– hình ảnh ngọc hoàng thượng đế

Bạn đang xem: hình ảnh ngọc hoàng thượng đế

Kinh NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
經 玉 皇 上 帝

 

Nguồn gốc bài Kinh:

Kinh
Ngọc Hoàng Thượng Ðế, còn được gọi là Ngọc Hoàng Thiên Tôn Bửu Cáo, hay
vắn tắt là Ngọc Hoàng Bửu Cáo, do Ðại Tiên Lữ đồng Tân, thường gọi là
Lữ Tổ, tước hiệu Phu Hựu Ðế Quân, một vị trong Bát Tiên, giáng cơ ban
cho ở bên Trung Hoa, sau đó mới truyền sang VN.

Bài
Ngọc Hoàng Bửu Cáo có in trong quyển Kinh: “Quan Thánh Ðế Quân Cứu Kiếp
Vĩnh Mạng Kinh”, và có cho biết xuất xứ của bài Kinh nầy như sau:

“Quang Tự Tân Mão, cửu ngoạt, sóc, Quan Ðế thỉnh Phu Hựu Ðế Quân giáng tác thử cáo, phú tụng dĩ kính Thiên Ðế”.

Nghĩa
là: Niên hiệu Quang Tự (nhà Thanh), năm Tân Mão, tháng 9, ngày mùng 1,
Ðức Quan Thánh thỉnh mời Ðức Phu Hựu Ðế Quân giáng cơ viết ra lời cáo
nầy, để cho người tụng kinh biết mà tôn kính Ðấng Thượng Ðế.

Ðối
chiếu niên lịch, năm giáng cơ ban cho Kinh Ngọc Hoàng Bửu Cáo là năm
thứ 17 đời vua Ðức Tông nhà Thanh, niên hiệu Quang Tự, ngày 1-9-Tân Mão,
tương ứng với dương lịch là ngày 3-10-1891.

1.
Ðại La Thiên Ðế,

2.
Thái Cực Thánh Hoàng.

 

大 羅 天 帝
太 極 聖 皇

GIẢI NGHĨA

Lớn. Tấm lưới. Ðại La là tấm lưới lớn. Trời. Vua. Thiên Ðế là vua Trời. Ngôi của Ðấng Chí Tôn Thượng Ðế. Thiêng liêng mầu nhiệm. Vua. Thánh Hoàng là vua Thánh.

“Thầy đã nói với các con rằng: Khi chưa có chi trong CKTG thì
Khí Hư Vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái Cực. Thầy phân
Thái Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi phân ra Tứ Tượng, Tứ Tượng biến Bát
Quái, Bát Quái biến hóa vô cùng, mới lập ra CKTG. Thầy lại phân Tánh
Thầy mà sanh ra vạn vật là: Vật chất, Thảo mộc, Sâu bọ, Thú cầm, gọi
là chúng sanh.”

Bài Thánh ngôn trên của Ðức Chí Tôn là nền tảng Triết lý về Vũ Trụ Quan của Ðạo Thiên Tâm.

Trước
khi tạo dựng Càn Khôn Vũ Trụ thì trong khoảng trống gian bát ngát, chỉ có một khí
Hồng Mông Hỗn Ðộn mờ mờ mịt mịt gọi là Hư Vô chi Khí (Khí Hư Vô). Khi
tới ngày giờ thì trong Khí ấy nổ ra một tiếng dữ dội, sanh ra một Ðấng
gọi là Ngọc Hoàng Thượng Ðế mà ngôi của Ngài là Thái Cực.

Ðấng
ấy là Ðấng Tuyệt đối, duy có một, huyền diệu vô cùng, trọn lành trọn
tốt, toàn tri toàn năng. Ðấng ấy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi: Âm Quang
và Dương Quang. Ngài quản lý Dương Quang, rồi Ngài hóa thân ra Ðức Phật
Mẫu để quản lý Âm Quang.

Khi
đã có đủ Âm Dương rồi, Ngài cho Âm Dương chuyển động, biến hóa ra Tứ
Tượng: Thái Dương, Thái Âm, Thiếu Dương, Thiếu Âm. Tứ Tượng biến hóa ra
Bát Quái: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Ðoài. Bát Quái tiếp tục
biến hóa tạo thành CKVT và vạn vật.

CKVT
của Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế về phần hữu hình gồm có: Tam thiên Thế
giới (3000 Toàn cầu) và Thất thập nhị Ðịa (72 Ðịa cầu), cộng lại là 3072
người nổi tiếng. Mỗi người nổi tiếng có một vị Thiên Ðế thống trị. (Thiên đế cũng là
hóa thân của Thượng Ðế). Các người nổi tiếng ấy được ví như những mắc lưới của
một tấm lưới lớn (Ðại La) bao trùm CKVT, nên Ðấng chưởng quản toàn cả
tấm lưới lớn ấy được gọi là Ðại La Thiên Ðế. Ðấng ấy là vị vua thiêng liêng ngự tại ngôi Thái Cực, nên cũng gọi Ðấng ấy là Thái Cực Thánh Hoàng.

Ðấng ấy hóa sanh ra vạn vật và nhơn loại, là CHA chung của chúng sanh, nên còn gọi Ðấng ấy là Ðại Từ Phụ.

Ðấng ấy là Ðấng duy nhứt, được tôn kính nhứt trong CKVT, nên gọi Ðấng ấy là Ðại Thiên Tôn.

(Ðấng Thiên Ðế thống trị Ðịa cầu 68 của nhơn loại tất cả chúng ta được Phật giáo gọi là Phạm Thiên Vương hay Ðế Thích).

Tóm
lại, trong CKVT nầy, có một Ðấng duy nhứt tạo dựng ra CKVT và hóa sanh
vạn vật. Ðấng ấy được người đời gọi bằng nhiều danh từ khác nhau tùy
theo trường hợp, kể ra:

  • Ðấng Ðại La Thiên Ðế.

  • Ðấng Thái Cực Thánh Hoàng.

  • Ðấng Ngọc Hoàng Thượng Ðế, hay vắn tắt là Ðấng Thượng Ðế.

  • Ðấng Huyền Khung Cao Thượng Ðế Ngọc Hoàng.

  • Ðấng Ðại Thiên Tôn.

  • Ðấng Ðại Từ Phụ.

  • Ðấng Chí Tôn, Ðấng Chí Linh, Ðấng Chí Công.

  • Ðấng ấy tự xưng là Thầy và gọi Tín đồ là Môn đệ.

 

3.
Hóa dục quần sanh,

4.
Thống ngự vạn vật.

 

化 育 群 生
統 御 萬 物

GIẢI NGHĨA

Sanh ra. Nuôi dưỡng. Nhiều, tụ họp đông đảo. Sống. đồng nghĩa với Chúng sanh, chỉ toàn bộ các loài có sự sống như: Thảo mộc, Sâu bọ, Thú cầm và Nhơn loại.

Tóm lãnh hết cả. Thống trị.

 

5.
Diệu diệu Huỳnh Kim Khuyết,

6.
Nguy nguy Bạch Ngọc Kinh.

 

渺 渺 黃 金 闕
巍 巍 白 玉 京

GIẢI NGHĨA

Còn được đọc là Diêu, Diểu, Miểu, nghĩa là xa tít mù. Ở mù mù rất xa.

Màu vàng. Vàng, một thứ kim loại rất quí, là vua của các kim loại. Huỳnh Kim là vàng ròng. Cái cổng vào đền vua.
Cái cổng làm toàn bằng vàng ròng để đi vào Ðền của Ðức Ngọc Hoàng
Thượng Ðế. Phía trong Huỳnh Kim Khuyết là nơi họp Triều đình của Ðức
Thượng Ðế .

Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo “Con đường Thiêng liêng Hằng sống” có nói như sau:

“Trên
hết, tất cả chúng ta ngó thấy Ðức Chí Tôn ngự với cái triều nghi của Ngài là
Huỳnh Kim Khuyết. Nơi Huỳnh Kim Khuyết, trên đầu của Ngài nơi xa xa,
tất cả chúng ta thấy vọi vọi, xa nữa tất cả chúng ta thấy 3 vị Phật là: Brahma Phật, Civa Phật, và Christna
Phật, ngự trên nữa, xa hơn nữa, coi vọi vọi xa xăm hơn nữa, tất cả chúng ta
không thế gì tưởng tượng được, con mắt mình ngó thấy như một đạo hào
quang nhanh chóng mà không có hình ảnh gì hết, chiếu diệu trên cái triều
nghi của Ngài là Huỳnh Kim Khuyết, mà dưới Huỳnh Kim Khuyết là Cửu phẩm
Thần Tiên đang ngự triều với Ðức Chí Tôn, tất cả chúng ta không thế gì tưởng
tượng được, oai nghiêm huyền bí làm sao!”

Dáng núi cao lớn khổng lồ. Ðồ sộ cao vòi vọi. Loại đá quí màu trắng trong rất đẹp. Tòa lâu đài to lớn dùng làm nơi đóng đô của vua.

Vàng
là vua loài kim, Ngọc là vua loài đá, vì thế 2 thứ quí báu nầy được
dùng làm các vật dụng của vua hay để trang trí trong đền vua.

Bạch Ngọc Kinh là tòa lâu đài khổng lồ làm toàn bằng ngọc trắng, làm nơi ngự của Ðức Chí Tôn Thượng Ðế.

Có bài thơ mô tả Bạch Ngọc Kinh:

Tân tả Bạch Ngọc Kinh

Một tòa Thiên các ngọc làu làu,
Liền bắc cầu qua nhấp nhóa sao.
Vạn trượng then gài ngăn Bắc Ðẩu,
Muôn trùng nhiếp khảm hiệp Nam Tào.
Chư Thần chóa mắt màu thường đổi,
Liệt Thánh kinh tâm phép vẫn cao.
Dời đổi chớp giăng đoanh đỡ nổi,
Vững bền muôn kiếp không hề xao.

Bạch
Ngọc Kinh là tòa lâu đài quí báu nhứt, khổng lồ đẹp đẽ nhứt, huyền diệu
nhứt nơi cõi TL. Lâu đài nơi cõi tục còn bị hư sập hay bị phá hủy theo
thời gian, nhưng Bạch Ngọc Kinh thì tồn tại vĩnh viễn. Toàn bộ các Chơn
linh , khi đã đắc đạo, đều phải đến Bạch Ngọc Kinh bái lễ Ðức Chí Tôn.

“Lại
gần tới, còn thấy một vật khác thường quái lạ, nhưng nó là một tòa
Thiên các đẹp đẽ lắm, màu sắc thay đổi sáng rỡ, mà cả Thoại khí bao
quanh, làm như thể vận tải hình trạng của nó vậy. Lâu đài chớn chở mà
nó là sinh vật sống chớ không như gạch đá tất cả chúng ta làm đây, nó vận hành
như sinh vật sống vậy, thay đổi màu sắc vô cùng vô biên.

Bí pháp ấy không thế gì tả đặng, ngó thấy rực rỡ lắm!

Nhà
cửa ở thế gian nầy là sinh vật chết, Bạch Ngọc Kinh là sinh vật sống,
biến hóa thay đổi như thể vận hành, xung quanh Thoại khí bao trùm, từ
Nam chí Bắc, từ Ðông qua Tây. Khối lửa ánh sáng ấy, tất cả chúng ta ngó thấy
như mặt trời vậy, mà ánh sáng mặt trời thì nóng nực bực dọc, còn ánh
sáng nơi tòa Bạch Ngọc Kinh lại dịu dàng và huyền bí lắm, sung sướng
khoái lạc lắm!

Vì sao đài các là con tử vật mà nó sống? Sống là do nơi đâu? Nếu biết thì không lạ gì!

Bạch
Ngọc Kinh là do Hỗn Nguơn Khí biến hình ra. Hỗn Nguơn Khí là Khí Sanh
Quang của tất cả chúng ta đã thở, đã hô hấp, khí để nuôi cả sanh vật sống. Ta
sống cũng do do nơi nó xuất hiện, mà biểu nó làm sao không sống?

Khi
Bần đạo ngồi trên Pháp xa đến, thấy các Chơn linh hằng hà sa số, bao
vây trước cửa la liệt không thể đếm. Pháp xa vừa ngừng, Bần đạo bước
xuống thấy 3 cửa nơi Bạch Ngọc Kinh có 12 vị Thời Quân mặc khôi giáp,
tay cầm Bửu pháp, đứng cản đường không cho thiên hạ vô. Bần đạo thấy 3
cửa ấy xa nhau, mỗi cửa có 4 người giữ. Bần đạo muốn trò chuyện thì 3
cửa ấy gom lại, 12 người hiệp lại đứng trước mặt Bần đạo. Bần đạo hỏi,
vì cớ nào không cho người ta vô?

Vừa
hỏi thì họ bỡ ngỡ nói người ta biểu đừng cho vô. Nói người ta biểu thì
Bần đạo biết là Kim Quang Sứ biểu xúi đừng cho các Chơn linh vào Bạch
Ngọc Kinh. Giận quá, day mặt ra ngoài biểu các Chơn linh vô. Họ tràn vô
nghe một cái ào, hình như nước bể bờ chảy vào Bạch Ngọc Kinh vậy. Tới
chừng các Chơn linh vô hết, liền biểu 12 vị Thời Quân vô, rồi đứng dòm
cùng hết thảy coi còn ai ở ngoài nữa không? Bần đạo cầm cây Giáng Ma Xử
đi vô Bạch Ngọc Kinh sau hết.

Bạch
Ngọc Kinh chia làm 3 căn, cửa ra vào giữa các vị Phật cao siêu, mình
đứng day vô, phía bên tả là phái nữ, phía bên hữu là phái nam. Bần đạo
nghe đi rần rần rộ rộ, bên kia thì thấy hình bóng chiếu qua vách mà
thôi, tấm vách thật lạ lùng, trong trắng giống như sương sa vậy.

Buổi
đầu, Bần đạo không để ý, đi tới nữa, thấy cả thảy đều có ngôi vị của họ
sẵn. Bần đạo vô cửa thấy họ ngồi có chỗ hết, còn mình thì bơ thờ, cầm
cây Giáng Ma Xử đi vô, không biết đi đâu. Nói sao người ta có chỗ ngồi,
còn mình không có? Vừa nói rồi thì thấy có người đứng gần bên mình mà
không hay, họ trả lời: Cái ngai của Ngài kia. Bần đạo dòm lên thấy cái
ngai tốt lắm, thấy rồi mà trong bụng hồ nghi nói không biết họ có gạt
mình không. Bần đạo sợ, vừa sợ thì có người nói: Chính cái ngai này là
của Ngài.

Từ
thử đến giờ, dầu vạn kiếp sanh chịu khổ để tạo vị nơi mặt thế gian nầy
cũng không bằng ngồi được trên đó. Nơi đó sung sướng lắm, sung sướng làm
sao đâu! …”

 

7.
Nhược thiệt nhược hư,

8.
Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa.

 

若 實 若 虛
不 言 而 默 宣 大 化

GIẢI NGHĨA

Nếu như, ví bằng. Thực, có hình ảnh rõ ràng thấy được. Trống không, không thấy gì cả.

Ðó
là Ðạo Trời huyền diệu không lường, hư hư thực thực, biến hóa mầu nhiệm
vô cùng, lúc có lúc không, không thể nào lấy trí phàm mà biết hết được.

Không. Lời nói. Không lời nói. Mà. Yên lặng. Bộc bạch cho người khác biết. Lớn. Thay đổi. Cuộc biến hóa lớn.

Sách
Luận Ngữ: Thiên hà ngôn tai! Tứ thời hành yên? Vạn vật sanh yên? Nghĩa
là: Trời có nói gì đâu! Bốn mùa há không vận tải sao? Muôn vật há
không sanh hóa sao?

 

9.
Thị không, thị sắc.

10.
Vô vi nhi dịch sử quần linh.

 

是 空 是 色
無 為 而 役 使 群 靈

GIẢI NGHĨA

Là, ấy là. Trống rổng, mắt phàm không thấy chi cả. Những thứ có hình tướng, mắt phàm thấy rõ.

SẮC thì có hình tướng nên thuộc vật chất hữu hình.

KHÔNG
thuộc vô vi, không hình tướng, mắt phàm không thể thấy được. Nói như
thế là so với người phàm, với mắt phàm; nhưng so với con mắt thiêng
liêng thì không có gì là KHÔNG, không có gì là SẮC, tức là không còn
phân biệt SẮC và KHÔNG.

Bát Nhã Tâm Kinh của Phật giáo có câu:

“SẮC tức thị KHÔNG, KHÔNG tức thị SẮC,
SẮC bất dị KHÔNG, KHÔNG bất dị SẮC.”

Nghĩa là:

SẮC tức là KHÔNG, KHÔNG tức là SẮC,
SẮC không khác với KHÔNG, KHÔNG không khác với SẮC.

Trong Ðạo Ðức Kinh, Ðức Lão Tử cũng có nói: “Hữu xuất ư Vô”. Nghĩa là: Cái CÓ từ cái KHÔNG mà ra.

Thuở
tạo dựng Trời Ðất, Ðức Chí Tôn dùng 2 Khí Dương quang và Âm quang, là 2
chất khí không hình ảnh (tức là KHÔNG) để phối hợp sanh ra CKVT và vạn
vật có hình thể (tức là SẮC). Như vậy, Ðức Chí Tôn đã lấy KHÔNG mà tạo
thành SẮC. Khi đã có sắc tướng rồi thì phải chịu luật Thành Trụ Hoại
Diệt, sắc tướng chỉ tồn tại một thơì gian rồi phải bị tiêu diệt để trở
về KHÔNG, tức là trở về nguồn cội Vô Vi.

Không. Làm. Mà. Sai khiến làm việc. Sai khiến.
Quần là nhiều, Linh là chơn linh, Linh hồn. Quần linh đồng nghĩa Vạn
linh, chỉ toàn bộ chơn linh trong CKVT gồm đủ Bát phẩm chơn hồn: Kim
thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn,
Tiên hồn và Phật hồn.

Nghĩa đen là không làm, nghĩa thường dùng là không hình ảnh, thuộc vô
hình. Trái với Vô Vi là Hữu Vi, là có hình ảnh thấy được, thuộc hữu hình
sắc tướng.

Ðạo
Ðức Kinh viết rằng: “Ðạo thường vô vi nhi vô bất vi”. Nghĩa là: Cái Ðạo
thường thì không làm gì nhưng không việc gì không làm được.

Ðạo
là Hư Vô chi Khí, mà Hư Vô chi Khí sanh ra Ðức Chí Tôn, nên Ðức Chí Tôn
cũng chính là Ðạo. Ngài không làm gì nhưng sai khiến được Vạn linh
trong CKVT vì Ngài là Ðạo.

 

11.
Thời thừa lục long,

 
du hành bất tức.

 

時 乘 六 龍
遊 行 不 息

GIẢI NGHĨA

Thường thường. Cỡi. Sáu con rồng. Ði khắp nơi. Không ngừng nghỉ.

Lục long là 6 con rồng, tượng trưng 6 vạch liền của quẻ CÀN trong Kinh Dịch.

Vương Bật, thuộc phái Huyền học thời Nam Bắc Triều bên Tàu, ghi chú tượng của quẻ Càn trong Kinh Dịch như sau:

“Thời
thừa lục long dĩ ngự Thiên, Càn đạo biến hóa, các chánh tánh mạng.”
Nghĩa là: Luôn luôn cỡi 6 rồng để ngự trị Trời, đạo Càn biến hóa, mỗi
vật giữ ngay ngắn vận mạng của bản tánh.

Càn
tượng trưng Trời. Thời thừa lục long là chỉ cái sức mạnh mẽ của Ðấng
Thượng Ðế bao trùm CKVT như 6 con rồng vùng vẫy trong không trung.

Du hành bất tức là chỉ sự vận tải và sự biến hóa luôn luôn, và vô cùng tận của Ðấng Thượng Ðế.

Nơi
nóc Plafond dù ở 9 cấp Cửu Trùng Ðài của Tòa Thánh Tây Ninh, có tạc
hình 6 con rồng đoanh nhau theo 3 màu đạo: 2 rồng vàng, 2 rồng xanh, 2
rồng đỏ, để tượng trưng cho Câu kinh 11 ở trên.

 

12.
Khí phân Tứ Tượng.

13.
Oát triền vô biên.

 

氣 分 四 象
斡 旋 無 邊

GIẢI NGHĨA

Chất khí, ở đây chỉ khí Lưỡng Nghi: Âm quang và Dương quang. Chia ra. Bốn Tượng gồm: Thái Dương, Thái Âm, Thiếu Dương, Thiếu Âm.

Theo
phần Giải nghĩa nơi Câu 1 và Câu 2 thì: Khí Hư Vô biến sanh Thái Cực,
ngôi của Ðức Chí Tôn và đó cũng là một Khối Ðại Linh Quang của Ðức Chí
Tôn. Ðức Chí Tôn phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi: Âm quang và Dương quang.
Hai khí nầy xây chuyển và phối phù hợp với nhau để sanh ra Tứ Tượng. Rồi Tứ
Tượng biến hóa tiếp tục để tạo ra Bát Quái. Bát Quái biến hóa vô cùng để
tạo thành CKVT và vạn vật.

Như vậy, nguồn gốc phát khởi là Khí Hư Vô.

Thái
Cực, Lưỡng Nghi, Tứ Tượng đều là thể khí với nguồn năng lực là ánh sáng
linh thiêng vô cùng tận. Tới khi Bát Quái biến hóa thì khởi đầu có Trời
Ðất và vạn vật hữu hình.

Chuyển xoay đi. Xoay trở lại. Oát triền là xoay chuyển qua lại. Không biên giới, không hạn chế.

CHÚ Ý: Chữ Hán 斡 旋 phải phiên âm ra tiếng Việt là OÁT TRIỀN thì mới đúng chánh tả, theo Từ Ðiển Hán Việt của Ðào Duy Anh quyển II, trang 87 và 490.

 

14.
Càn kiện cao minh.

15.
Vạn loại thiện ác tất kiến.

 

乾 健 高 明
萬 類 善 惡 悉 見

GIẢI NGHĨA

Quẻ trước tiên trong Bát Quái, tượng trưng Trời. Mạnh mẽ. Ở trên cao. Sáng tỏ.

Trong quyển “Châu Dịch Huyền Giải” của Minh Lý Ðạo ấn tống, nói về sự mạnh mẽ của ngôi Càn như sau:

“Kiền
(Càn) là cương kiện. Nói rõ hơn, Kiền là cương kiện quật cường chi
nghĩa. Thế của nó có 6 hào đều dương, tượng của nó là thuần dương (nên
nói 6 rồng, rồng thuộc về Dương). Mạnh không chi bằng Trời, Trời là Ðạo,
một khí lưu hành, tuần hoàn không giáp mối, trải bao nhiêu thời gian,
không gian, không ngằn mé (vô biên). Vạn vật không có một vật nào mà
không đặng nó chở che, mà cũng không vật nào làm hại nó được.”

Muôn loài sanh vật trong CKVT. Lành và dữ. Ðều, biết rõ. Thấy, biết.

Do
đó, trong đạo Thiên Tâm, Ðức Chí Tôn dạy thờ Thiên Nhãn là thờ THẦY. Thầy
là Trời, là Thượng Ðế, mà theo lời nói thông thường là Trời cao có Mắt,
cái gì cũng thấy rõ hết, dầu giấu giếm kín đáo đến đâu cũng không thể
che được con Mắt thiêng liêng của Trời được.

 

16.
Huyền phạm quảng đại.

17.
Nhứt toán họa phước lập phân.

 

玄 範 廣 大
一 算 禍 福 立 分

GIẢI NGHĨA

Sâu xa kín đáo, huyền diệu. Khuôn mẫu để người ta học theo làm theo, phép tắc. Rộng lớn. Lớn. Quảng đại là rộng lớn.

Phạm
vi khuôn phép của Trời Ðất rộng lớn mênh mông vô cùng, nhưng cũng rất
huyền diệu, dầu một mũi kim nhỏ cũng không qua lọt, một mảy cũng không
bỏ sót. Vì thế có câu: Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu. Nghĩa là:
Lưới Trời lộng lộng, thưa mà không lọt.

Một. Ðếm số mà tính ra nhiều ít, làm toán, tính toán. Tai vạ lớn. Ðiều may mắn tốt lành. Tạo thành, lập thành. Chia ra.

Cái
tính toán của Ðức Chí Tôn trổ tài bằng Cây Cân Công Bình thiêng liêng,
để cân họa phước, trong nháy mắt thì biết rõ kết quả: Phước nhiều thì
thăng, tội nhiều thì đọa.

Thuyết đạo về Đoạn đường Thiêng liêng Hằng sống, có mô tả
Ðức Chí Tôn cầm Cây Cân Công Bình thiêng liêng như sau:

“Vừa
nói rồi thì thấy Ổng (Ðức Chí Tôn) bước ra đứng ngay trung tâm, ngó
ngay Bần đạo, hình như thể biểu con coi đây, ngó ngay lên Ổng, thấy đạo
hào quang chiếu diệu ra, tay cầm cây gậy coi đẹp lắm. Cây gậy của Ổng
quảy cái bầu, bên mình Ổng mang một cái bị, mặc bộ quần áo Ngọc Hoàng Thượng
Ðế, nắm ngang cây gậy trên tay thành cây đòn cân, Ổng kéo cái bầu ra
thành cái giá cân, Ổng kéo cái bị ra thành trái cân. Ba món báu ấy hiệp
lại thành Cây Cân Công Bình thiêng liêng mà chính mình đã thấy Ổng nơi
Linh Tiêu Ðiện.”

 

18.
Thượng chưởng Tam thập lục Thiên, 

 
Tam thiên Toàn cầu. 

 

上 掌 三 十 六 天
三 千 世 界

GIẢI NGHĨA

Ở trên, phần trên. Nắm giữ, thống trị . 36. Ở đây có nghĩa là từng Trời. Tam thập lục Thiên là 36 từng Trời.

3000. Thiên là một ngàn.
Ðịa cầu. Khi nhìn lên khung trời vào đêm, tất cả chúng ta thấy những vì sao lấp
lánh sáng, này là những Toàn cầu. Những Toàn cầu thanh nhẹ thì ở trên
cao, những Toàn cầu ít thanh nhẹ hơn thì ở dưới thấp. Tam thiên Toàn cầu
là 3000 Toàn cầu, tức 3000 Ðịa cầu.

Giáng cơ dạy Luật Tam Thể, có đoạn nói về Tam thiên Toàn cầu và Thất thập nhị Ðịa như sau:

“Mấy
em thử phân lại Tam thiên Toàn cầu và Thất thập nhị Ðịa coi thử? Bạch:
Tam thiên Toàn cầu là ở từng trên bao phủ mà Thất thập nhị Ðịa ví như
bàn cờ ở dưới. Ðức Cao Thượng Phẩm nói: Phải đó vậy. Tam thiên Toàn cầu
là ngôi vị, còn Thất thập nhị Ðịa là Trường thi Công quả, hiểu chưa?”

Theo
lời dạy của Ðức Cao Thượng Phẩm thì bên trên của vũ trụ hữu hình là
3000 Toàn cầu, chỉ gồm có những ngôi vị của chư Thần Thánh Tiên Phật,
còn bên dưới của vũ trụ là 72 Ðịa cầu có nhơn loại ở, nơi đó dùng làm
Trường Thi Công Quả, tức là để cho nhơn loại tu hành, lập công bồi đức
mà đắc đạo, đoạt được quả vị và được thăng lên ở trên 3000 Toàn cầu.

 

19.
Hạ ốc Thất thập nhị Ðịa,

 
Tứ Ðại Bộ Châu.

 

下 握 七 十 二 地
四 大 部 洲

GIẢI NGHĨA

Ở dưới, ở phần dưới. còn đọc là Ác, nghĩa là: Nắm lấy, cầm giữ. 72. Ðịa cầu.
72 quả Ðịa cầu. Các Ðịa cầu nầy được đánh số từ cao dần xuống thấp, tức
là từ thanh khiết xuống trọng trược, và Ðịa cầu của nhơn loại tất cả chúng ta
đang ở là Ðịa cầu số 68.

4. Lớn. Nghề, môn. Vùng đất lớn có biển bao bọc xung quanh.

Tứ Ðại Bộ Châu là 4 Bộ Châu lớn được phân tách theo 4 phương: Ðông, Tây, Nam, Bắc , có tên là:

  • Ðông Thắng Thần Châu,

  • Tây Ngưu Hóa Châu,

  • Nam Thiệm Bộ Châu,

  • Bắc Câu Lư Châu.

Thất
thập nhị Ðịa (72 Ðịa cầu) được chia ra ở trong Tứ Ðại Bộ Châu nầy. Ðịa
cầu 68 của nhơn loại tất cả chúng ta thuộc Nam Thiệm Bộ Châu.

Phần
trên của vũ trụ là Tam thập lục Thiên và Tam thiên Toàn cầu; phần dưới
của vũ trụ là Tứ Ðại Bộ Châu và Thất thập nhị Ðịa. Toàn bộ trên dưới đều
do Ðấng Ngọc Hoàng Thượng Ðế tạo dựng và chưởng quản. Như vậy CKVT của
Ðức Chí Tôn gồm có 2 phần: Hữu hình và Vô hình.

  • Phần Vô hình gồm: Tam thập lục Thiên và Tứ Ðại Bộ Châu (36 từng Trời và 4 Bộ Châu lớn).

  • Phần Hữu hình gồm: Tam thiên Toàn cầu và Thất thập nhị Ðịa (3000 Toàn cầu và 72 Ðịa cầu).

Ðức Chí Tôn dạy Ông Phối Sư Thái Bính Thanh làm một Trái Càn Khôn tượng trưng CKVT thờ nơi BQÐ TTTN:

TNHT.
Ι. 45: “Bính! Thầy giao cho con lo một Trái Càn Khôn, con hiểu nghĩa gì
không? Cười … Một trái như trái đất tròn quay, hiểu không? Bề kính
tâm 3 thước 3 tấc, nghe con! Lớn quá, mà phải vậy mới đặng, vì là cơ mầu
nhiệm Tạo Hóa trong ấy, mà sơn màu xanh da trời, Cung Bắc Ðẩu và Tinh
tú vẽ lên Trái Càn Khôn ấy.

Thầy
kể, Tam thập lục Thiên, Tứ Ðại Bộ Châu, ở không không trên không khí,
tức là không phải Tinh tú, còn sót lại Thất thập nhị Ðịa và Tam thiên Thế
giới thì đều là Tinh tú. Tính lại 3072 người nổi tiếng. Con phải biểu vẽ lên đó
cho vừa.

Con
giở sách Thiên văn Tây ra coi mà học theo. Tại ngôi Bắc Ðẩu, con phải
vẽ 2 cái bánh lái cho vừa và sao Bắc Ðẩu cho rõ ràng. Trên vì sao Bắc
Ðẩu, vẽ Con Mắt Thầy.”

 

20.
Tiên Thiên, Hậu Thiên,

 
Tịnh dục Ðại Từ Phụ.

 

先 天 後 天
並 育 大 慈 父

GIẢI NGHĨA

Trước. Sau. Trời.

Tiên
Thiên là trước khi tạo dựng Trời Ðất. Thời kỳ Tiên Thiên nằm trong
khoảng thời gian từ khi xuất hiện ngôi Thái Cực cho đến khi Thái Cực
phân ra Lưỡng Nghi Âm Dương. Dương nhẹ nổi lên thành Trời, Âm nặng chìm
xuống thành Ðất. Thời kỳ Tiên Thiên còn ở trạng thái Vô vi, vô hình.

Hậu
Thiên là sau khoảng thời gian tạo dựng Trời Ðất. Thời Hậu Thiên nằm trong khoảng
thời gian sau khoảng thời gian xuất hiện Lưỡng Nghi, tức là sau khoảng thời gian có được Trời Ðất,
tức CKVT và vạn vật. Thời kỳ nầy thuộc về Hữu hình sắc tướng.

             Thái Cực            Lưỡng Nghi           Trục thời gian
——————–Σ———————————————Ҳ——————————–>>
Hồng mông (Hỗn Ðộn)  Tiên Thiên          Hậu Thiên

Cùng, đều. Nuôi dưỡng. là nuôi dưỡng đồng đều như nhau. Lớn. Lòng thương yêu chúng sanh.
Cha. Ðại Từ Phụ là người Cha to hơn hết các người cha, có lòng lành
thương yêu chúng sanh, vì chúng sanh đều là con cháu của Ngài. Ðấng ấy là
Ngọc Hoàng Thượng Ðế, nay gọi là Ðấng Cao Ðài.

Ðấng
Thượng Ðế nuôi sống chúng sanh bằng không khí để thở, bằng ánh sáng mặt
trời để sưởi ấm, nước để uống và các loại thực phẩm. Không vì người đạo
đức mà Thượng Ðế ban cho nhiều hơn, hay không vì kẻ hung bạo gian tà mà
ban cho nó thấp hơn, không ban cho nó sống. Còn các vật, không vì loài
hữu ích mà ban cho nó nhiều, không vì loài độc hại mà lấy bớt. Thượng Ðế
nuôi dưỡng chúng sanh mọi loài đều như nhau. Tình thương của Thượng Ðế
chan hòa đồng đều khắp cả.

Mặt
khác, Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế là Thầy mà cũng là Cha (Ðại Từ
Phụ). Ðức Phạm Hộ Pháp thắc mắc điểm nầy nên có cầu Ðức Nguyệt Tâm Chơn
Nhơn, hỏi:

– Phàm là Cha thì làm Cha, còn Thầy thì làm Thầy, chớ sao Ðại Từ Phụ lại xưng là Thầy, rất nên khó hiểu?

Ðức Nguyệt Tâm trả lời bằng bài thơ Pháp văn, dịch ra thơ song thất lục bát như sau: (Ðức Phạm Hộ Pháp dịch)

Người cũng vẫn Cha Thầy luôn một,
Cả chơn linh, hài cốt, tay Người.
Nuôi mình dùng vật thanh tươi,
Tạo hồn lấy phép tột vời Chí Linh.

Nơi Người vốn quang minh cách trí,
Tấn hóa hồn phép quí không ngưng.
Vật hèn trước mắt thành trân,
Hồn hèn Người lại dành phần Phật Tiên.

Luật Thương yêu, quyền là ngay chánh,
Gần thiện căn, xa lánh phàm tâm.
Làm Cha nuôi sống thầm lặng,
Làm Thầy lại nhượng phẩm Thần ngôi Tiên.

 

21.
Kim ngưỡng, cổ ngưỡng.

22.
Phổ tế Tổng Pháp tông.

 

今 仰 古 仰
普 濟 總 法 宗

GIẢI NGHĨA

Thời nay. Thời xưa.

Ngửa mặt nhìn lên với lòng kính mến.

Khắp nơi, rộng lớn. Trợ giúp.

Gom lại. Pháp có nghĩa rất rộng, ở đây, Pháp có nghĩa là Giáo lý của một nền tôn giáo. còn đọc là Tôn: Tôn giáo. Pháp tông là giáo lý của một tôn giáo.

Tổng Pháp tông là gom toàn bộ Giáo lý của các nền tôn giáo lại thành một mối.

Xưa
kia, Ðức Chí Tôn cho khai mở riêng rẽ nhiều nền tôn giáo khác nhau nơi
các vùng dân cư khác nhau trên mặt Ðịa cầu nầy, để giáo hóa và cứu giúp
dân chúng vùng đó, vì thuở ấy, loài người còn kém văn minh, việc đi lại
và thông tin từ nơi nầy đến nơi khác rất khó khăn. Các tôn giáo chỉ hành
đạo nơi địa phương riêng của mình mà thôi. Bởi vậy, nhơn loại bị phân
chia đối nghịch nhau, cho đạo mình là chánh, đạo khác là tà.

Ngày
nay, nhơn loại tiến đến một nền văn minh rất cao, nhơn loại đã hiệp
đồng, và cũng đúng vào thời kỳ Hạ nguơn Mạt kiếp, một cuộc Tận thế sắp
xảy ra, để chuyển sang Thượng nguơn Thánh đức, nên Ðức Chí Tôn mở lòng
Ðại từ Ðại bi, khai sáng ÐÐTKPÐ để gom toàn bộ Giáo lý của các nền tôn
giáo đã có từ trước tới nay, qui về một mối duy nhứt là Ðạo Cao Ðài,
không còn chia rẽ phân biệt nhau, cùng nhau có chung một tín ngưỡng,
cùng thờ một Ðấng Duy Nhứt Tối Cao, Chúa Tể CKVT, và cũng là Ðại Từ Phụ
của nhơn loại. Ðó chính là tôn chỉ của Ðạo Cao Ðài: Qui nguyên Tam giáo,
Phục nhứt Ngũ Chi.

Ðây
là thời kỳ mà Ðức Chí Tôn làm một cuộc Tổng Pháp tông, thống hợp các
tôn giáo, cứu độ toàn chúng sanh trong buổi đời Mạt kiếp của Hạ Nguơn
Tam Chuyển nầy.

 

23.
Nãi Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thần chi quân,

24.
Vi Thánh, Thần, Tiên, Phật chi chủ.

 

乃 日 月 星 辰 之 君
為 聖 神 仙 佛 之 主

GIẢI NGHĨA

Bèn, hóa ra là, ấy là. Mặt trời. Mặt trăng. Người nổi tiếng, tinh tú. Ngày giờ, chỉ về thời gian. Tiếng đệm. Vua.

Nhựt, Nguyệt, Tinh là Tam bửu trên khung trời, chỉ về Không gian. Thần là ngày giờ, chỉ về Thời gian.

Ðức Chí Tôn có giáng cơ dạy rằng:

“Thập
nhị Khai Thiên là Thầy, Chúa cả Càn Khôn Thế Giới, nắm trọn Thập nhị
Thời Thần vào tay. Số 12 là số riêng của Thầy,”

Theo
Bài Thánh ngôn nầy, Ðức Chí Tôn là Chúa của Càn Khôn Thế Giới, tức là
Chúa của Nhựt Nguyệt Tinh; và Ðức Chí Tôn cũng là Chúa của Thập nhị Thời
Thần, tức là Chúa của Thời gian.

Là.
Bốn cấp phẩm vị thiêng liêng giành cho những người đạo đức tu hành đắc
quả, tùy thuộc vào công đức nhiều ít mà được phẩm vị cao thấp tương xứng.
Phẩm thấp nhứt là Thần, cao hơn chút là phẩm Thánh, cao hơn nữa là phẩm
Tiên, và cao nhứt là phẩm Phật.

Tiếng đệm. Người quản lý, làm Chúa, tức là người làm ra sự vật và có toàn quyền quyết định số phận của sự vật ấy.

Người
chủ này là Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế. Ðức Chí Tôn, không chỉ là
chủ của các Ðấng ấy, mà đang là Cha sanh ra các Ðấng ấy nữa.

“Khai Thiên Ðịa vốn Thầy, sanh Tiên, Phật cũng Thầy. Thầy nói
một Chơn thần mà biến Càn Khôn Thế Giới và cả nhơn loại.

Thầy là chư Phật, chư Phật là Thầy.

Các con là chư Phật, chư Phật là các con.

Có Thầy mới có các con, có các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Thầy
khai Bát Quái mà tác thành Càn Khôn Thế Giới, nên mới gọi là Pháp. Pháp
có mới sanh ra Càn Khôn Vạn vật, rồi mới có người, nên gọi là Tăng.

Thầy là Phật, chủ cả Pháp và Tăng, lập thành các Ðạo mà phục hồi các con hiệp một cùng Thầy,”

Nhiều
người mê chấp cho rằng, chỉ có Phật là lớn, còn Thượng Ðế là Ông Trời
thì nhỏ hơn Phật. Họ dẫn chứng bằng Truyện Tây Du, khi Tề Thiên Ðại
Thánh loạn Thiên Cung, Thượng Ðế cũng phải thua chạy, phải cầu cứu Phật
Tổ. Phật Tổ qua mới bắt được Tề Thiên, đem đè dưới Ngũ Hành Sơn.

Ðầu
truyện thì nói Tề Thiên tài giỏi như vậy, song về sau thì Tề Thiên rất
dở, đánh không lại nhiều con yêu, phải đi cầu cứu thầy của chúng xuống
bắt về. Xét như vậy để thấy rằng Truyện Tây Du trước sau không thống
nhứt, không đáng tin.

Mặt
khác, tất cả chúng ta thử hỏi: Phật Tổ do đâu mà có? Trả lời: Do Thái tử Sĩ
Ðạt Ta đi tu thành Phật. Thái tử Sĩ Ðạt Ta chỉ là một người nơi thế
gian. Thể xác của Thái Tử do vua cha và hoàng hậu, mẹ của Thái tử sanh
ra, nhưng Linh hồn và Chơn Thần của Thái tử do đâu mà có?

Chúng
ta biết rằng, toàn bộ đều do Thượng Ðế sanh ra. Ðó là Ðấng Ðại Từ Phụ
của toàn cả chúng sanh. Dù loài người có tu thành Phật thì Phật đó cũng
vẫn là con của Thượng Ðế, mà con thì không thể to hơn cha.

Ðây là một Chơn lý không thể chối cãi được. Nó có tính cách khoa học hợp lý, chớ không phải do mê tín đưa ra.

 

25.
Trạm tịch chơn đạo.

26.
Khôi mịch tôn nghiêm.

湛 寂 眞 道
恢 漠 尊 嚴

GIẢI NGHĨA

Nước sâu, sâu dày. Yên lặng. Sâu dày và yên lặng. Thật, thường nói Chơn thật.

Nguyên lý trước tiên tạo thành CKVT và vạn vật.

(Xem giải nghĩa cụ thể chữ Ðạo trong Kinh Tiên giáo). Ở đây, chữ Ðạo có nghĩa là nền Ðại Ðạo của Ðức Chí Tôn.

To lớn. còn đọc là Mạc, nghĩa là yên lặng. Ðáng kính. Vẻ oai nghi đáng nể sợ.

Nền
Ðại Ðạo của Ðức Chí Tôn mở ra bao gồm các Giáo lý của Tam giáo và Ngũ
Chi, nên nó là một nền Ðại Ðạo chơn chánh, vĩ đại, sâu xa, cao quí, tôn
nghiêm, và huyền diệu vô cùng. Có được như vậy mới độ được 92 ức nguyên
nhân còn đang bị đọa lạc nơi cõi tục, đồng thời tận độ toàn cả chúng
sanh, trong thời kỳ Mạt Kiếp Hạ Nguơn, để chuyển qua thời kỳ Thượng
Nguơn Thánh đức.

 

27.
Biến hóa vô cùng.

28.
Lũ truyền bửu kinh dĩ giác thế.

 

變 化 無 窮
屢 傳 寶 經 以 覺 世

GIẢI NGHĨA

Thay đổi thành cái khác, hay đổi sang trạng thái khác, hình thức khác. Không có chỗ cuối cùng, không hạn chế.

Nhiều lần. Nhiều lần truyền ra khắp nơi. còn đọc là Bảo, nghĩa là quí báu. Kinh sách. Kinh sách quí báu. Ðể mà, dùng để.

Tỉnh ra mà biết rõ, trái với Mê. Giác và Mê, tỷ như người thức với kẻ
ngủ, thức là Giác, ngủ là Mê. Giác là Phật, Mê là chúng sanh. Ðời, người đời. Tỉnh ngộ người đời, làm cho người đời tỉnh ra mà biết rõ, đâu là tạm bợ, đâu là vĩnh cửu, đâu là thật, đâu là giả, vv…

Từ
xưa đến nay, Ðức Chí Tôn đã nhiều lần cho các Ðấng Phật Tiên giáng trần
mở Ðạo cứu đời: Ðức Phật Thích Ca mở Phật giáo ở Ấn Ðộ, Ðức Chúa Jésus
mở Thánh giáo ở nước Do Thái; Ðức Lão Tử, Ðức Khổng Tử mở Tiên giáo và
Nho giáo tại Trung Hoa, vv… Các Ðấng Giáo chủ ấy đã thuyết giảng biết
bao giáo lý cao siêu, ghi lại thành kinh sách quí báu, truyền bá trong
dân chúng, hầu thức tỉnh người đời bỏ mê tìm giác, lo việc tu hành mà
trở về ngôi xưa vị cũ.

 

29.
Linh oai mạc trắc.

30.
Thường thi Thần giáo dĩ lợi sanh.

 

靈 威 莫 測
常 施 神 敎 以 利 生

GIẢI NGHĨA

Thiêng liêng. Cái vẻ trang nghiêm khiến người khác phải nể sợ. Không. Ðo lường. Mạc trắc là không thể đo lường để hiểu rằng.

Người
thời nay, nơi các nước văn minh tối tân Âu Mỹ, Nhựt, đã chế tạo được
máy cất cánh, tàu lặn, hỏa tiển, phi thuyền, năng lượng nguyên tử, người máy,
vv… tưởng như vậy là giỏi lắm, có thể cướp được quyền Tạo Hóa.

Chúng
ta phải nói rằng, họ hoàn toàn sai lầm trong tư tưởng, vì họ chưa biết
rõ cái oai quyền thiêng liêng của Thượng Ðế. Họ không thể tạo ra được sự
sống, họ chỉ tạo ra được sự chết mà thôi. Chừng nào mà các nhà khoa học
chế tạo được một người máy Nam và một người máy Nữ, cho phối phù hợp với
nhau như vợ chồng, đẻ ra được một người máy con, thì họ mới gọi là cướp
được quyền của Tạo Hóa.

Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế là Ðấng duy nhứt tạo ra được sự sống và quản lý sự sống đó.

Ngài
là chủ tể của 2 nguyên lý Âm Dương và Ngũ Hành (Kim, Thủy, Mộc, Hỏa,
Thổ). Ðức Chí Tôn chỉ dùng cái oai linh của Ngài để xoay chuyển Ngũ Hành
cho xáo trộn một tí thôi, thì tất cả chúng ta tưởng tượng sẽ xảy ra như vậy
nào?

– Súng đạn không có lửa nẹt ra đúng lúc để nổ.

– Tàu bè, xe cộ, không có xăng lửa (Thủy Hỏa) điều hòa thì máy móc làm sao chuyển động được.

– Ðiện tử, điện trường, từ trường bị xáo trộn, làm sao tạo ra được các phản ứng vật chất.

– Ngũ tạng, Lục phủ trong thân thể loài người sẽ rối loạn, làm cho loài người mê loạn và chết thảm.

Vậy thì, loài người dù khôn ngoan đến đâu cũng không thể bằng Trời, mà cũng không thể chống lại Trời.

Người khôn ngoan là người biết nương theo các định luật của Tạo Hóa để mau tiến hóa.

Luôn luôn, hằng có. Xếp đặt mà làm ra, thi hành. Dạy. Ðể mà, dùng để. Có ích. Sống, ý nói nhơn sanh, chúng sanh.

Có 2 nghĩa tùy thuộc vào trường hợp: Thần là thiêng liêng; Thần là một trong
Tam Bửu Tinh, Khí, Thần, nên Thần là Chơn linh, Linh hồn.

Do đó, Câu kinh trên có thể được giải thích bằng 2 cách tùy thuộc vào nghĩa của chữ Thần:

1. Thần là thiêng liêng: Thần giáo là lời giáo huấn thiêng liêng của chư Tiên, Phật. Thần giáo đồng nghĩa với Thánh giáo.

2. Thần là Chơn linh. Thi Thần là sắp xếp cho các Chơn linh.

Cách
giải thích nầy phù phù hợp với Câu kinh 28: Lũ truyền bửu kinh dĩ giác thế:
Nhiều lần truyền bá kinh sách quí báu để tỉnh ngộ người đời.

Ðức
Chí Tôn đã nhiều phen sắp xếp cho các Chơn linh cao trọng giáng trần
lập Ðạo, giáo hóa nhơn sanh tu hành, tức là làm lợi nhuận cho nhơn sanh.
Nhưng, nhơn sanh u mê u tối, lại bị Quỉ Vương xúi giục, cám dỗ, nên
lần lần các mối Ðạo quí báu bị sửa cải Chơn truyền, qui phàm, mất hết
giá trị.

 

31.
Hồng oai, hồng từ.

32.
Vô cực, vô thượng.

 

洪 威 洪 慈
無 極 無 上

GIẢI NGHĨA

To lớn, rộng lớn. Vẻ trang nghiêm đáng nể sợ. Thường nói: Oai quyền. Lòng thương yêu của người trên so với kẻ dưới, lòng thương yêu chúng sanh.

Cái oai quyền to lớn do lòng thương yêu mà có, chớ không phải do sức
mạnh vũ lực đè nén người, nhờ này mà làm cho người ta phải tâm phục.

Một mẩu chuyện để tất cả chúng ta hiểu cái Hồng Oai của Ðức Chí Tôn:

“Bần
đạo đã đọc sự tích đó hồi còn đi học. Có 2 anh em bạn học ở chung một
trường với nhau. Tới kỳ thi Tú Tài thì người bạn thi rớt, về thất chí
đến nước muốn hủy mình, mà may có một điều, người bạn tâm tình kia đem
cả sự thống khổ tâm hồn mình tỏ cho bạn mình. Người bạn an ủi khuyên lơn
chi cũng không được hết.

Hôm
nọ, người thất chí đó nhứt định đi ra đón xe lửa đặng nhào đầu vô xe
lửa chết, mà không dè là người bạn của mình đi theo bén gót, đi theo xa
xa, giữ gìn mà không hay. Ông ta mới vừa đi lại gần xe lửa, người bạn
đuổi theo níu, năn nỉ giữ lại đó. Người kia vùng vẫy, đổ quạu lên nói:
“Mầy tưởng đâu mầy thương tao mà mầy kéo dài sự thống khổ của tao, chớ
không phải mầy thương tao.”

Bây
giờ chẳng thế gì can gián được, nên phải dùng kế hoạch khác, phát gây
lộn, nói: “Cái thân thể mầy đã dở, mầy ngu, mầy thi rớt, rồi mầy muốn
hủy mình. Mầy mà có chết đi nữa, linh hồn mầy xuống Ðịa ngục là thằng tù
ngu, dầu có được Ðức Chí Tôn tức nhiên Ðức Chúa Trời ban cho mầy thành
Ông Thánh đi nữa, mầy cũng là Ông Thánh ngu.”

Mắng,
2 đàng đánh lộn, ôm vật với nhau, đánh thẳng tay, mà cái Ông kia, mình
làm mưu không nỡ đánh lắm, đánh sợ đau bạn. Còn Ông bạn kia đổ quạu
thật, đánh thôi mình mẩy sưng tùm lum túa lua, rồi đem vô nhà thương
nằm. Vô đó, người bạn đó mới nói: Mầy ơi! Tao cốt yếu cố tâm đặng cứu
mầy, mầy làm tao thân thể như vậy nầy, thôi hết sức nói.

Tới
chừng người kia nằm kế bên mới động lòng khóc mướt, rồi ôm người bạn
khóc mướt đó vậy. Cứu được, từ đó anh ta theo mãi, tới thi đậu ra trường
thôi.

Ðó, Hồng Oai đó. Hiện tại mình mới nghĩ coi Hồng Oai mà làm được như vậy cũng nên làm chớ.”

Cái
oai quyền của một người Cha so với đàn con có được là do đâu? Có phải
là do lòng thương yêu của Cha so với Con, và của Con so với Cha. Chính
2 sự thương yêu tương liên đó tạo ra oai quyền của Cha so với Con.

Còn
Hồng Oai của Ðức Chí Tôn là so với toàn thể vạn linh trong CKVT, là
con cháu thương yêu của Ngài. Ðức thương yêu của Ðức Chí Tôn vô cùng tận
thì Hồng Oai của Ðức Chí Tôn cũng vô cùng tận.

Lòng thương yêu to lớn, không vì lợi nhuận riêng cho mình mà vì lợi nhuận
cho xã hội nhơn quần. Ðó là lòng thương yêu cao thượng, vượt trên ích kỷ nhỏ
nhen để mang lại lợi nhuận chung.

“Hồng
từ, ta thử kiếm hiểu, phải có cái trí não Ðại từ bi, Ðại nhân ái,
nghĩa là mọi điều nó phải do nơi Luật Tương đối hiện tượng, lúc này là
cái tình đời thì ta phải khoan hồng dung thứ. Muốn làm cho không lầm,
phải có trí não lịch lãm và khoan dung.

Nắm được tánh đức Hồng từ của Ðức Chí Tôn, lịch lãm, ta phải biết mình biết người.

Một
cái gương lịch lãm từ cổ chí kim, chưa hề có một lần thứ nhì nữa là Vua
Nghiêu, có 9 người con: 7 trai, 2 gái, mà đi tìm Ông Thuấn đặng truyền
ngôi vua lại. Còn mấy người con trai kia, ta thử nghĩ thế nào đã? Khi
tìm đặng Ông Thuấn, đem 2 người con gái gả hết, Nga Hoàng và Nữ Anh (gả
hết cho Ông Thuấn), mà ta thử nghĩ Ông Thuấn là gì? Một tên ít học, cày
ruộng, cha là Cổ Tẩu, em là Tượng ghét đáo để, nhứt là bà kế mẫu. Ngài
(Ông Thuấn) bị hiếp bức. Ta thử nghĩ vì lẽ gì Vua Nghiêu chọn Ông Thuấn
làm vua kế nghiệp cho Ngài (vua Nghiêu), chỉ vì Ông Thuấn là người hiếu
mà thôi.

Với
cái tánh lịch lãm, vua Nghiêu cho tánh đức hiếu nghĩa là đủ hết rồi. Hễ
hiếu cùng cha mẹ, nghĩa cùng anh em, 2 tánh đức đó đủ cả trí não đặng
trị thiên hạ. Ngài đoán rồi chọn Ông Thuấn. Ngài không lầm, quả nhiên
Ông Thuấn đã thành một vị Hoàng Ðế, từ cổ chí kim, chưa hề có một người
thứ nhì nữa.

Ấy
là lịch lãm, nhờ cái trí não lịch lãm của vua Nghiêu, mà cả sự hèn mạt
của Ông Thuấn kia nó mất hết. Ông chỉ lấy có Hiếu với Nghĩa mà thôi. Ấy
là cái gương lịch lãm khoan dung, mà cái cử chỉ của vua Nghiêu truyền
ngôi cho Ông Thuấn là một cái Hồng Từ mà tự thử tới giờ, chưa có ai làm
một lần thứ nhì nữa.”

Tất cả chúng ta thấy vua Nghiêu cũng
thương con lắm, nhưng Ngài lại yêu dân hơn yêu con, vì Ngài thấy rõ, con
của Ngài không thể làm cho dân hạnh phúc bằng Ông Thuấn, nên Ngài dẹp
bỏ lòng thương yêu ích kỷ, truyền ngôi cho Ông Thuấn. Do đó, Ðức Hộ Pháp
mới cho vua Nghiêu có Hồng Từ vậy.

Chúng
ta xét trong CKVT nầy, có ai oai quyền hơn Ðức Chí Tôn không? Ðó là cái
oai quyền của một ông chủ sáng lập ra cái gia tài khổng lồ là CKVT và vạn
vật. Ðó là cái oai quyền của một ông vua so với các bề tôi là chư Thần
Thánh, Tiên, Phật.

Ðức
Chí Tôn có sử dụng cái oai quyền to lớn ấy để trấn áp ai không? Ðức Chí
Tôn chỉ dùng tình thương yêu bát ngát mà ban phát cho toàn bộ con cháu của
Ngài, để mong cải hóa họ trở về nẻo chánh đường ngay; cả những đứa con
hung bạo, ngỗ nghịch, phản Ngài mà Ngài cũng vẫn thương yêu, cố đem tình
thương đến những đứa con nầy để mong chúng hồi tâm. Ðấng nào muốn trừng
phạt những đứa con phản nghịch ấy cũng đều bị Ðức Chí Tôn ngăn cản đến
phút chót, làm cho các Ðấng ấy phải lên tiếng kêu nài.

Không. Cái đầu cùng. Trên.


cực là không có gì ở ngoài cái đầu cùng, ý nói tột bực rồi. Vô thượng
là không có gì ở trên hơn nữa, ý nói cao hơn hết, cao hơn toàn bộ.

 

33.
Ðại Thánh, Ðại Nguyện,

 
Ðại Tạo, Ðại Bi.

 

大 聖 大 願
大 造 大 悲

GIẢI NGHĨA

Lớn. Ðức Thánh lớn.
Muốn và quyết tâm thực hiện. Nguyện cũng là lời thề hứa chắc đối
với bản thân mình để mình phấn đấu thực hiện cho kỳ được mới nghe, nên
thường nói là Thệ nguyện.

Lời nguyện lớn của các Ðấng từ Bồ Tát đổ lên, muốn cứu độ toàn bộ chúng
sanh. Lời nguyện đó phổ cập đến toàn cả chúng sanh, nên gọi là Ðại
nguyện.

Dựng nên, làm ra. là Ðấng Tạo Hóa lớn mà công trình của Ngài là toàn cả CKVT và vạn vật.

Lòng trắc ẩn thương cảm các cảnh khổ não của chúng sanh, lúc nào cũng muốn cứu vớt chúng sanh khỏi phiền não và tai họa. Ðức bi lớn.

Lời
nói của Ðức Chí Tôn được gọi là Thánh ngôn, lời dạy của Ðức Chí Tôn gọi
là Thánh giáo, ý kiến của Ðức Chí Tôn được gọi là Thánh ý. Ðức Chí Tôn
thường dùng chữ Thánh để chỉ về mình, biểu thị một tánh đức khiêm tốn
tối đa, để làm gương cho nhơn sanh noi theo. Vì thế, từ ngữ Ðại Thánh
là chỉ Ðức Chí Tôn.

Ðức
Chí Tôn là Ðấng Ðại Từ Bi, thấy trong buổi Hạ Nguơn Mạt kiếp, chúng
sanh mê muội đi vào đoạn đường hắc ám, tội lỗi chồng chất, nên Ðức Chí
Tôn mở đạo Thiên Tâm ban cho nhơn loại một cuộc Ðại Ân Xá cuối cùng, cứu vớt
chúng sanh lần chót để chuyển qua Thượng Nguơn Thánh đức.

“Mỗi
phen Thầy đến lập Ðạo là phải khẳng định và lãnh các con, chẳng khác nào
kẻ nghèo lãnh nợ. Các con làm tội lỗi bao nhiêu Thầy đều lãnh hết.”

 

34.
Huyền Khung Cao Thượng Ðế Ngọc Hoàng

35.
Tích phước hựu tội,

36.
Ðại Thiên Tôn.

 

玄 穹 高 上 帝 玉 皇
錫 福 宥 罪
大 天 尊

GIẢI NGHĨA

Sâu xa kín đáo, huyền diệu. To lớn cao rộng như vòm trời. Ở trên cao. tức là Ðấng Ngọc Hoàng Thượng Ðế.

Ðấng
ấy là Chúa tể CKVT, là vua của Nhựt, Nguyệt, Tinh và Thời gian, là chủ
của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, là Ðại Từ Phụ của toàn cả chúng sanh,
và hiện tại, trong thời ÐÐTKPÐ, Ngài được gọi là Ðức Chí Tôn, Ðấng Cao
Ðài.

Sách “Tứ Thời Nhựt Tụng Kinh” của nhị vị Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt, giải câu kinh nầy:

“Huyền
Khung Cao Thượng Ðế: chữ Huyền là sắc đen, màu huyền. Sách Thiên Tự
Văn: Thiên huyền Ðịa huỳnh là Trời đen Ðất vàng. Còn chữ Khung là cao.
Có câu: Thiên hình khung long kỳ sắc thương thương, nên chữ Huyền Khung
là xưng gọi vị Thượng Thiên cao vọi sắc xanh đen.”

Cho, ban cho. Với nghĩa nầy còn đọc là Tứ. Ðiều tốt lành. là ban cho điều tốt lành.

Rộng lòng tha thứ. Tội lỗi, việc làm trái với pháp luật và đạo đức. Tha tội.

Lớn. Trời, cõi Trời. Kính trọng.

Chỉ
có Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế mới được gọi là Ðại Thiên Tôn; còn các Ðấng
khác đều nhỏ hơn Ðức Chí Tôn nên chỉ được gọi là Thiên Tôn (không có
chữ Ðại phía trước). Thí dụ như:

  • Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.

  • Nhiên Ðăng Cổ Phật Vô Vi Xiển Giáo Thiên Tôn.

  • Thái Thượng ÐạoTổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn.


Xem thêm những thông tin liên quan đến đề tài hình ảnh ngọc hoàng thượng đế

Ngọc Hoàng Thượng Đế | Vì sao Thượng Đế Đích Thân Lâm Phàm trong Kỳ ba Mạc Pháp

alt

  • Tác giả: Andrey Phan
  • Ngày đăng: 2020-10-26
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 8887 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Ngọc Hoàng Thượng Đế | Vì sao Thượng Đế Đích Thân Lâm Phàm trong Kỳ 3 Mạc Pháp | Này các con, trần gian đang phải trãi qua một cuộc biến thiên rất lớn để mang nhân loại đi vào 1 chu kỳ tiến hóa mới theo tiến trình vận tải của Càn Khôn, do đó Cha phải lâm phàm để trợ giúp cho nhơn loại tiến sang 1 chu kỳ mới theo sự ấn định của Thiên Cơ đó các con. Sự hiện diện của Cha ở trần gian sẽ trợ giúp tích cực và hữu hiệu hơn trong cơn tiến hóa của nhân loại | Hãy Nghe để Ngộ Tuệ Ngộ Tâm, cuộc sống thanh thản, tốt đẹp.

    ThiềnTịnhBửuSơn ĐứcCậuBầnSĩVôDanh AndreyPhan
    Kênh Youtube tổng hợp triết lý tinh hoa phật pháp và các tôn giáo khác nhằm trợ giúp trợ giúp mọi người thức tỉnh, Kiến Hoa Khai Ngộ, trọn một đời tu hành thành Chánh Đẳng Chánh Giác, Trở về Nguyên Lai Bổn Tánh cùng nhau hội ngộ tại Hội Long Hoa tái ngộ Cha Mẹ đang ngồi trông ngóng các con thơ.

    Nhân duyên chúng sanh quá sâu dày trầm luân ba nẻo sáu đường biết khi nào mới giải thoát sanh tử luân hồi. KÍNH MONG MỌI NGƯỜI QUAN TÂM CHIA SẼ ĐỂ PHẬT PHÁP ĐƯỢC NHÂN RỘNG, ĐI VÀO LÒNG NGƯỜI.

    Nếu việc làm của chúng con có chút công đức nào nguyện xin được hồi hướng về khắp toàn bộ vô số lượng chúng sinh nghe Phật pháp tu hành, nghiệp phiền não chấm hết, phước đức trí tuệ sinh, đều tỏ ngộ chính pháp, phát triển bồ đề tâm, sớm tri kiến giải thoát thành vô thượng chính giác. NAM MÔ 𝓐 DI ĐÀ PHẬT
    https://www.youtube.com/channel/UCp4FFGPrVQEzpMOAOFtsSnA

    Nam mô 𝓐 Di Đà Phật. Kính chúc toàn bộ chư vị nghe pháp an lạc và thuận buồm xuôi gió trên đoạn đường về Phật quốc, và cũng xin chân tình cảm ơn toàn bộ các quý vị đã dành thời gian nghe pháp.

    Dứt bỏ vọng tâm,
    Tìm cơ siêu xuất,
    Noi gương Đức Phật,
    Gom Ý trụ Thần,
    Tinh tấn siêng năng,
    Trau dồi Thiền Định,
    Có vậy mới mong,
    Thoát vòng lục đạo,
    Tứ khổ luân hồi,
    Đạt đến cao siêu,
    Về nơi giải thoát.

    Có khi nào bạn tự hỏi
    Khi bạn ăn thịt động vật, bạn sẽ ăn vào những gì?
    Những nỗi đau, những nỗi kinh hoàng, những tiếng khóc tỉ ti
    Những sự stress của sinh vật khi lên bàn mổ
    Sự thống khổ
    Chúng quá yếu trước loài người, và không thể nói tiếng người để mời gọi sự thông cảm
    Những điều đó có khác với chiến tranh không?
    Khi tất cả chúng ta trước xe tăng đều yếu ớt và không thể nào tự vệ?
    Không thể!
    Vì vậy, nếu muốn hòa bình, xin hãy khởi đầu bằng ăn chay!

    Hãy thử lắng nghe tôi, bạn ăn chay 30 ngày
    Bạn sẽ cứu sống tối thiểu 8 sinh vật
    Sau một năm, là một trăm sinh vật
    Và sau mười năm, con số là một nghìn
    Số lượng đó sẽ tăng đến một mức độ khó tin
    Ví dụ như 1000 người ăn chay trong 10 năm sẽ cứu được số sinh linh là một triệu
    Cả nước Việt Nam ăn chay trong 10 năm – một giả thiết kỳ diệu
    Sẽ cứu được 90 tỷ sinh linh…

    Miệng ta khi nở nụ cười
    Nhìn xinh như đóa sen hồng ở ao
    Nhưng khi xương thịt mang vào
    Hiện tại nào khác miệng loài hổ lang.
    Tâm chai, Đức tốn, Phước mòn.
    Nhân sinh thảm họa miệng vào, tâm ra.
    Khi gây thì thảo nào ta
    Đến khi mang họa oán than trách trời

Hình Ảnh Ngọc Hoàng Thượng Đế Vô Cực Đại Thiên Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế (Vua Cha Thiên Phủ)

  • Tác giả: giaoducphanthiet.edu.vn
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 4612 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Trong các đền phủ điện thờ Mẫu, ngôi vị Thánh Mẫu Thần chủ được thờ ở vị trí tối cao thì ở một số đền còn thờ ban Đức Vua Cha Ngọc Hoàng Thượng Đế, Vậy, Đức vua cha Ngọc Hoàng Thượng Đế là ai, có vai trò gì trong Tứ Phủ Đạo Mẫu ? Đền Đức Vua cha Ngọc Hoàng ở đâu ?

Ngọc Hoàng Thượng Đế (Vua Cha Thiên Phủ) – Chốn Thiêng

  • Tác giả: chonthieng.com
  • Nhận xét: 5 ⭐ ( 3695 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Ngọc Hoàng Thượng đế (chữ Hán: 玉皇上帝), cũng gọi Ngọc Hoàng Đại Đế (玉皇大帝), gọi tắt là Ngọc Hoàng (玉皇) hay Ngọc Đế (玉帝) là vị vua tối cao của khung trời, là chủ của

Tượng Ngọc Hoàng Thượng Đế, Vương Mẫu Nương Nương, Thiên Nhân

  • Tác giả: phapduyen.com
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 4459 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Thỉnh tượng Ngọc Hoàng Thượng Đế, tượng Vương Mẫu Nương Nương, tượng Thiên Hậu. Phong phú vật liệu, tượng đẹp có hồn, nhiều kích thước, mẫu mã phong phú.

SỰ TÍCH NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ VÀ TRẬT TỰ SẮP XẾP THẾ GIỚI

  • Tác giả: tuvisonlong.com
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 5248 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Ngọc Hoàng Thượng Đế ngự ở Trung Thiên, gọi là Thiên đình. Đầy là triều đình trên khung trời. Nó có tổ chức giống như triều đình phong kiến ở Việt

HÌNH ẢNH NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ CÓ Ý NGHĨA NHƯ THẾ NÀO? NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ

  • Tác giả: 2015.vn
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 5087 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Trong tín ngưỡng Tam Tứ Phủ, Đức Vua Cha là những vị vua cha có quyền năng tối cao, đứng đầu hàng vị các vị thần linh, Gắn với việc thờ đức Vua Cha, bên cạnh Vua Cha Ngọc Hoàng hay Ngọc Hoàng Thượng Đế thì còn tồn tại Vua Cha Bát Hải, Vua Cha Diêm Vương, Vua Cha Nhạc Phủ

Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế Vô Cực Đại Thiên Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế

  • Tác giả: inhopbanh.com
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 9304 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Trong tín ngưỡng Tam Tứ Phủ, Đức Vua Cha là những vị vua cha có quyền năng tối cao, đứng đầu hàng vị các vị thần linh, Gắn với việc thờ đức Vua Cha, bên cạnh Vua Cha Ngọc Hoàng hay Ngọc Hoàng Thượng Đế thì còn tồn tại Vua Cha Bát Hải, Vua Cha Diêm Vương, Vua Cha Nhạc Phủ

Xem thêm các nội dung khác thuộc thể loại: giải trí