Cùng THPT Sóc Trăng tìm hiểu Lợi nhuận quốc gia dân tộc là gì? Quan niệm về lợi nhuận quốc gia dân tộc trong thời kì mới.
Bạn đang xem: bạn cần gì dịch sang tiếng việt
Cùng THPT Sóc Trăng tìm hiểu Lợi nhuận quốc gia dân tộc là gì? Quan niệm về lợi nhuận quốc gia dân tộc trong thời kì mới.
Lợi nhuận quốc gia dân tộc là gì?
Khái niệm dân tộc là gì?
Dân tộc là cộng đồng xã hội – tộc người tương đối ổn định, kiên cố, được thành lập trong lịch sử, bao gồm những cá nhân, nhóm, tập đoàn, cộng đồng người… có quan hệ cộng đồng thường xuyên, trực tiếp về các mặt: ngôn từ, lãnh thổ, không gian kinh tế và sinh hoạt kinh tế, nhà nước và pháp luật, bản sắc văn hóa, tâm lý tính cách, do đó có quan hệ cộng đồng về những lợi nhuận có tính lịch sử, những lợi nhuận dân tộc. Lợi nhuận dân tộc là một trong những yếu tố cơ bản nhất, là nền tảng và động lực của sự phát triển của các dân tộc.
Hiểu như vậy nào là lợi nhuận quốc gia dân tộc?
Khái niệm lợi nhuận quốc gia dân tộc là gì? Có nội hàm rộng, bao hàm trong đó toàn bộ những gì tạo thành điều kiện thiết yếu cho sự trường tồn của cộng đồng với tư cách quốc gia dân tộc có chủ quyền, thống nhất, độc lập, lãnh thổ vẹn toàn; cho sự phát triển đi lên về mọi mặt của quốc gia dân tộc theo hướng làm cho đời sống vật chất và trí não của cộng đồng ngày càng phong phú, tốt đẹp hơn; cho sự nâng cao không ngừng sức mạnh tổng hợp quốc gia, năng lực đối đầu quốc gia trên trường quốc tế, vị trí, vai trò, uy tín quốc tế của quốc gia dân tộc. Các dân tộc trên toàn cầu đều coi lợi nhuận cơ bản nhất của dân tộc là Tổ quốc độc lập, thống nhất, giàu mạnh, lãnh thổ vẹn toàn (bao gồm vùng đất, vùng trời, vùng biển, hải đảo, thềm lục địa), nhân dân quản lý so với Tổ quốc mình.
Trong lợi nhuận quốc gia dân tộc có những nhân tố thuộc về tự nhiên được cộng đồng sở hữu: đất đai, sông hồ, biển đảo, khí hậu, tài nguyên, vị trí địa lý,… và có những điều kiện xã hội: truyền thống tốt đẹp, độc lập, thống nhất, dân tộc đoàn kết, các quan hệ xã hội ở trong nước và những quan hệ quốc tế tích cực… Những điều kiện tự nhiên và xã hội đó, xét đến cùng, đều do cộng đồng dân tộc tạo lập, giữ gìn bằng mồ hôi, nước mắt và máu xương của nhiều thế hệ. Lợi nhuận dân tộc không phải những muốn, áp đặt chủ quan mà là những yếu tố, quan hệ khách quan tạo dựng trong lịch sử cần được nhận thức và xử lý đúng đắn.
Lợi nhuận quốc gia dân tộc không bất biến mà thay đổi theo hoàn cảnh rõ ràng và cụ thể. Có những yếu tố mang giá trị lâu dài, vĩnh cửu. Có những yếu tố chỉ tồn tại trong thời kỳ nhất định. Trong mỗi thời kỳ tồn tại, phát triển của dân tộc, có một hoặc một số vấn đề nổi trội lên. Trong thời kỳ quốc gia bị ngoại xâm thì lợi nhuận tối cao của dân tộc là giải trừ nạn ngoại xâm, tranh đấu giải phóng dân tộc. Trong cục diện dân tộc đứng trước xu thế tất yếu của một cuộc cách social, giải phóng nhân dân khỏi cảnh áp bức, tối tăm của cơ chế xã hội đã lỗi thời, đồng thời mở đường cho quốc gia phát triển đi lên, thì lợi nhuận cách mạng chính là lợi nhuận cao nhất, trực tiếp nhất của dân tộc. So với các nước đang phát triển, chậm phát triển, lợi nhuận giải phóng xã hội (bao hàm giải phóng sức sản xuất) và lợi nhuận giải phóng dân tộc gắn bó chặt chẽ với nhau. Nếu vấn đề giải phóng dân tộc chưa được khắc phục cơ bản thì lợi nhuận giải phóng dân tộc phải được đặt lên hàng đầu. Vấn đề độc lập dân tộc đã cơ bản được khắc phục thì lợi nhuận dân tộc trổ tài tập trung ở nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa đi đôi với từng bước xây dựng xã hội công bình, dân chủ, văn minh.
Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về lợi nhuận quốc gia dân tộc trong quan hệ đối ngoại. Những vấn đề đưa ra so với Việt Nam hiện tại
Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết, trước hết” trong quan hệ đối ngoại
Trong suốt cuộc sống và sự nghiệp hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt lợi nhuận quốc gia – dân tộc lên trên hết, trước hết. Quan niệm này là phép tắc tối cao trong quá trình lãnh đạo cách mạng và là một trong những nguyên nhân mang đến thành công của cách mạng Việt Nam.
Trên bước đường ra đi tìm đường cứu nước, chính trí não dân tộc và lợi nhuận dân tộc là yếu tố chủ đạo trong tư tưởng cách mạng của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành. Việc tìm và lựa chọn đoạn đường cứu nước của Người không chỉ là thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của người dân với Tổ quốc, mà đang là gánh vác trọng trách, sứ mệnh thực hiện khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc của dân tộc. Trong quá trình bôn ba khắp năm châu, bốn biển, Nguyễn Ái Quốc luôn nhất định: “Vì tự do cho đồng bào tôi”(3), độc lập cho Tổ quốc tôi là vấn đề trước hết, trước tiên của cách mạng. Có thể nói, chủ trương giải phóng dân tộc là một tư tưởng lớn của Người, nhất định sự nhạy bén về mặt chính trị và bản lĩnh của người cách mạng. Ở Nguyễn Ái Quốc, những phẩm chất tinh túy, tốt đẹp nhất của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam và chủ nghĩa cộng sản đã được kết tụ và hòa quyện chặt chẽ. Từ đây, đoạn đường giải phóng dân tộc, giải phóng đồng bào của Nguyễn Ái Quốc đã được tóm gọn: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(4).
Đặt lợi nhuận quốc gia – dân tộc lên trên hết, trước hết, được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc xác nhận ngay từ đầu, trong quá trình vận động thành lập Đảng và lãnh đạo cách mạng Việt Nam tranh đấu để giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc. Khi trở về nước lãnh đạo cách mạng, chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8 (tháng 5-1941), một lần nữa vấn đề lợi nhuận dân tộc được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc luận giải: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”(4). Đặc biệt, khi thời cơ giành độc lập đến, Nguyễn Ái Quốc nhất định: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”(5), quyền lợi của phòng ban, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc.
Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh, của tầm nhìn đổi mới và phương pháp cách mạng của Người trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước nửa phong kiến, nửa thuộc địa như Việt Nam. Trong Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhất định một đạo lý: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”(6). Có thể nhất định, quan niệm đặt lợi nhuận quốc gia – dân tộc lên trên hết, lấy mục tiêu độc lập dân tộc là hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hoàn toàn hợp quy luật, hợp lô-gíc phát triển của lịch sử cũng như truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Đó cũng là khát khao cháy bỏng, nguyện vọng chính đáng của toàn thể dân tộc Việt Nam.
Quan niệm “đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết, trước hết” của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là tranh đấu giải phóng và bảo vệ nền độc lập của dân tộc mà còn hướng tới lợi nhuận của nhân dân. Yêu nước, thương dân là mối quan hệ biện chứng, là dòng tư tưởng lớn nhất và xuyên suốt tư duy và hành động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với Người, không có lòng yêu nước chung chung, trừu tượng. Yêu nước chính là yêu nhân dân, là mang lại độc lập, cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Người nhất định: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(7). Trong các tác phẩm, bài trò chuyện của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần đề cập đến vấn đề “lợi ích” và nhất quán quan niệm lợi nhuận của dân tộc, của Tổ quốc, của Đảng, của nhân dân là thống nhất: “lợi ích của nhân dân tức là lợi ích của Đảng và phải đặt lợi ích của nhân dân và của Đảng lên trên hết, trước hết”(8); “Vì lợi ích của Đảng tức là lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc”(9). Đây cũng chính là giá trị cốt lõi của quan niệm “đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, trước hết” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn hướng tới.
Trong quá trình lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội với tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”; đồng thời, luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên cần nêu cao lợi nhuận dân tộc và phải có trí não dân tộc vững chắc, bởi: “Độc lập tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm” so với mỗi quốc gia dân tộc. Do đó, “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(10). Đây chính là nội hàm của quan niệm “đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết, trước hết” trong quan hệ đối ngoại mà Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn cách mạng Việt Nam nhận thức và vận dụng đúng đắn, nhất quán.
Trong 35 năm đổi mới, lợi nhuận quốc gia – dân tộc của Việt Nam là xây dựng quốc gia, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và vẹn toàn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, bảo vệ sự ổn định của hệ thống chính trị. Đây là nhân tố bất biến trong cục diện tình hình toàn cầu và khu vực không ngừng biến động, các thế lực thù địch thường xuyên có nhiều mưu mô và hành động nhằm thay đổi, chuyển hóa cơ chế chính trị ở Việt Nam. Tuy nhiên, đặt lợi nhuận quốc gia – dân tộc lên trên hết không phải là đi theo chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa dân túy, bỏ qua chủ nghĩa quốc tế vô sản, bỏ qua trách nhiệm quốc tế vì sự tiến bộ và phát triển của toàn bộ các dân tộc. Vì vậy, trong lúc đặt lợi nhuận quốc gia – dân tộc lên trên hết, tất cả chúng ta đồng thời làm tốt nghĩa vụ quốc tế của mình, là bạn, partners tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, vì độc lập, hòa bình và tiến bộ trên toàn cầu.
Trong thời kỳ chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng hiện tại, nội hàm của lợi nhuận quốc gia – dân tộc vẫn không thay đổi. Song, yếu tố phát triển, nhất là phát triển kiên cố, từng bước hội nhập với khu vực và toàn cầu, được đề cao hơn trước đây. Đây là khía cạnh mới, ngày càng trọng yếu trong tổng thể lợi nhuận quốc gia – dân tộc của Việt Nam. Nội hàm của khái niệm lợi nhuận quốc gia – dân tộc của Việt Nam hiện tại rộng lớn và phức tạp hơn rất nhiều so với các thời kỳ trước đó. Này là tổng hòa giữa lợi nhuận cơ bản và lợi nhuận phát triển. Lợi nhuận cơ bản là tiền đề không thể thiếu để hiện thực hóa lợi nhuận phát triển. Còn lợi nhuận phát triển sẽ góp phần củng cố vững chắc hơn lợi nhuận cơ bản.
Do đó, để hiểu đúng, đầy đủ và có thể vận dụng thành công quan niệm “đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, trước hết” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cục diện hiện tại, tất cả chúng ta cần quán triệt sâu sắc quan niệm đặt lợi nhuận quốc gia – dân tộc lên trên hết; tăng cường đoàn kết, đặt cái chung lên trên cái riêng là bài học không thể thiếu trong hoạch định, tổ chức và thực hiện trong thời kỳ kế sách mới.
Vận dụng quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về lợi nhuận quốc gia – dân tộc trong cục diện mới hiện tại
Toàn cầu đã bước sang thập niên thứ ba của thế kỷ XXI với những chuyển biến sâu sắc, nhanh lẹ và khó lường. Hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn khách quan, đồng thời cũng là nguyện vọng của các dân tộc trên toàn cầu, nhưng đang gặp nhiều thách thức, nhất là sự suy thoái của kinh tế toàn cầu, đối đầu kế sách giữa các nước lớn, cùng các thách thức an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống… Dưới thúc đẩy của đại dịch COVID-19, những biến động trong cục diện quốc tế bị đẩy nhanh hơn, thúc đẩy trực tiếp, nhiều chiều tới môi trường an ninh và phát triển của Việt Nam, mang lại thời cơ và thách thức mới hòa lẫn. Trước cục diện mới này, sự phát triển của tư duy mới về lợi nhuận quốc gia – dân tộc được trổ tài sắc nét nhất trong đường lối đối ngoại của Đảng ta.
Sau 35 năm đổi mới, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta đứng trước thời cơ, vận hội, thuận tiện và không ít rủi ro, thách thức, nhưng chính nhờ ý chí, khát vọng vươn lên mạnh mẽ mà dân tộc ta đã đoạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử: “… thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế, niềm tin của nhân dân ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(11). Mặc dù có những thay đổi về thế và lực của quốc gia sau 35 năm đổi mới: sự vững mạnh, đoàn kết của cả hệ thống chính trị; sự tin tưởng, gắn bó, ủng hộ của nhân dân cũng như sự trưởng thành, nhiệt huyết của đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ làm công tác đối ngoại, nhưng cũng còn tồn tại những thách thức từ chính những hạn chế, thiếu sót trong quá trình đổi mới quốc gia chưa được khắc phục triệt để. Do vậy, trong quá trình tham gia hội nhập quốc tế, nhận thức về lợi nhuận quốc gia – dân tộc phải đầy đủ, toàn diện hơn. Đồng thời, đây cũng là nền tảng, tiền đề trọng yếu để xác lập, định hướng chủ trương, quyết sách đối nội, đối ngoại thích hợp, đúng đắn để “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi”(12). Trong cục diện kế sách mới mà Đại hội XIII của Đảng nêu ra, tất cả chúng ta cần làm rõ hơn nội hàm của quan niệm “đặt lợi ích quốc gia – dân tộc là trên hết, trước hết” ở những nội dung sau:
Trước hết, lợi nhuận quốc gia – dân tộc trong cục diện mới gồm có lợi nhuận sống còn và lợi nhuận phát triển, nên cần làm rõ hơn về mặt lý luận nội hàm của quan niệm trong xử lý hài hòa hai mối quan hệ lợi nhuận cũng như thứ tự ưu tiên trong từng trường hợp rõ ràng và cụ thể. Trong số đó, độc lập, chủ quyền, thống nhất, vẹn toàn lãnh thổ của Tổ quốc cùng bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, nhân dân, cơ chế xã hội chủ nghĩa là lợi nhuận sống còn của quốc gia – dân tộc, mang tính bất biến, vĩnh cửu. Trong cục diện quốc gia đổi mới toàn diện, chủ động tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, lợi nhuận của dân tộc là làm cho quốc gia giàu mạnh, phồn vinh, hội nhập quốc tế, sánh vai với các quốc gia trong khu vực và trên toàn cầu. Đó cũng là mang lại cho mọi người dân Việt Nam sống trong đoàn kết yêu thương với mức sống và chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao, người dân được sống trong an ninh, an toàn của môi trường chính trị xã hội và môi trường tự nhiên. Vị trí quốc gia được nâng cao, niềm tự hào, tự tôn dân tộc được bồi đắp khi Việt Nam “chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(13).
Thứ hai, lợi nhuận quốc gia – dân tộc bao gồm lợi nhuận về kinh tế, về chính trị, về văn hóa – xã hội, về quốc phòng – an ninh, đối ngoại, vì vậy cần làm rõ hơn về mặt lý luận nội hàm của quan niệm trong xử lý hài hòa mối quan hệ giữa các thành tố lợi nhuận dân tộc khi “đặt lợi ích dân tộc là trên hết, trước hết”. Trong số đó, lợi nhuận kinh tế là trung tâm của mọi lợi nhuận, được tạo dựng từ các quá trình kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Lợi nhuận chính trị nối liền với sự ổn định, vững mạnh và sự lãnh đạo, quản lý, vận hành hiệu lực, hiệu quả của thể chế chính trị được xác lập trong Hiến pháp. Lợi nhuận văn hóa góp phần tạo ra những giá trị làm nền tảng trí não của xã hội. Lợi nhuận quốc phòng – an ninh, đối ngoại gắn với độc lập, chủ quyền, thống nhất, vẹn toàn lãnh thổ, sự ổn định chính trị và môi trường hòa bình, ổn định của quốc gia là nền tảng, nền tảng để bảo vệ và phát huy, phát triển, mở rộng lợi nhuận kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội.
Thứ ba, lợi nhuận quốc gia – dân tộc luôn gắn với chủ thể gồm lợi nhuận của Đảng, Nhà nước, lợi nhuận của giai cấp và lợi nhuận của nhân dân lao động. Lợi nhuận của Đảng thống nhất với lợi nhuận của dân tộc, của Nhà nước, giai cấp và nhân dân lao động.
Riêng trong công tác đối ngoại, lợi nhuận quốc gia – dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là phép tắc cơ bản trong quyết sách đối ngoại của Việt Nam hiện tại. Lợi nhuận quốc gia – dân tộc đang và sẽ tiếp tục là kim chỉ nam cho quyết sách đối ngoại của Việt Nam. Suy cho cùng, quyết sách đối ngoại là sự kéo dài của quyết sách đối nội, phục vụ các mục tiêu bên trong của mỗi quốc gia, dân tộc. Với Việt Nam, này là an ninh, phát triển và vị trí quốc tế ở khu vực và trên toàn cầu. Do đó, việc nhất quán kiên định quan niệm “đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, trước hết” trong đối ngoại được trổ tài tập trung ở việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ đối ngoại. Một là, góp phần duy trì và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định ở bên ngoài để tạo thuận tiện cho tiến trình phát triển trong nước. Hai là, không ngừng nâng cao vị trí quốc gia, góp phần xây dựng toàn cầu ngày càng tiến bộ, công bình và dân chủ hơn. Ba là, tranh thủ mọi điều kiện quốc tế thuận tiện, như vốn, kinh nghiệm quản lý, khoa học – công nghệ, thị trường, viện trợ,… để mang quốc gia tiến lên. Đó chính là tranh thủ và phối hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời kì.
Những vấn đề đưa ra nhằm đảm bảo cao nhất lợi nhuận quốc gia – dân tộc trong thời kỳ hiện tại
Quán triệt và vận dụng quan niệm “đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, trước hết” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cục diện mới, quan niệm chỉ đạo của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục nhất định: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi”(14). Để làm tốt được điều này, tất cả chúng ta cần xử lý hiệu quả một số vấn đề sau:
Một là, khắc phục hài hòa mối quan hệ lợi nhuận quốc gia – dân tộc Việt Nam với lợi nhuận các nước lớn trong quá trình hội nhập quốc tế.
Trong cục diện hội nhập quốc tế hiện tại, mặc dù nước ta có mối quan hệ quốc tế đa phương, phong phú, nhưng còn cần thêm những nhân tố chiều sâu, sự ổn định và tính vững chắc. Thách thức lớn nhất so với Việt Nam hiện tại chính là những toan tính lợi nhuận và sự thay đổi kế sách của các nước lớn. Việc các nước lớn vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa đối đầu, tranh đấu kiềm chế lẫn nhau, đã và đang thúc đẩy mạnh đến cục diện toàn cầu và khu vực. Do vậy, quan niệm chỉ đạo kế sách trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam mang ra tại Đại hội XIII của Đảng, trổ tài hướng đi tích cực, chủ động trên đoạn đường hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, kiên cố; phương châm chỉ đạo khoa học, phù phù hợp với xu thế, nắm bắt trúng thời cơ, xử lý đúng đắn, hiệu quả mối quan hệ với các nước lớn và các nước láng giềng, làm nền tảng cho sự phối hợp chặt chẽ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời kì, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế, tạo thành sức mạnh tổng hợp để khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, thỏa mãn tốt yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Hai là, khắc phục hài hòa mối quan hệ lợi nhuận quốc gia – dân tộc Việt Nam với lợi nhuận của các nước khác trong quá trình hội nhập quốc tế.
Hiện tại, tất cả quốc gia trên toàn cầu đều coi trọng, đề cao lợi nhuận quốc gia – dân tộc khi thực thi quyết sách đối ngoại. Nhưng do mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc khác nhau, nên lợi nhuận quốc gia – dân tộc của mỗi nước cũng không hoàn toàn giống nhau. Do vậy, để có môi trường hòa bình, an ninh và ổn định phục vụ phát triển kiên cố cho mỗi quốc gia, dân tộc, vấn đề cốt lõi đưa ra hiện tại là cần tìm thấy “điểm đồng”. Điểm đồng ở đây chính là sự tôn trọng pháp luật quốc tế - các phép tắc và quy phi pháp luật được các quốc gia và chủ thể khác của luật quốc tế trao đổi tạo dựng trên nền tảng tự nguyện và đồng đẳng, nhằm điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa quốc gia và các chủ thể đó trong mọi ngành nghề của đời sống quốc tế. Đây chính là các phép tắc và quy phạm vận dụng chung mà không có sự phân biệt về tính chất, hình thức hay vị trí của từng quốc gia khi thiết lập quan hệ quốc tế giữa những chủ thể này với nhau. Nói cách khác, trong hội nhập và mở rộng quan hệ quốc tế, mọi quốc gia, tổ chức, cá nhân bên cạnh việc coi trọng lợi nhuận của quốc gia – dân tộc, đặt lợi nhuận quốc gia – dân tộc mình lên trên hết, trước hết, thì cần phải chấp hành nghiêm thông lệ quốc tế, các phép tắc, định chế của các tổ chức quốc tế trong quan hệ đối ngoại; tránh những tư tưởng, hành động vì lợi nhuận cục bộ, dân tộc chủ nghĩa, dân tộc cực đoan, bỏ mặc pháp luật quốc tế. Vì vậy, trong hội nhập quốc tế, bên cạnh quan niệm đề cao lợi nhuận quốc gia - dân tộc, Việt Nam luôn xác nhận rõ hơn vị trí của mình trong phân công lao động quốc tế, cải tổ vị trí trong chuỗi giá trị, chuỗi sản xuất và cung ứng khu vực và toàn thị trường quốc tế. Đường lối, quyết sách và mục tiêu trước sau như một của tất cả chúng ta luôn phù phù hợp với xu thế lớn của toàn cầu; lợi nhuận quốc gia – dân tộc của tất cả chúng ta góp phần đảm bảo môi trường quốc tế thuận tiện để cùng phát triển; luôn đặt mình vào dòng chảy của thời kì, nêu cao tính chính nghĩa của dân tộc, tranh thủ thiện cảm và sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, nâng cao thực lực và vị trí của quốc gia một cách kiên cố nhất.
Ba là, kiên quyết tranh đấu làm thất bại mọi mưu mô, thủ đoạn làm phương hại đến lợi nhuận quốc gia – dân tộc Việt Nam.
Các thế lực thù địch hiện đang triệt để lợi dụng xu thế toàn thị trường quốc tế hóa và hội nhập quốc tế để chống phá cách mạng nước ta bằng kế sách “Diễn biến hòa bình”, bất tuân dân sự, bạo loạn lật đổ. Vì vậy, bên cạnh việc thực hiện đồng bộ những biện pháp đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước so với hoạt động đối ngoại; phối hợp chặt chẽ đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân; giữa kinh tế, đối ngoại và quốc phòng, an ninh…, tất cả chúng ta phải kiên quyết tranh đấu chống những mưu mô và hành động xâm hại đến lợi nhuận hợp pháp của dân tộc ta; kích động, chia rẽ Việt Nam với cộng đồng quốc tế; chống tư tưởng cực đoan, dân tộc chủ nghĩa… Trong số đó, lưu tâm tranh đấu bảo vệ lợi nhuận trực tiếp thông qua pháp luật quốc tế, định chế trong các tổ chức quốc tế, khu vực mà nước ta tham gia và ký phối hợp tác. Kiên quyết, kiên trì tranh đấu bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và vẹn toàn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và cơ chế xã hội chủ nghĩa; khắc phục những bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, trên nền tảng tôn trọng pháp luật quốc tế; nâng cao vị trí, uy tín của quốc gia trên trường quốc tế; bảo vệ vẹn toàn lợi nhuận quốc gia – dân tộc.
Bốn là, tìm hiểu tiếp tục đổi mới tư duy đối ngoại, rõ ràng và cụ thể hóa tư duy mới của Đảng về partners, đối tượng trong tình hình mới.
Tiến trình toàn thị trường quốc tế hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng đòi hỏi Việt Nam phải có kế sách, plan tổng thể, xác nhận nội dung, lộ trình thích hợp; trong đó, nhận thức về partners, đối tượng là vấn đề rất trọng yếu. Cần tìm hiểu làm rõ hơn tính biện chứng, sự tồn tại hòa lẫn và chuyển hóa lẫn nhau rất linh hoạt giữa partners và đối tượng trong cục diện toàn thị trường quốc tế hóa, hội nhập quốc tế hiện tại. Trên nền tảng đó, có chủ trương, biện pháp tranh thủ mặt tích cực của đối tượng, hạn chế mặt tiêu cực của partners, phục vụ lợi nhuận quốc gia – dân tộc, theo phương châm: “trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh; trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt đồng thuận cần tranh thủ hợp tác”(15).
Không những thế, cần tăng cường công tác tìm hiểu, dự đoán kế sách, tham mưu về đối ngoại; đổi mới nội dung, phương pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền đối ngoại, bảo lãnh công dân và công tác về người Việt Nam ở nước ngoài. Quan tâm chăm sóc huấn luyện, tập luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại; bồi dưỡng tri thức đối ngoại cho cán bộ then chốt các cấp. Tập trung nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các bộ, ban, nghề, địa phương. Đồng thời, phê phán và khắc phục kịp thời những dấu hiệu chỉ thấy lợi nhuận trước mắt, không thấy lợi nhuận lâu dài, chỉ coi trọng lợi nhuận kinh tế, không thấy lợi nhuận chính trị, quốc phòng, an ninh trong quan hệ đối ngoại thời kỳ hội nhập quốc tế.
Có thể nhất định, những thành tựu của tiến trình đổi mới, của quá trình hội nhập quốc tế ngày nay chính là thực tiễn sinh động của việc Đảng ta vận dụng sáng tạo, hiệu quả quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc xác nhận đúng đắn vấn đề lợi nhuận quốc gia - dân tộc, “đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, trước hết”. Đại hội XII của Đảng đã xác nhận “đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết” là bài học lớn thứ tư khi tổng kết 30 năm đổi mới toàn diện quốc gia. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhất định việc đảm bảo cao nhất lợi nhuận quốc gia – dân tộc, trên nền tảng các phép tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và pháp luật quốc tế, đồng đẳng, hợp tác cùng có lợi. Điều này không chỉ phản ánh tư duy mới của Đảng ta về khắc phục hài hòa mối quan hệ lợi nhuận quốc gia – dân tộc Việt Nam với các quốc gia trên toàn cầu trong tiến trình tham gia toàn thị trường quốc tế hóa và hội nhập quốc tế mà đang là phép tắc bất biến, phương châm chỉ đạo hoạt động thực tiễn của Đảng trong thời kỳ mới hiện tại./.
Qua nội dung trên, THPT Sóc Trăng đã hỗ trợ các em học viên hiểu rõ lợi nhuận quốc gia dân tộc là gì? Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về lợi nhuận quốc gia dân tộc trong quan hệ đối ngoại. Các em học viên có thể truy cập website THPT Sóc Trăng để tìm hiểu nhiều nội dung hữu ích, phục vụ cho quá trình học tập và thi cử.
Đăng bởi: THPT Sóc Trăng
Thể loại: Giáo Dục
Xem thêm những thông tin liên quan đến đề tài bạn cần gì dịch sang tiếng việt
Mẹo dịch MỌI NGÔN NGỮ sang TIẾNG VIỆT CỰC HAY bằng camera smartphone
- Tác giả: Đức Huy Mobile
- Ngày đăng: 2019-08-27
- Nhận xét: 4 ⭐ ( 6178 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Dịch tiếng anh bằng camera, bạn có thể dịch ngôn từ ngay trên camera của Google Dịch mà không cần phải chụp hình lại.
dichtienganh googledich duchuymobile
Link: https://www.duchuymobile.com/thu-thuat
👆👆👆 Nếu thấy clip hay các bạn đừng ngần bạn bấm LIKE và nhớ SUBSCRIBE kênh Youtube của Đức Huy Mobile, BẤM CHUÔNG để không bỏ lỡ bất kì video nào nhé ✌
► SUBSCRIBE CHANNEL: http://popsww.com/DucHuyMobile
==============
✌️FOLLOW ĐỨC HUY MOBILE BẠN NHÉ ✌️
✨ WEBSITE: https://www.duchuymobile.com
✨ FANPAGE: https://www.facebook.com/duchuymobilecom
✨ GROUP: https://www.facebook.com/groups/duchuymobilecomShowroom: 187A Đường 3/2, ᴘ.11, Ǫ.10, TP.HCM
(Đối mặt nhà hát Hoà Bình)Tổng đài trợ giúp (tư vấn miễn phí)
Bán hàng: (8:30 – 22:00) 0962.85.85.85 – 0963.48.48.48
Kỹ thuật: (8:30 – 22:00) 0984.521.521
Khiếu nại: (8:30 – 22:00) 0904.620.620
Những tuyệt kỹ dịch tiếng anh cơ bản thiết yếu cho người dịch
- Tác giả: dichthuat.org
- Nhận xét: 5 ⭐ ( 2485 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Dịch tiếng anh sang tiếng việt hay dịch bất kì một ngôn từ nào tất cả chúng ta cũng nên cần có những tuyệt kỹ để giúp cho việc dịch thuật của tất cả chúng ta hiệu quả nhất. Nhằm giúp các bạn nâng cao tuyệt kỹ dich tieng anh sang tieng viet nội dung sau chúng tôi sẽ chia … Những tuyệt kỹ dịch tiếng anh cơ bản thiết yếu cho người dịch
Top 12 Phần Mềm Dịch Từ Tiếng Anh Sang Tiếng Việt, Pháº§И Má»Ɱ Dá»Ch TiếNg Anh & Từ ÄIá»И
- Tác giả: haokhivietnam.com
- Nhận xét: 5 ⭐ ( 5769 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Dịch thuật là một trong những vấn đề mà người học tiếng Anh thường thường xuyên gặp phải, Thậm chí trong cuộc sống, mỗi ngày tất cả chúng ta đếu cần dịch các văn bản tiếng Anh sang tiếng Việt
Để sống khỏe mùa dịch COVID, bạn cần làm gì?
- Tác giả: www.vinmec.com
- Nhận xét: 3 ⭐ ( 1302 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Đại dịch COVID-19 có nhiều thúc đẩy bất lợi tới hầu như mọi người. Làm sao để có thể khởi nguồn từ việc xây dựng những thói quen lành mạnh giúp tất cả chúng ta sống khỏe mùa dịch là điều mà rất nhiều người quan tâm.
4 cách dịch file pdf từ tiếng anh sang tiếng Việt nhanh và chuẩn nhất
- Tác giả: www.dienmayxanh.com
- Nhận xét: 5 ⭐ ( 7296 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Hiện tại với mạng internet bạn có thể dịch một cách nhanh chóng trên PC, vậy hãy cùng xem qua nội dung sau để biết thêm 4 cách dịch file pdf sang tiếng Anh nhé!
Top 5 website dịch Tiếng Anh sang Tiếng Việt chuẩn xác nhất
- Tác giả: kituaz.com
- Nhận xét: 3 ⭐ ( 2271 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Chia sẻ top 5 dụng cụ dịch văn bản từ tiếng Anh sang tiếng Việt nhanh và chuẩn xác nhất. Website dịch văn bản sang tiếng Việt chuẩn 2021
Google Dịch
- Tác giả: translate.google.com.vn
- Nhận xét: 5 ⭐ ( 9436 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Dịch vụ miễn phí của Google dịch nhanh các từ, cụm từ và website giữa tiếng Việt và hơn 100 ngôn từ khác.
Xem thêm các nội dung khác thuộc thể loại: giải trí