ không lúc nào là kết thúc hay vô vọng ! Bế tắc hay khởi đầu – là do chính bạn !
Dung.hnue

Đô thị cổ Hội An - Quá trình hình thành, phát triển, suy thoái. I_icon_minitime

Nội dung được tài trợ

Bài gửi Tiêu đề: Re : Đô thị cổ Hội An – Quá trình tạo dựng, phát triển, suy thoái.

Tiêu đề: Re: Đô thị cổ Hội An – Quá trình tạo dựng, phát triển, suy vi.

Chữ ký của Nội dung được tài trợ

< / p>

Trang 1 < / strong> in total 1 page

Quyền trong diễn đàn này:

Bạn không có quyền trả lời nội dung

________________________________________________________________________

Bản quyền © 2007-2009, Forumotion

Suhoctre © 2007-2009 Phát triển bởi thành viên Diễn đàn

BQT Diễn đàn: Châu Tiến Lộc – Nguyễn Thị Trang – Phạm Ngọc Thạch

Châu Tiến Lộc, Nguyễn Hùng Sơn, Nguyễn Thái Bình < / p>

Thư điện tử:

suhoctre@gmail.com

– Diễn đàn:

http://suhoctre.no1.vn


Xem website này tốt nhất với độ sắc nét 1024×768 (hoặc cao hơn) với Firefox 3.0

Sáng lập viên:

Diễn đàn miễn phí |

©

phpBB | Trợ giúp diễn đàn miễn phí | Liên hệ | Giải trình ứng dụng | Thảo luận tiên tiến nhất


Xem thêm những thông tin liên quan đến đề tài đô thị cổ hội an

Thuyết minh : Phố Cổ Hội An – Di Sản Nhân Loại ….

alt

  • Tác giả: Duc Phu Tran
  • Ngày đăng: 2019-03-28
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 7430 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Giới thiệu : Phố Cổ Hội An – Di Sản Nhân Loại ….

Đô thị cổ Hội An

  • Tác giả: unescovietnam.vn
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 4136 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: unescovietnam.vn la trang thong tin dien tu cua Lien hiep cac Hoi UNESCO Viet Nam. Website dang tai cac hoat dong cua hiep hoi, cac trung tam va cac thong tin ve van hoa, giao duc, khoa hoc, thong tin truyen thong.

Đô thị cổ Hội An – Hoàng Thành Thăng Long

  • Tác giả: www.hoangthanhthanglong.vn
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 6182 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm:

Phố cổ Hội An – Nơi quy tụ tinh hoa văn hóa

  • Tác giả: hoian.gov.vn
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 7539 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Cổng thông tin điện tử Tp Hội An

Đô thị cổ Hội An – Danh Bạ Quảng Nam

  • Tác giả: danhbaquangnam.com
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 1830 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm:

Giá trị văn hóa của phố cổ hội an – nét đẹp cần được bảo tồn

  • Tác giả: hoianheritage.net
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 2811 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Với chiều sâu văn hóa đa tầng, đa sắc Hội An được xem như là bảo tàng sống về thiết kế và lối sống đô thị của Việt Nam. Những giá trị văn hóa của phố cổ Hội An là nét đẹp…

Phát hiện vết tích đô thị cổ tại Hội An thế kỷ 17

  • Tác giả: tuoitre.vn
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 4339 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Sau hai đợt khai quật tại một số điểm trong khu phố cổ Hội An, các Chuyên Viên khảo cổ Việt Nam và Nhật Bản đã phát hiện những vết tích của đô thị cổ Hội An thế kỷ 17.

Xem thêm các nội dung khác thuộc thể loại: giải trí