nét đẹp văn hóa của người Hoa Chợ Lớn (Dương Thụy) – Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo – chùa bà thiên hậu quận 5

– Đơn vị chủ quản: Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam – Trụ sở tòa soạn: 294 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Q3, TPHCM – Giấy phép hoạt động tạp chí của Bộ Thông Tin và Truyền Thông Số 1878/GP.BTTTT Ghi và in tận nhà in Trần Phú, Q1, TPHCM

Bạn đang xem: chùa bà thiên hậu quận 5

Miếu Thiên Hậu hay chùa Bà Thiên Hậu ở quận 5, TP.HCM, được ví von là ngôi nhà tâm linh có tầm tác động rất lớn đến đời sống văn hóa người Hoa đang sinh sống trên địa phận tp. Ngôi miếu được xây dựng vào năm 1760 và đã được thừa nhận là Di tích thiết kế văn nghệ cấp quốc gia vào năm 1993. Sau hơn 250 năm tồn tại, miếu Thiên Hậu vẫn giữ được nét thiết kế mới mẻ dù trải qua nhiều lần tu bổ, sửa chữa.

NGUỒN GỐC MIẾU THIÊN HẬU – HỘI QUÁN TUỆ THÀNH

Miếu Thiên Hậu – Hội quán Tuệ Thành, còn được gọi là chùa Bà Chợ Lớn, tọa lạc tại 710 đường Nguyễn Trãi (quận 5, TP. Hồ Chí Minh), là một trong những ngôi miếu cổ của cộng đồng người Hoa từ TP. Quảng Châu (tỉnh Quảng Châu, Trung Quốc) sang. TP. Quảng Châu còn tồn tại tên gọi xưa là Tuệ Thành hay Dương Thành, nên sau này Hội quán mang tên Tuệ Thành để nhắc nhớ về quê hương gốc.

Tên Miếu Thiên Hậu – Hội quán Tuệ Thành là do người Hoa trước hết đến làm ăn, phải lưu trú buôn bán dài ngày theo mùa gió, thường đi lúc mùa gió Bắc lúc về mùa gió Nam. Ở Việt Nam vài ba tháng mỗi năm, ở dưới ghe không tiện, nên họ lập Hội quán để có nơi cư trú, tiện giao dịch buôn bán và trợ giúp, tụ họp đồng hương. Trên ghe cũng có thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu để phù trợ độ trì việc đi trên biển.

Dần dần, người Hoa cư trú đông đúc và lâu dài, Hội quán gắn bó mật thiết với cuộc sống và các hoạt động kinh tế với người Hoa, nên tính năng thờ tự và tín ngưỡng trong hội quán phát triển và nổi trội, người Hoa lập Miếu trong Hội quán để thờ tự. Theo thời gian, Hội quán có trước, Miếu có sau. Điều này khác với Hội quán của người Hoa ở Hội An (Quảng Nam). Do điều kiện không còn thương cảng Hội An, thế mạnh kinh tế không như trước, Hội quán ở đây lưu giữ tính năng cộng đồng, tính năng tín ngưỡng không nổi trội. Ở Hội An, có tên Hội quán như Hội quán Phúc Kiến, Hội quán Triều Châu,… bên trong vẫn có nhà thờ Thánh như Hội quán Phúc Kiến – đối tượng thờ chính là Thiên Hậu Thánh Mẫu, Hội quán Triều Châu đối tượng thờ chính là ông Bổn,… nhưng không có tên Miếu đi kèm như tên Hội quán ở TP.HCM. 

Chưa có tư liệu để xác nhận chuẩn xác miếu được xây dựng từ năm nào, nhưng theo những người Hoa lớn tuổi kể lại vào năm 1760, đầu triều Thanh đã có nhiều thương buôn đi tàu sang Việt Nam buôn bán làm ăn. Căn cứ vào vết tích trên một cái chuông bằng gang đúc vào năm Ất Dậu thời vua Càn Long (1795) và nội dung bia đá trong Miếu, được biết sau năm 1800, Miếu đã có một đợt tu bổ lớn. Sau đó, các năm 1825, 1842, 1882, 1890, 1996 cũng có những đợt tu bổ lớn nhỏ.

Điện thờ chính trong miếu dành riêng cho Bà Thiên Hậu. Bà là người Phúc Kiến. Theo truyền thuyết ba được gọi là Lâm Mặc. Bà có lòng thương người, thông minh, và đặc biệt có tài tiên đoán những sự thay đổi của khí hậu, biết trị bệnh trừ tà… Do đó rất được người trong vùng ven biển yêu thương, khâm phục. Bà mất lúc 28 tuổi (năm 987), người trong vùng đã lập miếu thờ. Đề cao Bà Thiên Hậu, ngưỡng mộ và thành kính Bà, dành vị trí trang trọng nhất trong khu vực và đặt thờ Bà trong ngôi miếu lớn của cộng đồng, người Hoa muốn qua đó giáo dục cho thế hệ tiếp nối về lòng hiếu thuận so với cha mẹ, trí não biết xả thân vì mọi người như Bà. Ngôi Miếu này còn được dựng lên để tỏ lòng tri ân sâu sắc về sự phò trợ của Bà so với người Hoa trên đường sang Việt Nam gặp nhiều gian truân.

ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC CỦA MIẾU THIÊN HẬU:

Được xây dựng gần 250 năm qua, Miếu Thiên Hậu vẫn giữ được những đường nét văn nghệ thiết kế rực rỡ của cộng đồng người Hoa gốc Quảng Đông. Yếu tố phong thủy được trổ tài qua chiếc đồng hồ phóng sinh trước miếu, với tranh “Ngũ Long Bích” trổ tài hoa văn “Ngũ long phún thuỷ” (Năm con rồng phun nước) tạo cho Miếu một kết cấu mặt trước có dạng “minh đường thủy tụ” mà tụ thủy là tụ Phúc về trong thiên hạ, có được Phúc là nhất “Thiên Hạ Đệ Nhất Phúc”. Chỉ tiếc là đoạn đường Thiên Lý xưa, mà nay là đường Nguyễn Trãi, đã đi ngang một phần sân Miếu, chia cắt ngôi Miếu và hồ phóng sinh. Năm 1995, đường Nguyễn Trãi được mở rộng, Hồ Phóng Sinh phải lùi vào 7m nên bị thu hẹp diện tích lại. 

Thiết kế miếu xây theo hình ấn, là tổ hợp các ngôi nhà link nhau tạo thành mặt bằng giống hình chữ “khẩu” hoặc chữ “quốc”. Miếu có cấu trúc mặt bằng dạng văn bản tam, gồm ba dãy nhà kết cấu theo chiều dọc, từ ngoài vào trong có tiền điện, trung điện, chính điện. Hội quán Tuệ Thành và trường Mạch Kiếm Hùng nằm hai bên miếu. Tổng thể các nền tảng chính và phụ của miếu tạo cho cấu trúc có hình cái ấn, là kiểu cấu trúc đặc trưng của người Hoa với tổ hợp bốn dãy nhà link nhau thành hình chữ khẩu. Nóc miếu được trang trí hoa văn hoa lá, quần thể tiểu tượng bằng gốm do hai lò Bửu Nguyên và Đông Hòa sản xuất vào năm Mậu Thân 1908, kế thừa từ làng gốm sứ nổi tiếng nhất của Hoa Nam ở huyện Thạch Ván, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Ngoài tượng “Nhật Thần” bên trái cửa Miếu và tượng “Nguyệt Thần” bên phải cửa Miếu (theo hướng của ngôi miếu), các đề tài trổ tài trên gốm bao gồm các điển cố như: “Thầy trò Đường Tăng”, “Tam Nương giáo tử”, “Bao Công xử án”, “Thôi tiêu dẫn Phụng”, “Bát tiên quá hải”, “Phúc Lộc Thọ”, “Lưỡng long tranh châu”, “Ngọc hoàng đại đế”, “Hán Sở tranh hùng”, “Chung Quỳ Giá Muội”, “Đả võ đài”, “Bái tổ vinh quy”, có hình ảnh tiên đồng ngọc nữ với hàng chữ “Hòa hợp nhị tiên”… Hai con lân chạm từ khối đá nguyên, có con trong lòng, theo phép tắc ”Nam tả Nữ hữu”.

Những trang trí này do nghệ nhân có tay nghề được truyền tụng như ông Phan Kim đã vận dụng văn nghệ tạo hình theo mẫu gốm nổi tiếng của Quảng Đông. Những mô típ hình nhân này đa số đều có nguồn gốc từ các truyện cổ kính như Tây du ký, Tam Quốc, Thủy Hử, Hồng Lâu Mộng,… Bố cục và nội dung được thiết kế thành ba tầng: Trên cùng là mô típ lưỡng long tranh châu; tầng giữa gồm quần thể tiểu tượng gốm, chạm hình nhân với các đề tài khác nhau; tầng dưới được tạo hình bằng các sinh vật như chim muông, thú rừng,… cùng trăm hoa đua nở. Đặc biệt, trên vách Miếu còn chạm khắc nổi hình năm con dê (Dương Thành), biểu tượng của tp Quảng Châu. Ở trước có treo mô hình “Thuyền Bát Nhã”.

Tiền điện đặt hai trang thờ ở hai bên cửa vào. Bên trái thờ Môn Thần, bên phải thờ Phúc Đức Chính Thần. Tại đây, cũng có bia đá ghi truyền thuyết về Thiên Hậu Thánh Mẫu và bức tranh lớn vẽ cảnh Bà hiển linh trên sóng nước. Bia công đức ghi lại sự đóng góp tu bổ miếu vào các đời Đạo Quang thứ 8 (1828), Đạo Quang thứ 10 (1830), Tự Đức thứ 11(1857), Hàm Phong thứ 9 (1859), Quang tự Mậu Tuất niên (1898). Đặc biệt, trong Miếu còn tồn tại bia đá “Xưởng thiết kế cơ khí xa bi ký” (Văn bia ghi việc đề xướng lập ra cơ khí Thủy xa) lắp vào năm Mậu Tuất Quang Tự năm thứ 24 (1898). Nội dung bàn về việc lập xe máy nước để chữa cháy. Hiện tại, xe chữa cháy này đang lưu trữ ở bảo tàng TP. Hồ Chí Minh, còn những ống phun nước bằng đồng để chữa cháy trên có dòng chữ “Hội Quán Tuệ  Thành Trí”, “Việt Đông tỉnh thành Di Hòa Phát, Thang Vạn Ký tạo” lưu giữ ở miếu. Đây là một đóng góp trọng yếu vào việc tạo thành cuộc sống bình an cho dân cư Chợ Lớn thời hiện giờ.

Trung điện đặt bộ ngũ sự (một lư hương + hai chân đèn + hai lọ hoa), niên hiệu Quang tự thứ 12 (1886) là bộ lư bằng kim loại tổng hợp lớn nhất so với các lực lượng khác trong miếu của người Hoa ở Việt Nam. Tại đây, cũng đặt kiệu lớn, dành rước Bà trong ngày vía. Trên nóc miếu phần trung điện có treo bức hoành (Hàm hoằng quang đại) cho biết năm tu bổ xưa nhất của miếu (1800). Sau phần trung điện đến gian chính thờ Bà. Khám giữa đặt ba tượng: tượng cao nhất dùng vào dịp vía Bà; cung nghinh ra sân cho Bà ngự lãm lễ hội. Tượng giữa đặt trên khám thờ và tượng dưới cùng dùng đặt vào kiệu, mang Bà đi du ngoạn. Tượng tạc từ một khối gỗ nguyên cao 1m, có từ trước khi xây miếu, vốn được thờ ở Biên Hòa, đến năm 1836 mới di chuyển về hội quán này.

Tại gian chính điện còn đặt ba chiếc đại hồng chung cổ. Một chiếc bằng gang, trên có ghi: “Càn Long lục thập niên tuế thứ Ất Dậu quý xuân cát đáng” (Ngày tốt, tháng 3 năm Ất Dậu, Càn Long năm thứ 60 – 1795) “Chúng Thương Tuệ Thành Hội Quán đồng kiến”; một được đúc bằng đồng vào năm Canh Tuất 1850… Tại “Thiên Hậu Cung” có đặt một chiếc thuyền gỗ, với lá cờ nhỏ có 4 chữ “Phổ độ chúng sinh”. Hai bên khám thờ Bà là khám thờ Long Mẫu Nương Nương và Kim Huê Nương Nương. Gian phụ hai bên chính điện thờ Quan Thánh Đế Quân và Tài Bạch Tinh Quân. Trong tủ kính lớn của Gian chính điện, có nhiều đồ cổ quý hiếm, có tướng lịnh của Aries ký tên, cấm các quân sĩ Pháp, У Pha Nho phá phách miếu. Lệnh này được lưu giữ từ năm 1860. 

Ngoài một số hiện vật được trưng bày, miếu còn tồn tại một lư Hương bằng đồng, dưới đế có ghi: Đại Minh Tuyên Đức niên chế, chế tạo năm Canh Tuất, đời vua tuyên Đức nhà Minh (1430). Theo thống kê chưa đầy đủ, miếu hiện lưu giữ gần 400 hiện cổ vật, gồm tượng thần bằng đá, bia đá, thuyền Bát Nhã, tranh nổi, hoa văn,….

Toàn miếu có 23 cặp đối, nội dung nói lên khát vọng của người dân luôn mong ước có một đời sống ấm no hạnh phúc, nhờ vào ân huệ và sự phò trợ to lớn của Thiên Hậu Thánh Mẫu. Một hệ thống phù điêu chạm khắc gỗ được tạo tác tại các bàn thờ Thiên Hậu Hậu, Long Mẫu, Kim Huê,… có người và vật, được trổ tài qua nét chạm đục tinh xảo, thành nhiều lớp tạo chiều sâu, mang lại giá trị văn nghệ nhiều hơn cho tác phẩm.

Ngoài ra, có thể thấy nét chạm khắc sinh động ấy qua chiếc thuyền Bát Nhã trang trí trên cửa ra vào của miếu; của hồ phóng sinh với những con rồng uốn lượn, được bố cục theo dạng Ngũ Long Bích, Cửu Long Bích,… tuy đầy đủ móng vuốt vươn ra, nhưng ta vẫn bắt gặp được nét mềm mại, dịu dàng, thanh thoát toát lên trên toàn thể tác phẩm. Qua những hoa văn trang trí bằng gỗ, bằng gốm, tranh vẽ,… còn tồn tại những bức tranh giới thiệu nét văn hóa sinh động của các mẫu truyện trích từ bộ sách Nhị thập tứ hiếu; những bài thơ của Lý Bạch, cố nhà văn thời Tống là Phạm Trọng Yếm,…

Toàn bộ những đường nét văn nghệ chạm khắc, gốm sứ, tranh vẽ, đến những đường nét chữ thảo, chữ triện, được trổ tài trong toàn thể khung cảnh, từ bên ngoài đến bên trong miếu, đã giới thiệu được đặc trưng cơ bản của nền văn hóa Trung Hoa. Trong số đó, không chỉ là những thành tựu nguyên mẫu được du nhập vào từ Trung Quốc, mà đang là những tác phẩm được sản xuất từ các lò gốm ở Chợ Lớn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Nền văn hóa ấy đã giới thiệu mối quan hệ vững chắc, chặt chẽ của hai cộng đồng Hoa – Việt đã có trong lịch sử mà vẫn tồn tại cho đến ngày nay.

LỄ HỘI Ở MIẾU THIÊN HẬU

Hằng năm cứ đến ngày 23 tháng 3 âm lịch, vía Bà Thiên mẫu đều được tổ chức long trọng. Trước đó, vào những ngày này, có trình diễn hát Quảng, có múa lân, múa rồng tưng bừng trong sân miếu. Ngày vía Bà cũng là ngày hội đấu thầu đèn lồng. Trong ánh sáng lung linh của đêm hội ấy, người Hoa thỉnh hàng chục, hàng trăm chiếc lồng đèn dâng cúng Bà, trước là để tỏ lòng thành kính, sau nữa là có dịp làm phước thiện. Đến tham gia lễ hội, người Hoa nào cũng cảm thấy được thân thiện nhau hơn. 

Tiếp nối truyền thống nghi lễ hàng trăm năm qua, mỗi năm cứ vào ngày 28 hoặc 29 Tết, Ban Trị sự Miếu đều tiến hành lễ cúng Bà. Điểm nhấn trọng yếu trong ngày lễ cúng này là Lễ khai ấn. Đây là một trong những sự kiện đặc biệt so với người Hoa tín ngưỡng Bà Thiên Hậu. Đặc biệt, vì nó trái với tập tục của các đơn vị công đường trước đó. Hằng năm vào 23 tháng Chạp, quan ở công đường làm lễ kháp ấn (niêm phong ấn trong tráp).

Đầu xuân năm mới, họ khởi đầu làm lễ khai ấn vào lúc mở cửa công đường, làm việc trở lại. Người Hoa ở Chợ Lớn có truyền thống làm lễ khai ấn vào cuối năm, kỳ vọng vào thời kỳ chuyển tiếp từ năm cũ sang năm mới, đã có sự phò trợ của Bà Thiên Hậu để giúp nước được thịnh, dân được yên. 

Sáng 28 Tết, sau hồi chuông trống Bát Nhã vang xa, 11 vị trong Ban Trị sự đã nghiêm trang tề tựu trước chính điện. Một người xướng lễ tiến hành nghi thức thắp nhang cho Bà. Sau này là việc bốc thăm. Mười một mảnh giấy đỏ được xếp vuông vắn, đặt vào mâm, lần lượt mang đến trước 11 thành viên trong Ban Trị sự. Bên trong mảnh giấy ghi “Vạn sự như ý”, “Như Ý Kiết Tường”, …; riêng thăm có ghi bốn chữ ”Khai ấn đại kiết” vào tay ai thì người ấy được vinh dự lên mở ấn. Người bốc trúng thăm có chữ “bê ấn” (tiếng Quảng đọc thành Bủn danh) sẽ cầm ấn cho người kia đóng. Ấn bằng đồng, hình vuông, có cạnh 9cm, mặt ấn khắc bốn chữ Hán dạng văn bản triện “Hộ quốc tý dân” (giúp nước cứu dân). Khi ấn trong hộp đã được lấy ra, liền được đóng lên hai mảnh giấy đỏ dán vào cột chính tại cung Thiên Hậu. Hai mảnh giấy ghi chữ Hán, một bên là “Khai ấn đại kiết” một bên là “Hợp cảnh bình an”. Giấy này được giữ trên cột đến ngày vía Thiên Hậu Thánh Mẫu (23 tháng ba âm lịch) sẽ được thay hai tấm mới.

Sau thời điểm giấy được dán vào cột, hàng trăm người Hoa đến tham gia lễ khai ấn khởi đầu đến bên chính điện, mang những vuông khăn mới, chen lấn nhau để nhận về những góc khăn có đóng ấn Bà, xem như là những ấn chứng, đảm bảo cho một năm mới được an khang thịnh vượng và hạnh phúc.

Khi những vuông khăn có ấn ba được người Hoa xếp lại thận trọng thực sự, thì cũng là lúc họ khởi đầu đến bên quầy nhang đèn để “thỉnh” chiếc đèn lồng thanh mảnh có cốt bằng nan tre, bên ngoài phết sơn gọi là “Thiên Mẫu Đăng”, xung quanh đèn có hàng chữ “Thiên Hậu Thánh Mẫu” cùng với hai lời chúc “Tân Xuân Đại Kiết” và “Hợp Gia Bình An”. Đèn mua xong, đem đặt ở chính điện, cầu mong sự chứng giám của Bà, sau đó mang qua vài lần trên bảy ngọn (Thất Tinh Đăng) coi như lễ khai quang, biểu tượng cho việc cầu thọ. Theo phong tục, Khổng Minh đốt bảy ngọn đèn cầu sống thêm, khi biết tuổi thọ của mình đã mãn. Từ đó thất tinh đăng là biểu tượng để cầu thọ.

Đèn lồng được rước về nhà, trang trọng trên cái bàn thờ Bà hoặc bàn thờ tổ tiên, với khát vọng một năm mới sắp khởi đầu sẽ là một năm mang lại nhiều thịnh vượng, bình an và hạnh phúc cho gia chủ, nhờ vào sự phù trợ của Thiên Hậu Thánh Mẫu.

Dù cho ở mỗi ngôi miếu, lễ này được tổ chức đôi lúc có đôi chút khác biệt, nhưng trên hết vẫn là niềm mong ước nhắm đến cái thiện cho cộng đồng và gia đình, của hơn triệu người Hoa có quy trình cộng cư suốt ba thế kỷ qua ở Việt Nam. Tín ngưỡng Bà Thiên Hậu, ngưỡng vọng và dành nhiều nghi lễ trang nghiêm cho Bà trong ngày cuối năm để cầu mong sự phò trợ cho cộng đồng được tiếp tục hanh thông trong tương lai, người Hoa đã bộc lộ được cuộc sống bình an và hạnh phúc nơi vùng đất mới.

Tại Miếu, người Hoa đi lễ hầu như các ngày trong tháng. Ngoài nhóm người Hoa gốc Quảng Đông, còn tồn tại các nhóm khác và cả người Việt đến lễ bái. Đông nhất là vào các ngày rằm và mùng một, thượng nguyên (Tết Nguyên Tiêu); Trung Nguyên, Hạ nguyên. Nhìn chung, trong năm, miếu tổ chức 16 sự kiện cúng. Khi đến cúng, người Hoa mang lễ vật như hoa tươi, trái cây, gà, bánh,… nhang, đèn, giấy tiền vàng bạc là lễ vật không thể thiếu. Lễ vật mang đến, cúng xong họ mang trở về nhà một phần gọi là hưởng lộc Bà. Người Hoa cũng mua nhiều vòng nhang tròn cầu an treo ở trong Miếu để nguyện cầu cho bản thân hay gia đình được bình an, tiêu trừ bệnh tật. 

Cộng đồng người Hoa Quảng Đông, ngay từ khi thành lập miếu Thiên Hậu, cũng từng xây dựng nhiều nền tảng từ thiện xã hội như trường Mạch Kiếm Hùng, Tang nghi quán, Nhị tỳ Quảng Đông ở Bình Thới (hiện không còn hoạt động), trạm xá Nguyễn Tri Phương,… Tiền phúc lợi do từ quỹ cúng, được Ban Quản trị miếu sử dụng vào những việc công ích như: Xây trường, bảo trợ cho học viên, sinh viên nghèo, cấp học bổng cho trường Trần Khai Nguyên, ngân sách thuốc men cho người nghèo,…

Miếu Thiên Hậu – Hội quán Tuệ Thành có vị trí trọng yếu so với cộng đồng người Hoa, nhất là người Hoa Quảng Đông ở Chợ Lớn. Miếu Thiên Hậu là một trong những ngôi miếu được giữ gìn khá tốt. Đây cũng là một thắng cảnh của tp, thu hút đông đảo khách du lịch Hoa, Việt và người nước ngoài đến tham quan, lễ bái. Miếu là niềm tự hào của người Hoa tp, là di tích lịch sử – văn hóa quốc gia được thừa nhận vào năm 1995.

 

* Th.Ş Nguyễn Thùy Dương – Khoa Công tác xã hội (ĐH Mở TP.HCM).

Tài liệu tham khảo: 

1. Miếu Thiên Hậu – Tuệ Thành Hội quán (2000), NXB Trẻ.
2. Võ Thị Ánh Tuyết (2011), Hội quán Hoa ở Hội An (Quảng Nam) trong so sánh các miếu Hoa ở Tp Hồ Chí Minh (Nam Bộ – Đất và Người, Tập VIII), NXB Đại học Quốc gia TP.HCM.

Miếu Thiên Hậu – nét đẹp văn hóa của người Hoa Chợ Lớn (Dương Thụy)


Xem thêm những thông tin liên quan đến đề tài chùa bà thiên hậu quận 5

Chùa Bà Thiên Hậu quận 5: Trung Hoa giữa lòng tp

alt

  • Tác giả: Blog Du Lịch
  • Ngày đăng: 2021-01-21
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 3507 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Chùa Bà Thiên Hậu – Chốn Tâm Linh Hơn 250 Tuổi Của Sài Gòn
    Sài Gòn vốn dĩ không phải lúc nào cũng xô bồ, hối hả với nhịp sống phồn hoa nơi thị thành rực rỡ ánh đèn. Sài Gòn vẫn có những góc tĩnh lặng riêng để làm dịu mát tâm hồn, cho mọi vướng bận, sân si nhật thường đều trôi vào không gian trầm lắng ấy.
    Xem cụ thể tại: https://blogdulich.tv/chua-ba-thien-hau-quan-5-trung-hoa-giua-long-thanh-pho/
    BlogDuLich Chùa_Bà_Thiên_Hậu
    Chùa bà Thiên Hậu là nơi đến tâm linh thân thuộc của người Sài Gòn mỗi khi cảm thấy trống vắng. Ngôi chùa tọa lạc giữa lòng tp không chỉ thu hút khách du lịch trong nước mà còn cả những vị lữ hành ngoại quốc đến tìm hiểu những “bí mật” cất giấu đằng sau.
    Chùa bà Thiên Hậu nằm ngay tại 710 đường Nguyễn Trãi, quận 5, được ví von là ngôi nhà tâm linh có tầm tác động rất lớn đến đời sống văn hóa người Hoa đang sinh sống trên địa phận tp.
    Chùa được xây dựng vào năm 1760 và đã được thừa nhận là Di tích thiết kế văn nghệ cấp quốc gia vào năm 1993. Sau 256 năm tồn tại, chùa bà Thiên Hậu vẫn giữ được nét thiết kế mới mẻ dù trải qua nhiều lần tu bổ, sửa chữa.
    Tên chuẩn xác của nơi này là Thiên Hậu Miếu, dịch ra tiếng Việt có nghĩa là miếu thờ bà Thiên Hậu. Tuy nhiên trong cách gọi của dân gian ở miền Nam nước ta, cứ nơi nào linh thiêng thì đều gọi là chùa. Vì vậy người ta thường gọi là chùa Bà Thiên Hậu dù cách gọi này cũng không hẳn là đúng cho lắm.
    Nếu muốn tìm kiếm một ngôi chùa mang thiết kế đặc trưng của người Hoa, sở hữu phong thái Á Đông thuần khiết thì du lịch Sài Gòn đến ngay chùa bà Thiên Hậu là lựa chọn đúng đắn của các bạn. Chùa được xây theo lối tam quan, cách điệu ở phần cửa ra vào đi vào và có thêm hai hành lang ở hai bên hông.
    Khách tham quan đơn giản nhận thấy dáng vẻ trầm mặc của ngôi chùa khi vừa đặt chân đến phía cổng. Mọi thứ hình như đã được thời gian ươm màu để không gian thêm phần cô tịch, bước chân người đi qua cánh cổng nhỏ sẽ lạc vào chốn huyền bí vừa thân thuộc lại có phần huyền bí.
    Suốt chiều dọc của ngôi chùa là phần thiết kế chính, cũng là nơi dành riêng cho các hoạt động tín ngưỡng. Ở giữa là khoảng trống như giếng trời để vừa lấy ánh sáng, khí trời vừa để cho hương nhang theo này mà cất cánh lên cao, tránh khói mù cho bên dưới. Hai bên là lối đi được phân cách rõ ràng, giúp cho người viếng đơn giản di chuyển hơn, nhất là vào các dịp lễ hội hay ngày rằm.
    Trong chính điện, tượng bà Thiên Hậu được đặt ở trung tâm. Ánh sáng đỏ – vàng quản lý đạo, hòa cùng bức màu đen của gỗ và ánh nến lung linh xung quanh đã làm cho nơi đây huyễn hoặc người nhìn. Dù chỉ đặt chân đến một lần, khách du lịch vẫn sẽ có ấn tượng sâu đậm, rất khó để có thể diễn tả hết bằng lời vẻ u tịch, huyền bí đó.
    Phần mái nhà được trang trí bằng rất nhiều pho tượng có kích thước lớn nhỏ và hình thù khác nhau. Tuy vậy, toàn bộ đều vô cùng hài hòa, đẹp mắt. Ngắm kỹ từng đường nét, người lữ hành sẽ hiểu được sự tinh tế, kỳ công của người tạo thành nó đã dùng hết tâm huyết của mình thế nào.
    Cũng tương tự với bao ngôi chùa khác, chùa bà Thiên Hậu đông đúc người đến viếng vào các dịp lễ, rằm. Và khi Tháng Giêng vẫn còn mang hương xuân dịu ngọt, ngôi chùa hơn 250 tuổi ở Sài Gòn luôn tấp nập người ra vào. Không chỉ có người Hoa mà cả người Việt lẫn khách du lịch ngoại phương vẫn bị lôi cuốn bởi sức hút mê hoặc của chùa bà Thiên Hậu.
    Có người đến cầu duyên, cầu tài, cầu lộc, cũng có người đơn giản là cầu bình an, cho một đời được an nhiên cùng gia đình. Lư hương lúc nào cũng đầy khói nhang, nghi ngút.
    Chùa bà Thiên Hậu được chia làm ba nơi chính: Tiền điện, Trung điện và Chính điện với những gian thờ những vị thần linh trong lịch sử Trung Quốc. Chính điện là nơi thờ chính của Thiên Hậu Thánh Mẫu với tượng bà Thiên Mẫu được tạc từ khối gỗ nổi trội giữa không gian vô cùng tĩnh mịch, kì bí và linh thiêng.
    Tiền điện là nơi đặt miếu thờ của Phúc Đức Chánh thần (thần thổ địa – người cai trị đất đai của nhân dân) và Môn Quan Vương tả (thần giữ cửa). Cuối cùng là Trung điện với bộ lư cổ hơn 130 tuổi lâu đời nhất lịch sử với nhiều nhiều nét điêu khắc tỉ mỉ, tinh xảo.
    Người ta nói răng, Chùa Bà Thiên Hậu có tầm tác động rất lớn đến đời sống văn hóa của cộng đồng người Hoa đang sinh sống ở Sài Gòn.Tồn tại đã 258 năm nhưng nó vẫn giữ được nét đặc trưng cho thiết kế của người Hoa.
    Nhiều đường nét trạm trổ, điêu khắc, hiện vật còn giá vị lịch sử và mỹ thuật còn được lưu giữ lại. Chính điều đó đã khiến nơi đây càng thu hút được sự quan tâm của khách du lịch trong và ngoài nước.
    Dù xung quanh có nhiều ngôi miếu, chùa khác nhưng nơi này luôn thu hút đông đảo người dân và khách du lịch từ khắp nơi đổ về làm việc thiện. Ngoài ra, đây cũng là vị trí yêu thích của giới chụp hình để thực hiện những bộ ảnh Tết với chiếc áo dài truyền thống.
    SĐT : 0914 122 071

Tìm tòi sự tích chùa Bà Thiên Hậu quận 5 Sài Gòn

  • Tác giả: halotravel.vn
  • Nhận xét: 5 ⭐ ( 9521 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Chùa Bà Thiên Hậu Quận 5 Sài Gòn có gì? Cẩm nang tìm hiểu Chùa Bà Thiên Hậu, chống tâm linh cổ kính nhất Sài Gòn

Chùa Bà Thiên Hậu – Nơi linh thiêng mang vẻ đẹp cổ kính

  • Tác giả: vinpearl.com
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 9651 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Chùa Bà Thiên Hậu được nhiều người Việt và người Việt gốc Hoa tôn sùng, cúng bái. Nơi đây lưu truyền những mẩu chuyện kỳ bí, phép lạ nhiệm màu vô cùng thú vị.

Nơi linh thiêng của người Hoa

  • Tác giả: liengtam.com
  • Nhận xét: 5 ⭐ ( 1230 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Tham quan chùa Thiện Hậu của người Hoa⭐️ để biết rõ thêm nét đẹp, ⭐️cũng như sự linh thiêng của ngôi chùa trên 200 năm tuổi

Chùa Bà Thiên Hậu nổi tiếng linh thiêng “cầu gì được nấy”

  • Tác giả: dothobattrang.vn
  • Nhận xét: 5 ⭐ ( 4048 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Nhiều người dân lớn tuổi sống gần chùa thường kể những mẩu chuyện linh thiêng tại chùa Bà Thiên Hậu. Nhiều người đã gần tuổi tứ tuần mà vẫn chưa có con…

Ngôi chùa cổ hơn 200 năm tuổi

  • Tác giả: digiticket.vn
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 5147 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Chùa Bà Thiên Hậu ở đâu? Tiết lộ kinh nghiệm check-in Chùa Bà Thiên Hậu cụ thể nhất mà bạn có thể tham khảo trong nội dung sau đây.

Chùa Bà Thiên Hậu – Nguyễn Trãi ở Quận 5, TP. HCM

  • Tác giả: www.foody.vn
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 7673 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Chùa Bà Thiên Hậu – Nguyễn Trãi – Chùa & Nhà thờ tại 710 Nguyễn Trãi, ᴘ. 11, Quận 5, TP. HCM

Xem thêm các nội dung khác thuộc thể loại: giải trí