Tuyển chọn những bài văn hay đề tài Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm của tác giả An-đéc-xen. Các bài văn mẫu được tổng hợp từ các nội dung hay, xuất sắc
Bạn đang xem: hình ảnh nhớ mẹ đã mất
Tuyển chọn những bài văn hay đề tài Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm của tác giả An-đéc-xen. Các bài văn mẫu được tổng hợp từ các nội dung hay, xuất sắc của chúng ta học viên trên cả nước. Mời các em cùng tham khảo nhé!
Tri thức cần ghi nhớ
1. Nội dung chính của truyện ngắn
Bạn đang xem: Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm
* Bố cục: Ba phần
– Phần một: “Rét dữ dội, tuyết rơi”… lúc này đôi bàn tay đã cứng đờ ra.
– Phần hai: “Chà! Giá quẹt một que diêm…” Họ đã về chầu Thượng đế.
– Phần bạ: “Sáng hôm sau…” những niềm vui đầu năm.
– Phần hai chia làm 5 đoạn:
+ Quẹt que diêm thứ nhất: Em tưởng chừng như đang ngồi trước lò sưởi bằng sắt… tỏa ra hơi nóng dịu dàng.
+ Quẹt que diêm thứ hai: Bàn ăn đã dọn và có cả một con ngỗng quay.
+ Quẹt que diêm thứ ba: Em thấy xuất hiện một cây thông Nô-en với hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi.
+ Quẹt que diêm thứ tư: Em nhìn thấy rõ ràng là bà em đang mỉm cười với em.
+ Quẹt toàn bộ những que diêm sót lại: Em thấy hai bà cháu cất cánh vụt lên cao, cao mãi…
2. Hoàn cảnh của cô bé bán diêm
– Hoàn cảnh: Gia đình nghèo, mẹ mất, người cha nghèo khó và tàn nhẫn, em phải bán diêm đổ kiếm sống, nếu không bán được ít bao diêm, hay không ai bố thí cho một đồng xu nào đem về; nhất định là cha em đánh em.
– Thời gian và không gian: Em đi lang thang trên đường trong đêm giao thừa, giữa trời đông giá rét. Bông tuyết bám đầy trên mái tóc dài xõa thành lừng búp trên lưng em. Nó hoàn toàn tương phản với cảnh no đủ ấm cúng của mọi người: cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phòng sực nức mùi ngỗng quay.
3. Những mộng tưởng của Cô bé bán diêm
– Các mộng tưởng của cô bé qua các lần quẹt diêm (thấy lò sưởi, bàn ăn, cây thông Nô-en, người bà, hai bà cháu cất cánh đi) lần lượt diễn ra thật hợp lý, phù hợp với những điều khát khao của em: được sưởi ấm, được ăn ngon, được đi chơi, được thương yêu, chấm hết mọi lo ngại buồn khổ.
-> Những mộng tưởng của cô bé qua các lần quẹt diêm đều liên tưởng tới cái thực tiễn mà em muốn một cách chân thực nhất.
4. Mang ra cảm nghĩ về Cô bé bán diêm
– Trong phần kết của chuyện, tử vong của cô bé vì nghèo khổ, vì đói rét khiến người đọc xót xa. Nhưng mặt khác, tử vong đó trở nên thanh thản qua hình ảnh đôi má hồng và đôi môi mỉm cười như em cũng đang tận hưởng lấy những niềm vui của ngày đầu năm.
– Truyện Cô bé bán làm ta xúc động sâu sắc, qua đó ta cũng cảm nhận sâu sắc việc xây dựng một cuộc sống ấm lo cho toàn bộ mọi người, nhất là những em bé có số phận đáng thương.
Dàn ý Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm
1. Mở bài:
– “Cô bé bán diêm” là truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn người Đan Mạch An-đéc-xen, trổ tài tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả trước hoàn cảnh đáng thương của cô bé bán diêm xấu số.
2. Thân bài:
α. Luận điểm 1: Phần đầu tác phẩm khắc họa hình ảnh cô bé bán diêm trong đêm giao thừa.
– Mở màn tác phẩm là hoàn cảnh của cô bé bán diêm: nhà nghèo, mồ côi mẹ, chân đất, bụng đói. Dưới trời rét mướt của đêm giao thừa, cô vẫn phải lang thang đi bán diêm kiếm tiền.
– Tác giả xây dựng nên 2 hoàn cảnh đối lập nhau
+ Một bên là khung cảnh đêm giao thừa: nhà nhà snasg rực ánh đèn, sực nức mùi thơm của thức ăn.
+ Một bên là hình ảnh cô bé “ngồi nép trong góc tường”, “mỗi lúc em càng thấy rét buốt hơn”, “đôi bàn tay cứng đờ ra” . Đến cả ngôi nhà tồi tàn của cô hiện tại cũng không thể chắn nổi từng đợt gió rét cắt da cắt thịt
⇒ Sự đối lập ấy đã nhấn mạnh hoàn cảnh đáng thương, khổ sở của cô bé khi vừa phải chịu cái rét, vừa phải chịu cái đói, đau buốt chân tay. Nhưng không những thế, tất cả chúng ta cũng thấy được phần nào sự vô cảm, thờ ơ của xã hội khi không có ai mang tay ra trợ giúp em khỏi đêm rét buốt đó.
ɓ. Luận điểm 2: Hiện thực và mộng tưởng trong ánh nhìn trẻ thơ của cô bé
– Giữa cái giá rét, cô bé quyết định quẹt diêm để sưởi ấm cho chính mình. Mỗi lần quẹt diêm là một ước mong giản dị, chân tình và đầy ngây thơ của cô bé:
+ Lần quẹt thứ 1: cô mơ thấy một lò sưởi to ⇒ ước được sưởi ấm, thoát khỏi cái giá rét
+ Lần quẹt thứ 2: cô mơ thấy một bàn ăn thịnh soạn với những món ăn hoành tráng ⇒ ước được ăn no, thoát khỏi cái đói, cái nghèo.
+ Lần quẹt thứ 3: cô nhìn thấy cây thông Nô-en thật to và đầy màu sắc ⇒ ước được đón lễ giáng sinh như bao người khác
+ Lần quẹt thứ 4: bà xuất hiện ⇒ ước được sum họp với người bà thân yêu của mình.
– Mỗi lần quẹt diêm là một khung cảnh trong mơ xuất hiện trước mặt cô bé, nhưng những giấc mộng đó chỉ kéo dài trong vài giây và sau thời điểm diêm tắt, mọi thứ lại trở về với tối tăm, rét mướt, đói khổ. Sự hòa lẫn giữa mộng tưởng và hiện thực như một nhát dao cứa vào lòng người đọc khi cảm thu được nỗi xấu số, sự cô quạnh, lạc long của cô gái bé nhỏ giữa xã hội.
– Ở lần quẹt diêm thứ 4, cô đã nhất quyết níu tay người bà và cầu xin bà cho cô đi cùng. Đây được xem như là cụ thể cảm động nhất. Nó không chỉ trổ tài tình yêu, lòng quý trọng, nhớ thương của cô với người bà quá cố, mà đang là sự níu kéo lại những phút giây hạnh phúc mỏng manh duy nhất của cuộc sống, cũng là ước muốn được giải thoát khỏi khổ đau trong tâm hồn non nớt ấy.
ͼ. Luận điểm 3: Tử vong của cô bé bán diêm trong đêm giá lạnh
– Cuối cùng, Chúa cũng xót thương cho số phận xấu số của cô bé và mang cô về với người bà của mình nơi Thiên đường. Hình ảnh cô bé chết với đôi má hồng và đôi môi đag mỉm cười như xoáy sâu vào lòng người đọc một nỗi sững sờ, xúc động và một thắc mắc về sự vô tâm, vô cảm của xã hội xung quanh.
{d}. Luận điểm 4: Thành công văn nghệ:
– Văn nghệ kể mê hoặc người đọc với các tình tiết hợp lí, logic, sự hòa lẫn giữa hiện thực với mộng tưởng làm tăng thêm hiệu quả văn nghệ và thành công cho truyện.
– Văn nghệ khắc họa tâm trạng nahan vật và tình tiết tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc.
3. Kết bài:
– Nhất định lại giá trị tác phẩm: Tác phẩm khắc họa lại tình ảnh đáng thương và những ước mong giản dị, trong sáng, xúc động của cô bé bán diêm.
– Liên hệ: Qua đó trổ tài tấm lòng nhân đạo cao thượng của tác giả.
Xem thêm:
-
Dàn ý cảm nghĩ của em về truyện Cô bé bán diêm
-
Dàn ý cảm nhận về nhân vật cô bé bán diêm
Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm – Bài mẫu 1
Truyện ngắn Cô bé bán diêm của nhà văn An-đéc-xen đã để lại những dư âm, ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Không chỉ vậy đó đang là niềm thương cả vô hạn cho số phận xấu số, đầy bi thương của nhà văn với cô bé bán diêm.
Hoàn cảnh của cô bé vô cùng thương cảm, ngay từ những lời trước nhất giới thiệu về hoàn cảnh của cô bé đã khiến người đọc phải rơi nước mắt: bà và mẹ những người yêu thương em nhất đều đã từ trần, em sống chui rúc với bố trong một căn gác tối tăm, eo hẹp. Người bố có vẻ vì cuộc sống nghèo túng, khó khăn nên đâm ra khó tính, đối xử tệ bạc với em: hay mắng nhiếc, chửi rủa em.
Trong đêm đông giá rét em phải mang những phong diêm đi bán để kiếm sống nuôi bản thân. Mặc dù có nhà song em không dám về vì nếu về mà không mang được đồng xu nào tất sẽ bị cha em mắng chửi. Người cha vô lương tâm, lời lẽ hành động thiếu tình thương đã khiến cô bé xấu số phải ở bên ngoài trong đêm đông giá lạnh, trong gió và mưa tuyết mỗi lúc một nhiều.
Xót thương biết bao trong ngày cuối cùng của năm ai ai cũng được quay quần bên gia đình còn cô bé thì đầu trần, chân đất lang thang ngoài trời đông giá rét, tuyết phủ trắng xóa. Xung quanh em đường phố, nhà cửa đã lên đèn, không gian thật ấm cúng, hạnh phúc, mùi ngỗng sực nức khắp nơi, còn em đã đi cả ngày mà không bán được bao diêm nào. Những hình ảnh tương phản không chỉ làm nổi trội thiếu thốn, khó khăn về vật chất của em mà còn nói đến những mất mát, thiếu thốn về mặt trí não.
Trong cái giá rét của mùa đông, cô bé liều mình quẹt từng que diêm để sưởi ấm thân thể. Hình ảnh ngọn lửa diêm mang nhiều ý nghĩa sâu sắc. Trước hết ngọn lửa diêm xua tan cái rét mướt, tối tăm để em bé có thể quên đi những xấu số, cay đắng của cuộc sống.
Ngọn lửa diêm đã thắp sáng những mong ước đẹp đẽ, những khao khát mãnh liệt, mang đến toàn cầu mộng tưởng với niềm vui, hạnh phúc. Đó đang là ngọn lửa của mong ước về cuộc sống gia đình hạnh phúc, được sống trong tình yêu thương của cha mẹ, ông bà. Hình ảnh ngọn lửa diêm như con thuyền đầy trí não nhân văn của tác giả, trổ tài sự thông cảm, trân trọng những ước mong giản dị, diệu kì của trẻ nhỏ.
Mỗi lần quẹt diêm, cô bé tội nghiệp lại được sống trong giây phút hạnh phúc, đắm chìm trong toàn cầu cổ tích, thoát khỏi thực tại tối tăm. Lần quẹt diêm thứ nhất, em thấy lò sưởi, vì trong đêm đông giá lạnh em cần được sưởi ấm. Khi que diêm vụt tắt, lò sưởi biến mất, nỗi sợ hãi mơ hồ lại xâm chiếm em “đêm nay về nhà thế nào cũng bị cha mắng”. Em lại lấy dũng cảm quẹt diêm lần thứ 2, lần này em thấy một bàn ăn thịnh soạn,… sự tưởng tượng của em thật khôi hài, cho thấy mong ước lớn nhất lúc này của em là được ăn no.
Trong đêm giao thừa gia đình nào cũng quây quần bên mâm cơm, còn em lại đói lả đi trong cái giá lạnh. Cụ thể gây xúc động sâu sắc đến người đọc, nó gợi lên những ám ảnh day dứt khôn nguôi. Lần thứ ba, trong không khí đêm giáng sinh, em thấy hình ảnh của cây thông. Đó chính là biểu tượng của tổ ấm gia đình hạnh phúc, là những ước mong trong sáng của tuổi thơ.
Lần thứ 4, giữa cái đói rét và cô độc, em khao khát có tình yêu thương và chỉ có bà là người yêu thương em nhất. Trong giây phút đó bà hiện lên thật ấm áp, đẹp đẽ. Cô bé khẩn thiết van xin bà cho đi cùng, bởi cô bé hiểu khi ngọn lửa diêm tắt đi bà cũng biến mất. Ước nguyện của cô bé thật đáng thương, cô bé muốn được chở che, được yêu thương biết nhường nào.
Lần cuối cùng em quẹt hết số diêm sót lại để nhìn thấy bà và thật kì quái ước nguyện cuối cùng của em đã trở thành hiện thực. Em không còn phải đương đầu với đòn roi, những lời mắng nhiếc, sự đói rét, nỗi buồn nữa, em đã được đến một toàn cầu khác, toàn cầu có bà ở bên. Qua những lần mộng tưởng của cô bé ta thấy cô bé là người có tâm hồn trong sáng, ngây thơ.
Trong đói rét em không hề oán trách một ai vì đã thờ ơ trước hoàn cảnh của mình. Tâm hồn em thật trong sáng và nhân hậu biết chừng nào. Này là một cô bé giàu mong ước, vượt lên hoàn cảnh thực tại đói rét, cô quạnh. Những mong ước ấy giản dị mà cũng thật lãng mạn, diệu kì.
Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm – Bài mẫu 2
An-đéc-xen là nhà văn Đan Mạch nổi tiếng với thể loại truyện kể cho trẻ em, trong đó, tác phẩm thân thuộc với độc giả trên khắp toàn cầu phải nói đến là “Cô bé bán diêm”. Truyện mê hoặc người đọc bởi sự hòa lẫn giữa hiện thực và mộng tưởng, không những thế, hình ảnh cô bé bán diêm trong đêm giao thừa đã gợi cho tất cả chúng ta lòng thương cảm sâu sắc so với một em bé nghèo khổ, đáng thương.
Trước hết, cô bé bán diêm có một hoàn cảnh xấu số, sớm đã mồ côi mẹ, bà là người yêu thương em nhất cũng bỏ em mà đi, sống với cha trong hoàn cảnh nghèo khổ, em phải đi bán diêm. Ngày qua ngày, cô bé với giỏ diêm trên tay lầm lũi đi qua từng góc phố, đoạn đường, ngày nào không bán được, em sẽ bị người cha đánh mắng.
Cô bé vừa thiếu thốn tình cảm lại phải chịu đựng cảnh bạo lực gia đình, chịu nhiều tổn thương cả về trí não lẫn thể xác. Trong đêm giao thừa, một đêm đặc biệt nhất, đêm kết thúc một năm và khởi đầu một năm mới, ngoài kia người ta sum vầy, quây quần cùng nhau ấm cúng bao nhiêu thì cô bé bán diêm lại lẻ loi, đơn độc từng ấy.
Giữa trời mưa tuyết rét mướt lạnh cóng, đôi chân trần của em lê hết các đường phố ngõ ngách để bán những bao diêm, cả một ngày em chưa được ăn, phải chống lại cái lạnh, cái đói để bán diêm thế nhưng cũng không bán được bao diêm nào. Càng về đêm trời càng lạnh, cái lạnh và đói đang đày đọa em, dù có vậy em vẫn không dám về nhà, bởi “về nhà mà không bán được bao diêm nào”, không có tiền, em sẽ lại phải chịu đòn của cha, hơn nữa căn phòng trên gác mái của cha con em cũng chẳng khác gì ở ngoài trời.
Ở lứa tuổi của cô bé, tất cả chúng ta đang được quây quần bên ông bà, cha mẹ ăn những buổi tiệc thịnh soạn và chuẩn bị nghênh đón năm mới, ấy vậy mà em lại phải chịu sự thờ ơ, vô tâm và lạnh lùng đến đáng sợ của những người xung quanh. Họ không hề để ý đến em, chẳng ai quan tâm, đoái hoài đến hoàn cảnh và nỗi khổ của em.
Em không thu được sự yêu thương và thấu hiểu từ mọi người, điều đó càng khiến ta cảm thấy xót xa cho tình cảnh đáng thương của cô bé bán diêm. Trái tim người đọc như thắt lại bởi hoàn cảnh của cô bé bán diêm quá đỗi thực tiễn, xã hội có rất nhiều em bé phải chịu cảnh như em, sớm đã phải chịu nhiều thiệt thòi, xấu số và khổ sở.
Nép mình vào một góc tường trên hè phố, cô bé bán diêm đáng thương quẹt những que diêm sưởi ấm cho đôi tay, đôi chân đã tê cứng vì lạnh. Từng que diêm được em đốt lên bằng cả niềm khao khát và ước muốn, ngọn lửa của que diêm xuất hiện nào là bàn ăn thịnh soạn với ngỗng quay, nào là lò sưởi đang cháy và cây thông Noel đều là những thứ thiết yếu trong hoàn cảnh đói rét đơn độc của em.
Cho đến khi gặp được bà trong ngọn lửa que diêm, em đã vui sướng biết bao, em khao khát được đi theo bà, cầu xin Thượng Đế cho em được ở cùng bà, và cuối cùng em đã được toại nguyện. Tuy những que diêm chỉ mang lại những ảo ảnh nhưng lại là hạnh phúc thực sự so với cô bé bán diêm, “Bà cụ cầm lấy tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét, đau buồn nào đe dọa họ nữa”.
Tử vong của em thật nhẹ nhõm, như một sự giải thoát cho kiếp người xấu số khốn khổ của em, thế nhưng nó phản ánh một sự thật đau lòng rằng em đã phải chết giữa dòng người vô tâm, lãnh đạm và thờ ơ, chính xã hội đó đã giết chết những loài người như em, nếu người ta có tình thương, có lòng nhân ái có vẻ số phận của em đã khác.
Nhân vật cô bé bán diêm đã để lại trong lòng người đọc những hoài niệm, những tư duy khôn nguôi về số phận loài người, khơi dậy trong mỗi tất cả chúng ta lòng thương cảm so với những cảnh đời xấu số trong cuộc sống. Tất cả chúng ta may mắn là những “chiếc lá” lành lặn phải có trách nhiệm trợ giúp và đùm bọc cho những “chiếc lá” kém may mắn hơn, này là lòng nhân ái và tình thương mà loài người cần phải có giành cho nhau.
Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm – Bài mẫu 3
An-đéc-xen nhà văn nổi tiếng với những mẩu truyện giành cho thiếu nhi. Các tác phẩm của ông luôn để lại những ấn tượng sâu đậm, những bài học sâu sắc cho các bạn nhỏ. Khi nhắc đến kho tàng truyện của ông ta không thể không nhắc đến truyện Cô bé bán diêm, một mẩu truyện giàu giá trị nhân văn, nhân bản.
Truyện kể về số phận bi thương, xấu số của cô bé bán diêm. Cô bé vốn cũng có một gia đình hết sức êm ấm, hạnh phúc, với người bà hiền hậu, trong “ngôi nhà xinh xắn có dây thường xuân bao quanh”, nhưng toàn bộ chỉ đang là quá khứ xa xôi. Người bà, người mẹ yêu thương em lần lượt đã từ trần, em sống với người bố trong cảnh nghèo khổ, túng quẫn trên một căn gác tồi tàn, em phải đi bán diêm để kiếm sống.
Sự khốn cùng của em được tác giả đậm tô hơn nữa trong đêm giao thừa. Trong đêm đông lạnh giá, từng cơn gió thấu xương vù vù thổi, cô bé đầu trần, chân đất, bụng đói đang mang những phong diêm đi bán. Em không dám về nhà vì người cha nghiện rượu sẵn sàng đánh em nếu em chưa bán được gì. Em ngồi sát góc tường, mong mỏi mọi người rủ lòng thương mà mua cho mình.
An-đéc-xen đã xây dựng một loạt các hình ảnh tương phản, đối lập để làm nổi trội lên hoàn cảnh đáng thương của cô bé: ngôi nhà xinh xắn, ngập tình yêu thương chỉ còn trong quá khứ, hiện tại chỉ là tầng áp mái tồi tàn, với người cha luôn mắng chửi, đánh đập em; mọi người đang ngồi trong ngôi nhà sáng ánh đèn còn em một mình với bóng đêm, lạnh giá; trong mỗi căn nhà sực nức mùi ngỗng quay, mùi của gia đình hạnh phúc còn cô bé bụng đói cả ngày, cô quạnh, buồn tủi.
Với văn nghệ tương phản tác giả đã làm rõ hơn nỗi xấu số của em. Cô bé không chỉ thiếu thốn, khốn khổ về vật chất mà còn sống trong cảnh bị mọi người thờ ơ, trong đó có cả bố – người đã sinh ra em. Tác giả có sự phối hợp hài hòa giữa hiện thực và mộng tưởng thông qua các lần quẹt diêm của cô bé.
Trong tác phẩm, cô bé quẹt diêm toàn bộ năm lần: lần một thấy chiếc lò sưởi, lần hai thấy ngỗng quay, lần thứ ba thấy cây thông, lần bốn thấy bà, lần năm em quẹt toàn bộ các que diêm sót lại để níu kéo người bà ở lại với mình. Trình tự quẹt diêm của em là hoàn toàn hợp lí, đi từ vật chất đến trí não: em muốn có lò sưởi, ngỗng quay bởi em đang phải chịu cái đói, cái lạnh; em thấy cây thông, người bà bởi nó gợi ra không khí gia đình ấm áp, tràn ngập tình yêu thương.
Sự đan cài giữa hiện thực và mộng tưởng mang đến cho người đọc niềm xót xa, thông cảm sâu sắc trước số phận em bé. Những mộng tưởng của em bé đều xuất phát từ thực tiễn khổ đau: em mơ lò sưởi, buổi tiệc, cây thông,… vì em phải sống trong cảnh thiếu thốn, nghèo khổ. Em mơ thấy bà vì khi bà mất, em luôn sống trong cảnh thiếu tình yêu thương. Sau mỗi lần que diêm tắt là thực tiễn khắc nghiệt đổ ập vào em, làm cho số phận của cô bé càng trở nên xấu số.
Bởi vậy, em phấn đấu quẹt những que diêm cuối cùng để níu kéo bà ở lại, để em được sống trong tình yêu thương. Nhưng cô bé cũng hiểu rằng, chỉ cần que diêm tắt đi thì hình ảnh bà cũng mất như toàn bộ những sự vật trước đó. Bởi vậy, em đã ước mình được đi cùng bà mãi mãi. Niềm mong ước của em vừa phản ánh khát khao được sống trong tình yêu thương, vừa trổ tài số phận bi kịch, xấu số của cô gái bé nhỏ, tội nghiệp.
Tử vong của cô bé cũng vô cùng thương tâm, gây ám ảnh với độc giả. Buổi sáng trước nhất của năm mới, mọi người ai cũng vui vẻ, rạng rỡ nhưng em bé lại một mình chết ở xó tường, em chết vì lạnh, vì lòng người vô cảm không ai quan tâm, trợ giúp em.
Nhưng khi chết trên mặt em đôi má vẫn hồng, đôi môi như đang mỉm cười, vì em đã thoát khỏi cuộc sống xấu số, được đến với người bà yêu quý của mình. Thực tiễn đây là một cái kết mang tính chất bi kịch. Hạnh phúc với mỗi loài người là ở thực tại, ở trần thế này nhưng em phải đến toàn cầu khác mới được hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc ấy.
Tác phẩm được xây dựng một kết cấu phù phù hợp với tình tiết sự việc và tâm lí nhân vật. Văn nghệ tương phản đối lập càng làm nổi trội hơn nỗi xấu số của em bé: mồ côi, trong đêm tối một mình lang thang bán diêm đối lập với đường phố rực rỡ ánh đèn, những người xung quanh vui vẻ, hạnh phúc. Sự hòa lẫn hài hòa hợp lí giữa hiện thực và mộng tưởng vừa làm rõ số phận bi thương, vừa khắc họa khát khao hạnh phúc của cô bé bán diêm.
Truyện Cô bé bán diêm trổ tài tình yêu thương sâu sắc của nhà văn so với những số phận xấu số. Truyện truyền tải đến người đọc thông điệp giàu ý nghĩa, thấm đẫm giá trị nhân đạo: hãy yêu thương trẻ thơ và để cho chúng được sống một cuộc sống đủ đầy, hạnh phúc.
Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm – Bài mẫu 4
Ai đã từng đọc Cô bé bán diêm của nhà văn Đan Mạch An-đéc-xen hẳn sẽ không thể nào quên những ánh lửa diêm nhỏ nhoi bùng lên giữa đêm giao thừa giá rét gắn với một toàn cầu mộng tưởng thật đẹp của cô bé nghèo khổ. Kết cục mẩu truyện thật buồn nhưng sức ám ảnh của những giấc mơ tuyệt đẹp vẫn ắp đầy tâm trí người đọc, người nghe qua những lời kể và sự mô tả rất hấp dẫn của An-đéc-xen.
Trong bóng tối và cái rét cắt thịt da của xứ sở Đan Mạch, ta như nhìn thấy rõ một cô bé đôi môi tím tái, bụng đói cồn cào đang lần từng bước chân trần trên hè phố. Một cô bé mồ côi khốn khổ, không dám về nhà vì chưa bán được bao diêm nào thì sẽ bị cha đánh. Nhà văn đã tạo ra cảm tưởng thật sống động khi ông nhập vào những khoảnh khắc tâm trạng của cô bé.
Ấn tượng đậm nét trước nhất khơi lên mối thương cả chính là hình ảnh cô bé như lọt thỏm giữa cái mênh mông của bóng đêm vào thời khắc sắp giao thừa. Khi “mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay”, cô bé đã tưởng niệm lại quá khứ tươi đẹp khi bà nội hiền hậu còn sống.
Ngôi nhà xinh xắn với những dây thường xuân trong những ngày đầm ấm tương phản với thực tại cuộc sống của hai cha con trong một xó tối tăm, sự nghèo khổ kéo theo những lời mắng nhiếc chửi rủa của người cha khi gia sản đã tiêu tán. Để nguôi cảm tưởng lạnh, em đã “ngồi nép trong một góc tường”, “thu đôi chân vào người” nhưng có vẻ chính nỗi sợ hãi còn mạnh hơn giá rét đã khiến em “càng thấy rét buốt hơn”.
Em không thể về vì biết “nhất định cha em sẽ đánh em”. “Ở nhà cũng rét thế thôi”, điều đáng sợ nhất so với cô bé không phải là thiếu hơi ấm mà là thiếu tình thương. Thật đáng thương khi thân hình bé nhỏ của em phải đương đầu vô vọng với cảm tưởng giá buốt bên ngoài và cái lạnh từ trong trái tim khiến “đôi bàn tay em đã cứng đờ ra”.
Lúc ấy, em chỉ ước ao một điều thật nhỏ nhoi: “Chà! Giá quẹt một que diêm mà sưởi cho đỡ rét một chút nhỉ?” nhưng hình như em cũng không đủ dũng cảm vì làm như vậy em sẽ làm hỏng một bao diêm không bán được. Nhưng rồi cô bé ấy cũng “đánh liều quẹt một que”, để khởi đầu cho một hành trình mộng tưởng vượt lên thực tại khắc nghiệt.
Giấc mơ của em bắt nguồn từ lúc nhìn vào ngọn lửa: “lúc đầu xanh lam, dần dần biến đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt”. Ánh sáng ấy đã lấn át đi cảm tưởng của bóng tối mênh mông, để hiện lên hình ảnh “một lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng”.
Niềm vui thích của em đến trong ảo giác “lửa cháy nom đến vui mắt và tỏa ra hơi nóng dịu dàng”. Này là ước mong thật đơn giản trong lúc thực tiễn lại phũ phàng “tuyết phủ kín mặt đất, gió bấc thổi vun vút… trong đêm đông rét buốt”. Ước ao được ngồi hàng tiếng đồng hồ “trước một lò sưởi” cũng biến tan khi “lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất”. Khoảnh khắc em “bần thần cả người” khi hình dung ra những lời mắng chửi của cha khiến ta phải nao lòng. Bóng tối lại phủ lên màu u ám trong tâm hồn em
Có vẻ vì vậy, nhà văn đã để em tiếp tục thắp lên que diêm thứ hai, thắp lên niềm vui nhỏ nhoi dù chỉ là trong mộng tưởng. Không chỉ phải đương đầu với cái rét, cô bé còn phải cầm cự với cơn đói khi cả ngày chưa có miếng nào vào bụng. Vì vậy, ánh sáng rực lên của ngọn lửa diêm đã biến hàng rào xám xịt thành “tấm rèm bằng vải màu”.
Cái hạnh phúc trong những ngôi nhà ấm áp đã tới với em, khi em nhìn thấy: “Bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa bằng sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay”. Giá như toàn bộ những hình ảnh tưởng tượng biến thành hiện thực thì em sẽ vui sướng biết bao, khi “ngỗng nhảy ra khỏi đĩa” sẽ mang đến cho em bữa ăn thịnh soạn để vượt lên phút đói lả người.
Nhưng một lần nữa, ảo ảnh lại vụt biến, em lại phải đương đầu với “phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng xoá, gió bấc vi vu”. Không những thế, em còn nhìn thấy sự thờ ơ ghẻ lạnh của những người qua đường, hình ảnh tương phản được nhà văn khắc họa làm ta nhói đau trước em bé xấu số.
Và một lần nữa, que diêm tiếp theo lại sáng bừng lên, để em được sống trong những giấc mơ đẹp nhất của một em bé. Trong một cuộc sống phải từng phút từng giây vật lộn mưu sinh, em đã phải từ giã những niềm vui được đùa chơi của con trẻ. Ánh sáng từ que diêm đã tỏa ra vầng hào quang lộng lẫy, cho em “một cây thông Nô-en”, như mang đến cho em một thiên đường của tuổi thơ: “Hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ như những bức bày trong tủ hàng”.
Điều trớ trêu nghiệt ngã là toàn bộ những hình ảnh tươi đẹp ấy em chỉ kịp nhìn nhưng không thể chạm tay vào, bởi lẽ toàn bộ chỉ là ảo ảnh, như những người nổi tiếng trên trời mà em không thể với tới. Trái tim ta như nghẹn lại cùng lời kể của nhà văn, bởi lẽ em bé đang dần kiệt sức và sắp phải gục ngã trước cái lạnh chết người của xứ sở bà chúa Tuyết.
Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm – Bài mẫu 5
An-đéc-xen là nhà kể chuyện cổ tích nổi tiếng của toàn cầu phương Tây. Ngoài việc sưu tầm ông còn sáng tạo. Cô bé bán diêm là một sáng tác mới mẻ, một mẩu truyện cổ tích về thời hiện đại, trổ tài tài năng kể chuyện bậc thầy của ông. Thời hiện đại ở đây chính là thời kì mà tác giả sống, thời kì mà loài người đã biết chế tạo và sử dụng diêm, loài người biết đi lại bằng những cỗ xe song mã, biết tổ chức đón giao thừa với những cây thông Nô-en lộng lẫy. Mẩu truyện Cô bé bán diêm kể về xã hội ấy, kể lại tử vong thương tâm của một cô bé nghèo khổ.
Mở màn mẩu truyện, tác giả giới thiệu một cục diện khắc nghiệt và khác thường. Khắc nghiệt bởi vì “trời đã tối hẳn” mà “tuyết rơi” không ngừng, và “rét dữ dội”. Khác thường là vì: “Đêm nay là đêm giao thừa” nghĩa là một thời điểm nổi bật so với mỗi gia đình và so với mỗi người. Đêm giao thừa ở đâu cũng vậy, đều là thời điểm mà năm cũ với những buồn vui lẫn lộn lùi vào quá khứ và một năm mới với những hi vọng tràn trề đang chờ đợi mọi người được mở ra. Nhưng đêm giao thừa ở phương Tây rất rét, vì lúc này đang giữa mùa đông.
Khắp nơi đầy tuyết phủ, khắp nơi đầy giá lạnh. Ấy vậy mà trong cái giá lạnh đó, trong cái đêm giao thừa đó “một em gái nhỏ đầu trần, chân đi đất, đang dò dẫm trong đêm tối”. Em bé đi đâu vậy? Em phải đi bán diêm vì “nếu không bán được ít bao diêm, hay không ai bố thí cho một đồng xu nào” thì “em không thể nào về nhà”, bởi lẽ khi đó “nhất định là cha em sẽ đánh em”.
Bởi vì từ khi “Thần Chết đã đến cướp bà em đi mất, gia sản tiêu tan, và gia đình em đã phải lìa ngôi nhà xinh xắn có dây trường xuân bao quanh, nơi em đã sống những ngày đầm ấm, để đến chui rúc trong một xó tối tăm, luôn luôn nghe những lời mắng nhiếc chửi rủa”. Hơn nữa “ở nhà cũng rét thế thôi. Cha con em ở trên gác sát mái nhũ vã mặc dầu đã nhét giẻ rách vào các kẽ hở lớn trên vách, gió vẫn thổi ríu vào trong nhà”. Như vậy em bé bán diêm này là một em bé có hoàn cảnh nghèo khổ.
Em bé đáng thương không tên tuổi này giống như kẻ lạc loài, đơn độc trên mặt đất đầy tuyết phủ. “Em cố kiếm một nơi có nhiều người qua lại. Nhưng trời rét quá, khách qua đường đều rảo bước rất nhanh, chẳng ai đoái hoài đến lời chào hàng của em cả”. Vì vậy “suốt ngày em chẳng bán được gì cả và chẳng ai bố thí cho em chút đỉnh. Em bé đáng thương vẫn bụng đói cật rét lang thang trên đường”.
Em đi dưới trời mưa tuyết tới mức: “bông tuyết bám đầy trên mái tóc dài xõa thành từng búp trên lưng em, em cũng không để ý” và những người qua đường cũng không ai để ý đến một đứa trẻ đang bị tuyết phủ dần dần. Chắc cú là em đã đi trong mưa tuyết như vậy rất lâu. Giờ đây em không còn đi được nữa. “Em ngồi nép vào một góc tường giữa hai ngôi nhà, một cái xây lùi vào chút ít”.
Này là một nơi mà ai đi qua cũng phải tránh nhưng cũng buộc mọi người phải Note. Em bé ngồi chỗ đó với trông mong sẽ có người Note đến em, sẽ có người mua diêm cho em. Xung quanh em “cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay”. Mùi ngỗng quay nhắc em “đêm nay là đêm giao thừa”. Mùi ngỗng quay còn nhắc em nhớ tới thời kỳ đầm ấm của gia đình em trước đó.
Còn hiện tại em đang ngập chìm trong tuyết lạnh. “Em thu đôi chân vào người, nhưng mỗi lúc em cảm thấy rét buốt hơn”. “Lúc này đôi bàn tay của em bé bán diêm tội nghiệp “đã cứng đờ ra”. Em bé nghĩ tới việc đánh diêm để “hơ ngón tay”. Và “em đánh liều một que”. Ngọn lửa bùng lên trong đêm giao thừa giá lạnh, mang lại cho em một niềm vui. “Ngọn lửa lúc đầu xanh lam, dần dần biến đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt”.
Em bé hơ bàn tay giá lạnh trên ánh lửa nhỏ nhoi của que diêm mà tưởng tượng rằng em đang ngồi trước một cái lò sưởi nơi đó đang “tỏa ra một hơi nóng dịu dàng”. Nhưng đây chỉ là một điều mong ước chỉ là một điều mộng tưởng. Bởi lẽ “em vừa duỗi chân ra sưởi thì lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất”.
“Em bần thần cả người và chợt nghĩ ra rằng cha em đã giao cho em bán diêm”. Thật đáng tiếc biết bao vì giữa ước mong và hiện thực là một khoảng cách xa vời. Một cái lò sưởi trong đêm đông giá rét một mái nhà ấm cũng mãi mãi là ước mong, là khát vọng của em bé.
Cùng với cái rét, cái đói cũng hiện về. Que diêm thứ hai “cháy và sáng rực lên”. Que diêm cho em thấỵ: “bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay. Nhưng điều kỳ diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, phuốc-sét cắm trên lưng, tiến về phía em bé”.
Thật mê hoặc biết bao. Một bữa ăn vừa ngon vừa sang giành cho em bởi vì em đói lắm rồi, song bữa ăn đó cũng chỉ là ước mong, mộng tưởng. Vì vậy khi que diêm vừa tắt thì “thực tế đã thay cho mộng mị: chẳng có bàn ăn thịnh soạn nào cả, chỉ có phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng xóa, gió bấc vi vu và mấy người khách qua đường quần áo ấm êm vội vã đi đến những nơi hẹn hò, hoàn toàn lãnh đạm với cảnh nghèo khổ của em bé bán diêm”.
Bên cạnh em giờ đây chỉ có đói và rét, và để chống lại em dùng ánh sáng và hơi ấm của que diêm. Trong ánh sáng ngắn ngủi của que diêm, em tưởng tượng ra những thứ mình cần, em tạo ra toàn cầu cho riêng em, bởi lẽ gió rét ngăn cản mọi người đến với em, cái đói cũng ngăn cản những người khác đến với em, trước mặt em cũng như sau lưng em chỉ sót lại “những bức tường dày đặc và lạnh lẽo”. Những hàng rào câm lặng, những hàng rào không biết nói do chính loài người tạo ra để chở che cho người này và để tạo ra sự cách ngăn với người khác.
Em bé sót lại một mình trong cái toàn cầu của em, toàn cầu đó bị tuyết trắng và đêm đen bao phủ. Để xua đi màn đêm và giá rét, “em bé quẹt que diêm thứ ba”. “Em thấy hiện ra một cây thông Nô-en”, “cây này lớn và trang trí lộng lẫy” với “hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi, và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ”… Cây thông Nô-en gợi nhớ một truyền thông tặng quà và quan tâm đến trẻ em của phong tục phương Tây, nhưng có vẻ mẩu truyện về ông già Nô-en cũng chỉ là một thần thoại xa vời còn trong thực tại em bé bán diêm còn đang ngập chìm trong tuyết lạnh.
Em cũng chẳng cần đến những món quà của ông già Tuyết nữa bởi lẽ tuyết và giá rét quanh em đã quá thừa rồi. Que diêm thứ ba cũng tắt. Sự sống của nó cũng quá ngắn ngủi. Nó không xua đi được màn đêm, nhưng màn đêm không thắng nổi nó. Que diêm tắt thì toàn bộ những ngọn nến mà cô bé bán diêm thấy trên cây thông Nô-en cũng “bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời”.
Khi đó em nghĩ tới tử vong, vì bà em, “người hiền hậu độc nhất đối với em” thường nói: “Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hồn bay lên trời với Thượng đế”. Nhưng thật buồn vì bà em đã chết từ lâu. Nhưng cũng không hề gì bởi những người đang sống không ai nghĩ về em, không ai nghĩ đến em thì em đi tìm nguồn an ủi nơi người bà yêu quý. Và thế là em quẹt diêm. “Em thấy rõ ràng là bà em đang cười với em”, “em reo lên” và van xin bà “cho cháu đi với”, “cháu van bà, bà xin Thượng đế chí nhân, cho cháu về với bà. Chắc người không từ chối đâu.
Thật đau đớn xiết bao khi em bé bán diêm bị xã hội bỏ rơi, bỏ quên trong tuyết phủ đã quyết khước từ cuộc sống, quyết tâm tìm về thế giới bên kia. Trong thế giới của những người sống em không có chỗ đứng, không có điều kiện để sống. Bởi lẽ chỉ cần bán được vài bao diêm thôi cũng đủ mang lại cho em cuộc sống, nhưng cả cái thế giới đi xe song mã ấy, cả cái thế giới nấp sau những cánh cửa sổ sáng rực ánh đèn ấy “chẳng ai đoái hoài đến lời chào hàng của em”.
Không giao tiếp được với toàn cầu những người đang sống, em bé bán diêm tìm cách xác lập mối quan hệ giao tiếp với bà em “Em quẹt tất cả những que diêm còn lại trong bao để níu bà em lại”. Kết quả là “Chưa bao giờ em thấy bà em to lớn và đẹp lão như thế này. Bà cụ cầm tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét đau buồn nào đe dọa họ nữa”.
Em bé đã chết một cách thê lương như vậy trong đêm giao thừa. Tử vong mang trong nó sức mạnh tố cáo xã hội. Cho dù người ta nhìn thấy trong xó tường “một em bé gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Bên cạnh “một bao diêm đã đốt hết nhẵn” thì những người đang sống cũng không thể nào hiểu rằng “những cái kỳ diệu mà em bé đã trông thấy, nhất là cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón những niềm vui đầu năm.
Bởi vì những người đó ngoài việc sử dụng cái đói, cái rét để tạo sự ngăn cách của họ với em bé thì họ còn xây dựng những bức tường hoặc hữu hình hoặc vô hình để tạo ra sự ngăn cách mới giữa họ và em bé. Họ không có quyền được nhìn thấy, được tận hưởng những gì do mộng tưởng của em tạo ra. Bởi vì em thuộc về một thế giới khác. Cái chết của em bé còn là sự phê phán lối sống ích kỷ, co cụm, chỉ biết mình của thế giới hiện đại. Đó là sự cảm thông sâu sắc của nhà kể chuyện thiên tài Anđecxen.
Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm – Bài mẫu 6
An-đéc-xen một nhà văn có lẽ không còn lạ lẫm gì đối với nhiều người. Đây là một nhà văn của Đan Mạch với những tác phẩm truyện ngắn, truyện thiếu nhi gắn liền với tuổi thơ cắp sách tới trường của mỗi người. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo khó. Chính từ sự nghèo khó với những nỗ lực vươn lên. Cùng với năng khiếu viết văn ông đã cho ra đời những tác phẩm truyện vô cùng đặc sắc.
Trong đó truyện ngắn “Cô bé bán diêm” có thể nói là một tác phẩm để đời của ông. Đây là một tác phẩm nói về số phận xấu số của một cô bé nghèo khổ trong xã hội tư bản đương thời. Tác phẩm cũng toát lên những giá trị nhân văn vô cùng sâu sắc.
Một tác phẩm với bố cục rõ ràng gồm ba phần chính. Phần thứ nhất nói về hoàn cảnh khó khăn, khốn cùng của cô bé bán diêm. Phần thứ hai kể về những lần quẹt diêm với những hình ảnh hiện lên trong trí tưởng tượng của cô bé. Phần thứ ba nói về tử vong đầy thương cảm của cô bé bán diêm trong đêm đông lạnh giá.
Trong cái đêm giao thừa, đáng lý ra những đứa trẻ phải được sum họp cùng gia đình. Cùng cha mẹ để đón chào một cái năm mới với bao lời chúc tốt đẹp, với những giây phút tràn trề hạnh phúc. Nhưng không trong cái tiết trời rét mướt đó một mình em “cô bé bán diêm” không cha, không mẹ, không người thân vẫn chân trần, trong chiếc váy mỏng rách bung, bụng đói cồn cào vẫn lững thững lần mò trong bóng tối.
Xung quanh là không khí tràn ngập ấm áp của sổ mọi nhà đều sáng rực đèn và mùi ngỗng quay thơm phức. Những hình ảnh gợi nhớ lại những ngày tháng năm xưa khi được đón giao thừa bên bà nội trong căn nhà xinh xắn có cây thường xuân bao quanh. Ở đây tác giả đã sử dụng biện pháp đối lập tương phản để làm nổi trội tình cảnh hết sức tội nghiệp của cô bé.
Em đang rét và có vẻ càng rét hơn khi thấy mọi nhà sáng rực đèn. Chẳng có điều gì tốt đẹp đang chờ cô bé ngoài cái xó xỉnh tối tăm, rét mướt. Những lời mắng chửi của người cha thô lỗ cục mịch. Những lần đón giao thừa năm xưa vui vẻ cùng bà và mẹ đã đi vào quá khứ. Tai họa đã làm cho gia đình cô tan nát.
Giữa đêm giao thừa rét buốt cô bé lủi thủi một mình với chiếc giỏ đựng diêm. Lúc em ngồi nép vào chiếc bờ tường kia cũng là lúc những khao khát cháy bỏng bùng lên trong trái tim nhỏ nhắn ấy. Đôi bàn tay em cứng đơ vì lạnh em ước ao được sưởi ấm bằng một que diêm và cuối cùng em cũng đánh liều và quẹt một que diêm. Diêm bén lửa thật là nhạy ngọn lửa lúc đầu xanh, dần dần biến mất đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt. Thật là thoải mái đôi bàn tay em hơ trên ngọn lửa, bên tay cầm diêm ngón cái nóng bỏng lên.
Em vừa duỗi chân ra thì lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất, em ngồi đó nhìn que diêm đã tàn hẳn. Em lần thần cả người và nghĩ rằng cha em đã giao cho em đi bán diêm đêm nay về nhà thế nào cũng bị ăn mắng. Em quẹt que diêm thứ hai, diêm cháy và sáng rực lên, hàng rào như biến thành một hàng rào vải màu.
Em nhìn thấu vào tận trong nhà bàn ăn đã dọn, vải trải bàn trắng tinh. Trên bàn toàn đĩa bằng sứ quý hiếm và có cả một con ngỗng quay nhưng điều kì quái là con ngỗng nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, tiến về phía em. Đáng thương thay những hình ảnh đó chỉ hiện lên trong chốc lát khi lửa tắt xung quanh em là một màu đen tối mịt. Chỉ sót lại những màn sương đêm lạnh buốt, cái đói rã rời và đáng sợ hơn hết nỗi cô quạnh không ai chia sẻ.
Không bán được bao diêm nào, trời vẫn rét mướt. Nhưng sự lạc quan vẫn trong em, và những tưởng tượng phong phú trong tâm trí của một đứa trẻ thơ trong em đã trỗi dậy. Em ước ao có một cây thông Nô-en. Và em đã quẹt que diêm thứ ba và một cây thông Nô-en trang hoàng lộng lẫy với hàng ngàn ngọn nến sáng rực đã xuất hiện trong trí óc em.
Và em quẹt thêm một que diêm nữa và thấy được một ánh sáng xanh ấm áp tỏa ra xung quanh, bà của em đã xuất hiện mỉm cười với em và em reo lên “cho cháu đi với”. Đến khi que diêm tắt mọi thứ lại tối tăm rét mướt trở lại.
Kết thúc mẩu truyện là sự đối lập giữa cảnh đời vui vẻ và tử vong bi thảm của cô bé bán diêm. Sáng ngày tiếp theo tuyết đã phủ kín mặt đất. Nhưng mặt trời lên, trong sáng, chói chang trên khung trời xanh mọi người vẫn vui vẻ ra khỏi nhà. Trong buổi sáng rét mướt ấy ở một xó tường người ta thấy một em bé gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười em đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa.
Trong cái xã hội tư bản nghiệt ngã đó, đâu có chỗ cho tình thương giữa những loài người lạ lẫm nhau. Xã hội hình như là một sự thờ ơ với những số phận bi thương. Cô bé bán diêm là một trong những loài người khốn cùng của xã hội đó. Chỉ khi tử vong của em xảy ra, người ta mới để ý tới một cô bé chân trần bán diêm trong đêm đã ra đi trong cái đêm tối rét mướt với bao niềm đau xót. Và người đọc cũng không thể nào cầm được nước mắt.
Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm – Bài mẫu 7
Tuổi trẻ tất cả chúng ta, ai đã từng cắp sách đến trường hẳn đều nghe đến Н.₵. An-đéc-xen, người viết truyện kể cho trẻ em nổi tiếng toàn cầu. Ông là nhà văn Đan Mạch, sống và viết trong thế kỉ XIX (1805 – 1875). Độc giả khắp năm châu đã rất thân thuộc với các tác phẩm của ông như Nàng tiên cá, Bọn chim thiên nga, Bộ quần áo mới của hoàng đế, Cô bé bán diêm,…
Truyện của An-đéc-xen nhẹ nhõm, trong trẻo, toát lèn lòng thương yêu loài người – nhất là những người nghèo khổ và niềm tin, khát vọng những điều tốt đẹp nhất trên thế gian này sẽ thuộc về loài người. Truyện Cô bé bán diêm mang người đọc tất cả chúng ta vào khung cảnh một đêm giao thừa giá rét ở quốc gia Đan Mạch, Bắc Âu cách đây hơn một trăm năm.
Em bé gái ấy nhà nghèo, mồ côi mẹ, bà vừa mất, bố sai đi bán diêm kiếm từng đồng xu nhỏ độ thân. Suốt cả ngày cuối năm, cho đến đêm giao thừa, em chẳng bán được bao diêm nào. Vừa đói, vừa rét, em bé thu mình lại trong xó tường của một tòa nhà lớn để… ước ao, mơ tưởng.
Những khát vọng tuổi thơ ấy cứ sáng lên, sáng lên đẹp đẽ, kì ảo làm sao và thống khổ làm sao!. Trổ tài điều này, nhà văn đã xây dựng những hình ảnh đối lập, thực tiễn và mộng tưởng, mộng tưởng và thực tiễn cứ đan cài vào nhau, tranh chấp với nhau, lôi cuốn người đọc…
Phần mở màn tác phẩm kể rõ hoàn cảnh éo le của cô bé bán diêm với những cụ thể đối lập sắc nét : “Trời đông giá rét, tuyết rơi”, nhưng “cô bé đầu trần, chân đất” bước đi. Ngoài đường lạnh buốt và tối đen, nhưng “cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn”. Cô bé “bụng đói”, cả ngày chưa ăn uống gì, mà “trong phố sực nức mùi ngỗng quay”…
Những cụ thể tương phản đó khiến người đọc thấy tình cảnh em bé thật tội nghiệp, đáng thương. Cái rét, cái đói, công việc kiếm sống giày vò, đày đọa em. Em đã rét, đã khổ, có vẻ càng rét khổ hơn khi thấy mọi nhà rực ánh đèn. Em đã đói, có vẻ càng đói hơn khi ngửi thấy mùi ngỗng quay sực nức… Đi vào đoạn trích trong sách giáo khoa, từ câu mở màn “Cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn…” đến câu “… đôi bàn tay em đã cứng đờ ra”, người đọc thấy ngay tình cảnh khốn khó của cô bé.
Năm xưa, “khi bà nội hiền hậu của em còn sống”, “em được đón giao thừa trong căn nhà xinh xắn… có dây trường xuân bao quanh, em đã sống những ngày đầm ấm”. Giờ đây, giữa đêm giao thừa này, “em ngồi nép trong một góc tường, thu đôi chân vào người, mỗi lúc càng thấy rét hơn”… Đây cũng là hai hình ảnh tương phản, đối lập giữa hiện tại và quá khứ.
Trước kia, cô bé được sống hạnh phúc bao nhiêu thì bây-giờ đơn độc, côi cút từng ấy. Cả nhà, chỉ có bà là người thương yêu em nhất, là chỗ tựa trí não vững chắc nhất giờ không còn tiếp. Trước kia, đêm giao thừa, em được vui chơi quây quần trong nhà, giờ em phải đơn độc ngoài phố kiếm sống. Mường tượng hình ảnh cô bé bán diêm côi cút, đói khổ giữa đêm giao thừa, ta chợt thấy nhớ mấy câu thơ trong bài Mồ côi của Tố Hữu:
“Con chim non rũ cánh
Đi tìm tổ bơ vơ
Quanh nẻo rừng hiu quạnh
Lướt mướt dưới dòng mưa.”
Hoàn cảnh em bé Đan Mạch trong đêm giao thừa vẫn phải đi kiếm sống tuy có khác hoàn cảnh em bé Việt Nam mồ côi tìm mẹ, nhưng đọc văn, nhớ lại thơ, hình dung thân phận hai kiếp người thơ dại ấy, ai mà chẳng não lòng, rớm lệ!
Phần thứ hai của mẩu truyện, từ câu “Chà ! Giá quẹt một que diêm…” đến “Họ đã về chầu Thượng đế”, kể về những lần cô bé quẹt diêm đốt lửa, đốt sáng lên những ước mong, khát vọng. Ở phần này, những hình ảnh đối lập, tương phản càng lúc càng gay gắt, thực tiễn và mộng tưởng, cuộc sống và ảo ảnh cứ sóng đôi hiển hiện, đan cài, tranh chấp nhau, nâng dần lên, cất cánh cao lên…
Cô bé quẹt que diêm thứ nhất: diêm sáng rực như than hồng. Em tưởng chừng như “đang ngồi trước một lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng… Lửa cháy nom đến vui mắt và tỏa ra hơi nóng dịu dàng”. Nhưng, em vừa duỗi chân ra thì “lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất”. Niềm vui của em cũng vụt tắt.
Em lần thần nghĩ đến nhiệm vụ bán diêm và lời cha quở mắng. Cô bé quẹt que diêm thứ hai: “Bức tường như biến thành một tấm rèm bằng vải màu. Bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa bằng sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay… Ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, phuốc-sét cắm trên lưng, tiến về phía em bé”. Nhưng diêm vụt tắt.
Trước mặt em chỉ đang là những hàng rào dày đặc và rét mướt. Phố xá vắng teo. Mấy người khách qua đường vội vàng hoàn toàn lãnh đạm với em. Em bé cố tìm lại ngọn lửa để tiếp tục sưởi ấm, xua đi bóng tối và giá lạnh. Em quẹt que diêm thứ ba: Một cây thông Nô-en hiện lên, “Cây này lớn và trang trí lộng lẫy hơn cây thông mà em đã được thấy năm ngoái qua cửa kính một nhà buôn giàu có. Hàng ngàn ngọn nến sáng rực…”. Nhưng diêm lại vụt tắt. Toàn bộ các ngọn nến cất cánh lên, cất cánh lên mãi, rồi biến thành những người nổi tiếng trên trời.
Từ lần quẹt diêm thứ nhất, đến lần thứ hai, thực tiễn đã xóa nhòa đi mộng tưởng của em bé. Nhưng đến ngọn nến thứ ba thì hình như mộng tướng đã vươn dậy, cố vượt lên trên thực tiễn. Vì vậy, sau thời điểm diêm tắt, em bé thấy toàn bộ các ngọn nến cất cánh lên, biến thành những người nổi tiếng trên trời. Hình như em bé đang ngẩng đầu nhìn sao trời, rồi nhớ tới người bà thân yêu.
Em liền quẹt luôn que diêm thứ tư thì… bà em hiện lên. Em sung sướng reo lên, trò chuyện với bà, xin bà cho đi theo…”cho cháu về với bà”. Có thể đến phút này, cô bé tội nghiệp ấy đã sức tàn, lực kiệt dần” gục xuống cạnh hàng rào giá buốt. Em lịm dần, lịm dần và trôi vào trong một giấc mơ đẹp. Diêm vụt tắt. Ánh sáng, hơi ấm vụt tắt, “ảo ảnh” biến mất. Nhưng em bé thức tỉnh, như ngọn lửa trước khi tắt hẳn đã sáng lóe lên. Thế là cô bé quên hết mọi thực tiễn phũ phàng, quên nhiệm vụ bán diêm, quên sự quở mắng của cha.
Những que diêm thứ năm, thứ sáu, thứ bảy… và toàn bộ những que diêm trong bao được đốt sáng lên, nối ánh sáng, chiếu sáng như ban ngày. Em bé thực sự được sống trong một giấc mơ kì diệu. Em thấy “bà em to lớn và đẹp lão… Bà cụ cầm lấy tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét, đau buồn nào đe dọa họ nữa…”.
Rõ ràng, mỗi lần quẹt diêm, đốt lửa là một lần cô bé đói khổ kia ước mong, khát vọng. Những ước mong của em thật giản dị và ngây thơ, nối liền với tuổi thơ trong sáng và nhân hậu của em. Em khao khát có cuộc sống vật chất đầy đủ, được hưởng những thú vui trí não, được sống trong hạnh phúc gia đình ấm êm, được bà – người thân yêu nhất – chăm sóc, nâng niu. Đó cũng là những ước mong khát vọng chính đáng, muôn đời của các em bé nói riêng và của loài người nói chung.
Trổ tài khát vọng, ước mong của một em bé rõ ràng và cụ thể trong mẩu truyện này, nhà văn Đan Mạch ấy hẳn đã cháy lòng muốn các em bé và mọi người, trước hết là những kiếp người đói khổ, vượt qua được những thực tiễn phũ phàng để vươn tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có miếng ăn no đủ, có áo ấm, được yêu thương, chăm sóc. Mỗi lần em bé quẹt diêm đốt lửa hình như cũng là một lần ngọn lửa tin yêu, khát vọng trong trái tim nhà văn cháy lên, sáng lên, khuyến khích loài người, giục giã loài người…
Nhưng thực tiễn phũ phàng – thực tiễn cuộc sống nước Đan Mạch những năm giữa thế kỉ XIX, khi nhà văn viết tác phẩm này và thực tiễn ngày nay của không ít quốc gia đói nghèo trên trái đất, đã xoá đi mộng tưởng của em bé bán diêm và biết bao người nghèo khổ khác nữa.
Vì vậy, khi em bé được tái ngộ bà cũng là lúc em giã từ cõi đời. Đoạn kết thúc tác phẩm, từ câu “Sáng hôm sau…” đến hết, kể về tử vong của cô bé bán diêm. Từ những dòng văn cất cánh lượn, chói sáng đầy chất lãng mạn ở cuối đoạn trên, đến đây, ngôn từ như trĩu xuống, nhẹ nhõm, thấm thía một âm điệu buồn thương. Có buồn, có thương nhưng không bi luỵ mà vẫn trong sáng và nồng ấm, đúng như ánh sáng và hơi ấm của một ngày đầu năm. “Em đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa”.
Vâng, cho đến những dòng cuối cùng của tác phẩm, nhà văn vẫn dùng những hình ảnh đối lập, tương phản rất rực rỡ. Giữa ngày đầu năm hứa hẹn những mầm sống mới mọc lên, có một em bé chết. Người chết trong băng giá từ đêm khuya mà đến rạng sáng đôi má vẫn hồng, đôi môi đang “mỉm cười”.
Mọi người bảo nhau: “Chắc nó muốn sưởi cho ấm”, một công việc bình thường, nhưng thực ra em bé đã sống những phút kì diệu, giữa cảnh “huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón lấy những niềm vui đầu năm”… Mô tả “một cảnh tượng thương tâm” về tử vong của cô bé bán diêm, ngòi bút của An-đéc-xen vừa thực, vừa mộng. Sự thực là em bé khốn khổ kia đã chết.
Nhưng đây là một tử vong đẹp, hình hài thể xác chết mà linh hồn, khát vọng của em bé vẫn sống, sống trên đôi má hồng, đôi môi đang mỉm cười, sống trong cảnh tượng huy hoàng cùng bà cất cánh lên đón năm mới. Nói về tử vong, người ta hay nghĩ tới bi kịch. Nhưng viết về tử vong của cô bé bán diêm như vậy, tác phẩm của An-đéc-xen là một bi kịch lạc quan.
Rõ ràng, đến những dòng cuối của áng văn, tình thương, niềm tin loài người và khát vọng những điều tốt đẹp nhất cho loài người trong cõi lòng nhà văn Đan Mạch – ông già kể chuyện cổ tích nổi tiếng ấy, thấm đẫm chất nhân đạo, nhân văn.
Có thể nói, An-đéc-xen “biết khám phá những khía cạnh thần kì, bất ngờ ngay trong những sự việc đơn giản hằng ngày, đưa chúng vào thế giới thần thoại đầy chất thơ, nhưng vẫn giải quyết chúng phù hợp với những quan niệm nhân sinh và xã hội tiến bộ của mình”.
Truyện Cô bé bán diêm có văn nghệ kể chuyện mê hoặc, hòa lẫn giữa hiện thực và mộng tưởng, với các cụ thể tương phản, tình tiết hợp lí, truyền cho tất cả chúng ta lòng thương cảm so với một em bé xấu số, lay động trong ta tình thương và niềm tin ở loài người, nhất là những loài người phải đương đầu với những khó khăn thử thách ở đời vẫn không nguôi muốn, khát vọng những điều tốt đẹp nhất.
Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm – Bài mẫu 8
Truyện cô bé bán diêm của An-đéc-xen đã gợi cho em một nỗi thương cả đến xót xa trước hoàn cảnh nghèo khổ, khốn cùng và tử vong vô cùng thương tâm của cô bé. Cô bé đã hết sạch về vật chất và bị tổn thương nặng nề về trí não. Trong cuộc sống này còn tồn tại gì đớn đau hơn khi là một cô bé bị bỏ rơi, cô quạnh, lẻ loi giữa trời. Cô bé bán diêm là truyện rực rỡ giành cho thiếu nhi, gây xúc động người đọc.
Thời điểm xảy ra mẩu truyện khá đặc biệt: Đêm giao thừa, mọi người sum họp dưới tổ ấm gia đình để cùng nhau tiễn mang năm cũ và đón chào năm mới trong không khí thiêng liêng, tràn trề hạnh phúc. Riêng cô bé mồ côi mẹ, đầu trần, chân đất, váy áo phong phanh, bụng đói meo đang lò mò trong bóng tối. Suốt ngày ngày hôm nay, cô bé lang thang khắp nơi mà không bán được bao diêm nào.
Đêm Noel, quang cảnh xung quanh đẹp đẽ, ấm áp lạ thường: cửa sổ mọi nhà đều sáng rực đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay. Những hình ảnh ấy gợi cô bé nhớ lại năm xưa được đón giao thừa bên bà nội hiền hậu trong căn nhà xinh xắn có đầy dây thường xuân bao quanh.
Tác giả đã sử dụng những hình ảnh tương phản làm nổi trội tình cảnh hết sức tội nghiệp của cô bé. Em đang rét có vẻ càng rét hơn khi thấy mọi nhà rực sáng ánh đèn. Em đang đói, có vẻ càng đói hơn khi ngửi thấy mùi ngỗng quay sực nức. Chẳng có điều gì tốt đẹp chờ đợi cô bé ngoài cái xó xỉnh tối tăm, rét mướt đầy tiếng mắng nhiếc, chửi rủa của người cha thô lỗ, cục mịch.
Những lần đón giao thừa năm xưa vui vẻ cùng bà và cha mẹ giờ đây đã lùi vào quá khứ. Tai họa đã làm cho gia đình cô bé tan nát. Mẹ mất, bà nội cũng từ trần, em không còn được ai yêu thương, ấp ủ. Em đi lang thang trong đêm giao thừa… giữa trời đông gió rét… rét dữ dội .. Bông tuyết bám đầy trên mái tóc dài xõa thành từng búp trên lưng em, gia đình nghèo, mẹ mất, người cha nghèo khó và tàn nhẫn.
Em phải bán diêm để kiếm sống, nếu không bán được bao diêm hay không ai bố thí cho một đồng xu nào, đêm về nhất định là cha em sẽ đánh em. Vì vậy cô bé ngồi nép trong một góc tường giữa hai ngôi nhà… cho đỡ lạnh. Không bán được diêm, sợ cha đánh nên em chẳng dám về nhà. Vả lại ở nhà cũng đói, cũng rét như ở đây thôi: Cha con em ở trên gác sát mái nhà và mặc dầu đã nhét giẻ rách vào các khe hở lớn trên vách, gió vẫn thổi rít vào trong nhà.
Giữa đêm giao thừa giá buốt, cô bé lủi thủi một mình với chiếc giỏ đựng diêm. Lúc em nép vào một góc tường để tránh cơn gió bấc rét thấu xương cũng là lúc những khao khát cháy bỏng bùng lên trong trái tim nhỏ nhắn. Đôi bàn tay em cứng đờ vì lạnh, em ước ao được sưởi ấm bằng một que diêm: Chà! Giá quẹt một que diêm mà sưởi cho đỡ rét một tí nhỉ? Giá em có thể rút một que diêm ra quẹt vào tường mà hơ ngón tay nhỉ?
Cuối cùng em đánh liều quẹt một que. Diêm bén lửa thật là nhạy. Ngọn lửa lúc đầu xanh lam, dần dần biến đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt. Những hình ảnh tả cảnh đói rét lang thang của cô bé tương phản với cảnh no đủ, ấm cúng của mọi người, cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay. Trước hoàn cảnh nghèo khổ, khốn cùng của cô bé, lòng tôi như đau thắt lại. Có vẻ nào ta lại không cảm thấy xót xa khi nghĩ về hình ảnh cô bé một mình đơn độc, giữa một không gian mênh mông trong đêm tối, rét cắt da, cắt thịt.
Trong lúc mọi người được sum vầy vui vẻ trong các căn nhà ấm áp, bên lò sưởi kia, thi em bé phải một mình đi bán những bao diêm, em chẳng được ai quan tâm để ý. Hoàn cảnh đó của cô bé càng làm đớn đau tim ta hơn, vì nó lại xảy ra trong đêm giao thừa, khi toàn bộ niềm vui và sự đầy đủ ùa vào những căn nhà ấm cúng.
Các mộng tưởng của em bé qua các lần quẹt diêm (mơ lò sưởi, bàn ăn, cây thông Nô-en, người bà, hai bà cháu cất cánh đi) lần lượt diễn ra thật hợp lí, phù hợp với những điều khao khát của em: được sưởi ấm, được ăn ngon, được đi chơi, được thương yêu, chấm hết mọi lo ngại, buồn khổ.
Quẹt que diêm thứ nhất: Em tưởng chừng như đang ngồi trước lò sưởi bằng sắt… tỏa ra hơi nóng dịu dàng. Ngọn lửa chắp cánh cho trí tưởng tượng của em cất cánh bổng: Em hơ đôi tay trên que diêm sáng rực như than hồng. Chà! Ánh sáng kì dị làm sao! Em tưởng chừng như đang ngồi trước một lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng.
Trong lò, lửa cháy nom đến vui mắt và tỏa ra hơi nóng dịu dàng. Thật là thoải mái! Đôi bàn tay em hơ trên ngọn lửa; bên tay cầm diêm, ngón cái nóng bỏng lên. Chà! Khi tuyết phủ kín mặt đất, gió bấc thổi vun vút mà được ngồi hàng tiếng đồng hồ như vậy, trong đêm đông rét buốt, trước một lò sưởi, thì khoái biết bao!.
Thực tiễn và mộng tưởng xen kẽ với nhau. Trong ánh lửa bập bùng của que diêm, những hình ảnh của cuộc sống đầy đủ xuất hiện rõ ràng trong đầu óc cô bé. Mải mê tưởng tượng nên que diêm cháy gần bén ngón tay mà em không thấy nóng. Em ước ao lúc này mà được ngồi trước lò sưởi để hơ đôi bàn tay đã cứng đơ vì lạnh thì sung sướng biết bao! Que diêm cháy hết, cô bé lại trơ về với hiện thực phũ phàng: Em vừa duỗi chân ra sưởi thì lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất.
Em ngồi đó, tay cầm que diêm đã tàn hẳn. Em lần thần cả người và chợt nghĩ ra rằng cha em đã giao cho em đi bán diêm. Đêm nay về nhà thế nào cũng bị cha mắng. Quẹt que thứ hai: Bàn ăn đã dọn… và có cả một con ngỗng quay. Em quẹt que diêm thứ hai, diêm cháy và sáng rực lên. Hàng rào như biến thành một tấm rèm bằng vải màu. Em nhìn thấu vào tận trong nhà.
Bàn ăn đã dọn, vải trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa bằng sứ quý hiếm, và có cả một con ngỗng quay. Nhưng điều ki diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, phuốc-sét, cắm trên lưng, tiến về phía em bé. Rồi… que diêm vụt tắt; trước mặt em chỉ đang là những hàng rào dày đặc và rét mướt. Đáng thương thay!
Những ảo ảnh đó chỉ hiện lên trong chốc lát. Lửa tắt, vây quanh em vẫn là bóng tối mịt mùng, là cái lạnh thấu xương, cái đói rã rời và đáng sợ hơn hết là nỗi cô quạnh không ai chia sẻ: Thực tiễn đã thay thế cho mộng tưởng; chẳng có bàn ăn thịnh soạn nào cả, mà chỉ có phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng xóa, gió bấc vi vu và mấy người khách qua đường quần áo ấm áp vội vàng đi đến những nơi hẹn hò, hoàn toàn lãnh đạm với cảnh nghèo khổ của cô bé bán diêm.
Quẹt que diêm thứ ba: Em thấy xuất hiện một cây thông Nô-en… hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi… Trí tưởng tượng phong phú đã mang lại cho em những ước ao mới: em muốn đêm Giáng Sinh phải có cây thông Nô-en. Nên quyết định quẹt que diêm thứ ba: Em quẹt que diêm thứ ba. Bỗng em thấy xuất hiện một cây thông Nô-en.
Cây này lớn và trang trí lộng lẫy hơn cây mà em được thấy năm ngoái qua cửa kính một nhà buôn sung túc. Hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ như những bức bày trong các tủ hàng, xuất hiện trước mắt em bé. Nhưng rồi diêm tắt. Toàn bộ các ngọn nến cất cánh lên, cất cánh lên mãi rồi biến thành những người nổi tiếng trên trời.
Xung quanh em vẫn là hai hàng rào và đêm tối rồi em nghĩ tới bà em vì bà em, người hiền hậu độc nhất so với em, đã chết từ lâu, trước đó thường nói rằng: “Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hồn bay lên trời với Thượng đế”. Quẹt que diêm thứ tư: Em nhìn thấy rõ ràng là bà em đang mỉm cười với em. Em quẹt que diêm nữa vào tường, một ánh sáng xanh tỏa ra xung quanh và em bé nhìn thấy rõ ràng bà em đang mỉm cười với em.
Bà ơi! Em bé reo lên, cho cháu đi với! Cháu biết rằng diêm tắt thì bà cũng biến đi mất nhự lò sưởi, ngỗng quay và cây Nô-en ban nãy, nhưng xin bà đừng bỏ cháu ở nơi này. Trước kia khi bà chưa về với Thượng đế chí nhân, bà cháu ta đã từng sung sướng biết bao! Dạo ấy bà đã từng nhủ cháu rằng nếu cháu ngoan ngoãn, cháu sẽ được tái ngộ bà, bà ơi!
Cháu van bà, bà xin Thượng đế chí nhân cho cháu về với bà. Chắc Người không từ chối đâu. Quẹt toàn bộ nhũng que diêm sót lại: Em thấy hai bà cháu cất cánh vụt lên cao, cao mãi… Chính lúc đó cô bé đầu trần, chân đi đất, run rẩy vì lạnh và đói. Sự đầm ấm của các gia đình xuất hiện qua khung cửa sổ kia càng làm tất cả chúng ta xót xa cho cô bé khốn khổ tội nghiệp, không có lấy một tí hạnh phúc nào trong đêm giao thừa.
Nhất là hình ảnh cô bé chỉ biết ngồi thu chân vào hốc tường mà tưởng niệm, mà ước mong. Một que diêm bật sáng lên là cuộc sống quá khứ lại hiện về. Này là những ngày sống vui vẻ, tràn ngập hạnh phúc bên bà nội hiền từ, nhàn hậu như một bà tiên, trong ngôi nhà nhỏ xinh xắn có dây thường xuân bao quanh. Nhung que diêm tắt là một thực tại vô cùng nghiệt ngã, phũ phàng lại ùa tới.
Em đang phải sống trong trăm đường khốn cùng, khổ sở. Cả ngày phải đi bán diêm, nêu không bán được, đến tối về lại bị bố đánh đập. Và trong đêm giao thừa rét căm căm này em không dám về vì chẳng bán được một que diêm nào. Các mộng tưởng của em bé diễn ra lần lượt theo thứ tự như trên rất hợp lí.
Vì trời rất rét nên trước hết em mơ tưởng đến lò sưởi; tiếp đó vì đang đói em mơ tưởng đến bàn ăn đầy thức ăn ngon mà sau các hàng rào kia, mọi nhà đang đón giao thừa; vì là đêm giao thừa nên ngay sau đó “cây thông Nô-en” xuất hiện; đến đây tất nhiên gợi cho em nhớ đến đã có một thời em cũng được đón giao thừa như vậy, khi bà em còn sống và hình ảnh bà em xuất hiện.
Kết thúc mẩu truyện là sự đối lập giữa cảnh đời vui vẻ và tử vong bi thảm của em bé bán diêm: Sáng ngày tiếp theo, tuyết vẫn phủ kín mặt đất, nhưng mặt trời lên, trong sáng, chói chang trên khung trời xanh nhợt. Mọi người vui vẻ ra khỏi nhà. Trong buổi sáng rét mướt ấy, ở một xó tường, người ta thấy một em bé gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Em đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa.
Ngày mồng một đầu năm hiện lên trên thi thể em bé ngồi giữa những bao diêm, trong đó có một bao đã đốt hết nhẵn. Mọi người bảo nhau: “Chắc nó muốn sưởi cho ấm!”, nhưng chẳng ai biết những cái kì diệu em đã trông thấy, nhất là cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu cất cánh lên để đón những niềm vui đầu năm. Ngay cả những ước mong nhỏ nhắn của em mà cũng chỉ thấy được qua mộng ảo.
Mỗi một que diêm sáng lên sáng lên ước mong ở đây không phải là ánh sáng của một cây đèn hay của một nguồn ánh sáng gì to lớn. Nó chỉ là một ánh lửa diêm nhỏ nhắn, đơn giản tắt lụi trong đêm băng tuyết. Bởi vậy mỗi que diêm bật lên sao có thể sưởi ấm được tấm thân và tâm hồn đã đông lạnh của cô bé. Nó chẳng qua chỉ là chỗ bấu víu cực kì mong manh của cô bé mà thôi.
Em bé quẹt cả số diêm sót lại chính là để cố bám lấy những ước mong đó. Trong lúc tất cả chúng ta có đầy đủ những thứ đó thì cô bé bán diêm của An-đéc-xen lại thiếu toàn bộ. Ngay cả giấc mơ đẹp nhất em cũng chỉ được thấy khi đã hấp hối. Những mộng tưởng của em bé qua các lần quẹt diêm về lò sưởi, bàn ăn, cây thông là sát với thực tiễn, vì này là những nhu cầu thiết thực cho cuộc sống của em.
Còn mộng tưởng được tái ngộ bà, và em thấy bà em to lớn và đẹp lão, rồi hai bà cháu cất cánh vụt lên cao… thuần túy chỉ là nỗi khát khao tha thiết của em bé vốn thiếu hẳn tình thương yêu chăm sóc của người thân. Trong phần kết của truyện, tử vong của cô bé nghèo khổ, đói rét làm ta xót xa. Em bé thật đáng thương! Chỉ có mẹ và bà thương yêu em, nhưng họ đều đã từ trần.
Cha em có vẻ vì quá nghèo khổ nên cũng đối xử với em tàn nhẫn. Người qua đường nhìn thấy thi thể em vào buổi sáng đầu năm với thái độ dừng dưng, vô cảm. Trong xã hội tư bản thiếu sự thấu hiểu và tình thương yêu giữa người với người, nhà văn An-đéc-xen đã viết truyện này với niềm xót thương vô hạn so với em bé bán diêm xấu số nói riêng và cả tầng lớp người nghèo khổ nói chung.
Nhưng mặt khác, tử vong đó thật thanh thản qua hình ảnh đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười và em đang di chuyển vào giấc mơ huy hoàng lúc hai bà cháu cất cánh lên để đón lấy những niềm vui đầu năm. Tất cả chúng ta càng trân trọng những ước mong đó của em bao nhiêu lại càng đớn đau từng ấy trước tử vong vô cùng thương tâm của em. Truyện Cô bé bán diêm kể về kiếp đời của một em gái nhỏ xấu số, chết trong đói rét mà lòng vẫn ôm áp những mộng tưởng đẹp.
Truyện mang giá trị nhân văn cao quý, gợi nỗi thương cả sâu sắc cho người đọc. Cần xây dựng cuộc sống ấm no cho toàn bộ mọi người, nhất là cho những em bé đáng thương trên đời. Để làm dịu bớt nỗi đau đang nhức nhối trong tim và cũng để an ủi những linh hồn tội nghiệp, nhà văn đã mô tả em bé chết nhưng đôi má vẫn hồng và đôi môi đang mỉm cười. Tuy vậy, nội dung mẩu truyện cô bé bán diêm và kết thúc thương tâm của nó vẫn khiến người đọc rơi nước mắt.
Dẫu tác giả có tả em bé chết nhưng đôi má vẫn ửng hồng, đôi môi đang mỉm cười, đồng thời hình dung ra cảnh huy hoàng hai bà cháu cất cánh lên trời để đón lấy những niềm vui đầu năm thì nỗi đau trong ta vẫn không thuyên giảm, mà thậm chí cứ nhắm mắt lại thì hình ảnh ấy lại càng day dứt ta hơn.
Hình ảnh cô bé bán diêm mãi mãi để lại trong lòng bao người đọc trên khắp thế gian này niềm đau thương vô hạn, nhự luôn nhắc nhở tất cả chúng ta hãy yêu thương trợ giúp lẫn nhau. Và đó cũng chính là tấm lòng nhân hậu tràn ngập của An-đéc-xen.
Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm – Bài mẫu 9
Xưa nay vẫn có những cảnh đời tuổi thơ xấu số, bất kì nơi nào trên trái đất. Những cảnh đời mồ côi, hoặc mất cha hay mất mẹ không chỉ có trong truyện cổ mà còn được mang vào những trang văn hiện đại. Ngay trong chương trình Ngữ văn lớp 8, tất cả chúng ta biết nỗi xấu số của cậu bé Hồng trong Những ngày thơ ấu (đoạn trích Trong lòng mẹ) thì nay tất cả chúng ta lại gặp một cảnh đời xấu số khác ở xứ sở Đan Mạch trong truyện Cô bé bán diêm của An-đéc-xen để thông cảm với những ước mong đẹp, và ngậm ngùi trước tử vong vì giá rét trong đêm giao thừa của cô.
Truyện kể về đêm giao thừa, người rét mướt, một cô bé bán diêm nhà nghèo, mồ côi mẹ, đầu trần, chân đi đất, bụng đói, đang lò mò trong bóng tối. Suốt cả ngày em không bán được bao diêm nào. Nhà văn đã mô tả hình ảnh của em lúc đêm về càng lúc càng rét buốt, “em ngồi nép trong một góc tường… thu đôi chân vào người…”. Mô tả ngắn thôi, chỉ 12 từ, nhưng người đọc thấy rõ trong trí tưởng tượng của mình dáng cô bé ngồi co ro, cố thu mình lại càng gọn càng tốt để ngăn bớt cơn lạnh.
Cô bé đang ở ngoài đường, sát tường hai ngôi nhà đóng kín cửa, giữa cái lạnh cắt đa của đêm giao thừa. Mắt cô nhìn lên “Cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn” mũi cô ngửi “trong phố sực nức mùi ngỗng quay”. Hình ảnh ấm cúng ấy, mùi vị thơm tho ấy, gợi lại trong ký ức cô bé hoàn cảnh sống ngày xưa của mình “Em tưởng nhớ lại năm xưa, khi bà nội hiền hậu của em còn sống, em cũng được đón giao thừa ở nhà.
Nhưng Thần Chết đã đến cướp bà em đi mất, gia sản tiêu tán, và gia đình em phải lìa ngôi nhà xinh xắn”. An-đéc-xen đặt nỗi nhớ của cô bé vào đúng lúc, đúng chỗ vừa giới thiệu được hai hoàn cảnh sống đối nghịch vừa giải thích nguyên nhân của sự đổi thay khiến em phải sống đời xấu số hiện tại: Thần Chết! Thần Chết đã cướp đi người bà hiền hậu. Thần Chết đã đuổi cha con cô ra khỏi ngôi nhà xinh xắn đến ở căn gác xép sát mái nhà không ngăn nổi gió sương.
Và xấu số lớn nhất là Thần Chết đã thay đổi tính nết của người cha, thay vì thương yêu và chăm sóc con cháu thì lại buộc con gái nhỏ dại đi bán diêm, “nếu không bán được ít bao diêm, hay không ai bố thí cho một đồng xu nào đem về; nhất định là cha em sẽ đánh em”. Sự việc diễn ra như vậy nào thì kể lại như vậy chứ không hề chen vào một lời oán trách hay kết tội người cha đứng với hoàn cảnh sống và tính cách phụ thuộc của tuổi thơ.
Một mình, bụng đói giữa đêm giao thừa gió rét, đôi bàn tay đã cứng đờ ra, muốn đốt một que diêm mà hơ ngón tay em cũng chần chừ đôi lần ba lượt. Ánh sáng, hơi ấm từ que diêm đã hỗ trợ dòng tư duy của em thoát khỏi hiện thực lạnh giá, bẽ bàng. “Em tưởng chừng như đang ngồi trước lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng. Trong lò, lửa cháy nom đến vui mắt và tỏa ra hơi nóng dịu dàng”.
Dòng mơ tưởng này đã chi phối hành vi của em. Em hành động theo “Em tưởng chừng như…”. Bởi vậy, “em vừa duỗi chân ra sưởi thì lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất. Em ngồi đó, tay cầm que diêm đã tàn hẳn”. Dòng mơ tưởng về lò sưởi tỏa hơi nóng dịu đàng kia đã biến mất theo ngọn lửa cháy nhanh và chóng tàn của que diêm. Hiện thực giá rét kéo em về cùng nỗi lo “bị cha mắng”. Đêm tối với cái lạnh cắt da, que diêm với ánh sáng và hơi ấm.
Hai hình ảnh tương phản ấy đã được nhà văn đặt cạnh nhau như muốn khơi thêm nguồn ước ao ở trong em. Nếu quẹt que diêm lần thứ nhất, ánh sáng của nó khiến em “tưởng chừng như…” thì khi quẹt que diêm thứ hai “em nhìn thấy vào tận trong nhà” và thấy một bàn ăn tráng lệ đã được dọn sẵn, có cả một con ngỗng quay. “Nhưng điều kì diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, phuốc-sét cắm trên lưng, tiến về phía em bé”.
Mộng tưởng lúc này đã có tính kì ảo. Tội nghiệp cổ bé bán diêm. Có vẻ lúc này cô đói lắm rồi. Mong ước được no khiến hiện thực “sực nức mùi ngỗng quay” khu phố” biến thành con ngỗng như trong mộng tưởng của cô bé bán diêm. Nhưng khi “que diêm vụt tắt” thì “ngỗng ta” cũng biến mất khi đang tiến về phía cô bé bán diêm, hiện thực khắc nghiệt với “phố xá vắng teo, lạnh buốt” và mấy người khách quần áo ấm áp nhưng lãnh đạm tình người xuất hiện trước mắt em.
Lần quẹt diêm thứ ba, em thấy xuất hiện cây thông Nô-en rất lớn và lộng lẫy với hàng ngàn ngọn nến, rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ. Khi em với đôi tay về phía cây thì ánh sáng que diêm… tắt. “Tất cả các ngọn nến bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời”. Mộng tưởng này gợi cho em nhớ lại lời của người bà hiền hậu thường nói với em lúc bà còn sống rằng: “Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hồn bay lên trời với Thượng đế”.
Nỗi nhớ này làm cô bé bán diêm ước ao được thấy bà nội của cô. Cô quẹt một que diêm nữa vàọ tường, ánh sáng xanh tỏa ra xoay quang, và em thấy rõ bà đang mỉm cười với em. Em reo lên và xin bà cho em cùng theo bà. Điều lạ lùng và cảm động là nhà văn đã đặt cô bé vào vị trí của loài người rất tỉnh táo. Cô bé đã nói với bà: “Cháu biết rằng diêm tắt thì bà cũng biến đi mất như lò sưởi, ngỗng quay và cây Nô-en ban nãy, nhưng xỉn bà đừng bỏ cháu ở nơi này”.
Có vẻ những lần quẹt diêm trước đã hỗ trợ cô bé nhận thấy cảnh thật và cảnh ảo. Thêm vào đó thể xác của cô bé thì đói và lạnh, còn tâm hồn thì rất cô độc. Về nhà ư? về căn gác xép sát mái, tương nứt không ngăn được luồng gió rét kia ư? về nơi thường nghe những lời mắng nhiếc và chửi rủa kia ư?
Sức cô bé đã cùng, lực cô bé đã kiệt. Thông thường, trong hoàn cảnh đó, chỉ có tình thương yêu cha mẹ, anh em., giúp cô bé thêm sức mạnh để quay về. Nhưng thực tiễn thì cô không có động lực ấy, trái lại có thể là nỗi sợ hãi ngày càng lớn càng nặng nề hơn. Bởi vậy mà em sống với ảo ảnh và không muốn rời xa nó.
Em đã quẹt toàn bộ những que diêm sót lại ở trong bao để thấy bà, gần bà, cho tới lúc “Bà cụ cầm lấy tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét, đau buồn nào đe dọa đó nữa. Họ đã về chầu Thượng đế”. Đọc hai câu văn ấy ai cũng nhận thấy cô bé bán diêm đã chết. Cô bé đã chọn tử vong cùng một ảo giác đẹp, dù ở phần thể xác em chết vì đói và lạnh.
Và nhà văn đã tô điểm cho nét đẹp của em bằng hình ảnh đối nghịch giữa cảnh và người: “Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy, ở một xó tường, người ta thấy một em gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười”. Cô bé bán diêm đã chết theo cách của người đang thiếp ngủ trong giấc mơ đẹp.
Nhìn hình ảnh những bao diêm, trong đó có một bao đã đốt hết nhàn, người ta có thể đoán đúng hành vi của cô bé trước khi chết: “Chắc nó muốn sưởi cho ấm! ”, những hình ảnh “đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười ” kia thì khó có thể đoán ra điều gì khiến khuôn mặt cô bé dấu hiệu nên hình ảnh có vẻ vui sướng và thỏa nguyện ấy.
Về tử vong của những người xấu số, nói chung nhiều nhà văn đã mô tả, mà phần lớn là buồn thảm, hoặc vật vã dữ dội (như tử vong của lão Hạc). Duy tử vong của cô bé bán diêm thì người đọc có cảm tưởng buồn thương nhưng thanh thản, nhẹ nhõm và thấm sâu. Tạo được cảm tưởng khác lạ ấy có vẻ nhờ vào cách xây dựng tính cách nhân vật (cô bé bán diêm) của An-đéc-xen, một cô bé bán diêm xấu số nhưng không giận đời.
Giữa hiện thực đen tối, cô bé sống với những mộng tưởng đẹp cho tới hơi thở cuối cùng. Cô bé bán diêm sống mãi với người đọc là ở tính cách ấy của em qua tài kể chuyện của nhà văn.
Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm – Bài mẫu 10
Chắc hẳn những ai được cắp sách đến trường đều nghe đến An-đéc-xen. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo khó tại Đan Mạch, ông vốn là người đa cảm và có năng khiếu viết văn và rồi ông trở thành nhà văn nổi tiếng với loại truyện giành cho thiếu nhi. Cô bé bán diêm là mẩu truyện vô cùng cảm động về số phận xấu số của một cô bé nghèo khổ trong xã hội tư bản đương thời. Tình yêu thương loài người và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của điều thiện là nội dung bao trùm lên toàn thể sáng tác của An-đéc-xen.
Mẩu truyện được chia làm ba phần,phần thứ nhất tác giả giới thiệu hoàn cảnh khốn cùng của cô bé bán diêm. Phần thứ hai kể về những lần quẹt diêm và bao hình ảnh đẹp đẽ hiện lên trong trí tưởng tượng của cô bé. Phần thứ ba là phần mô tả tử vong thương tâm của cô bé trong đêm đông giá lạnh.
Thời gian xảy ra mẩu truyện là vào đêm giao thừa, đáng nhẽ ra là mọi người phải được sum họp bên gia đình để cùng nhau tống biệt năm cũ và nghênh đón mọi thứ tốt đẹp từ năm mới trong không khí thiêng liêng, tràn trề hạnh phúc. Nhưng chỉ riêng cô bé mồ côi mẹ, đầu trần chân đất, váy áo đều rách,bụng đói meo vẫn đang lần mò trong bóng tối.Suốt ngày ngày hôm nay,cô lang thang khắp nơi mà không bán được bao diêm nào.
Xung quanh là không khí tràn ngập ấm áp của sổ mọi nhà đều sáng rực đèn và mùi ngỗng quay thơm phức. Những hình ảnh gợi nhớ lại những ngày tháng năm xưa khi được đón giao thừa bên bà nội trong căn nhà xinh xắn có cây thường xuân bao quanh. Ở đây tác giả đã sử dụng biện pháp đối lập tương phản để làm nổi trội tình cảnh hết sức tội nghiệp của cô bé.
Em đang rét và có vẻ càng rét hơn khi thấy mọi nhà sáng rực đèn. Chẳng có điều gì tốt đẹp đang chờ cô bé ngoài cái xó xỉnh tối tăm, rét mướt những lời mắng chửi của người cha thô lỗ cục mịch. Những lần đón giao thừa năm xưa vui vẻ cùng bà và mẹ đã đi vào di vãng. Tai họa đã làm cho gia đình cô tan nát.
Giờ đây, cô bé ngồi nép trong một góc tường giữa hai ngôi nhà để ngăn gió cho đỡ lạnh.Không bán được diêm, sợ bị cha đánh đòn nên cô chẳng dám về nhà và cho dù có ở nhà cũng lạnh chẳng kém ở đây.
Giữa đêm giao thừa rét buốt cô bé lủi thủi một mình với chiếc giỏ đựng diêm. Lúc em ngồi nép vào chiếc bờ tường kia cũng là lúc những khao khát cháy bỏng bùng lên trong trái tim nhỏ nhắn ấy. Đôi bàn tay em cứng đơ vì lạnh em ước ao được sưởi ấm bằng một que diêm và cuối cùng em cũng đánh liều và quẹt một que diêm.
Diêm bén lửa thật là nhạy ngọn lửa lúc đầu xanh, dần dần biến mất đi,trắng ra,rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt. Thật là thoải mái đôi bàn tay em hơ trên ngọn lửa, bên tay cầm diêm ngón cái nóng bỏng lên. Em ước ao lúc này mà được ngồi gần một cái lò sưởi thì sung sướng biết bao.
Em vừa duỗi chân ra thì lửa vụt tắt,lò sưởi biến mất. Em ngồi đó nhìn que diêm đã tàn hẳn em lần thần cả người và nghĩ rằng cha em đã giao cho em đi bán diêm đêm nay về nhà thế nào cũng bị ăn mắng. Em quẹt que diêm thứ hai, diêm cháy và sáng rực lên, hàng rào như biến thành một hàng rào vải màu. Em nhìn thấu vào tận trong nhà bàn ăn đã dọn, vải trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn đĩa bằng sứ quý hiếm và có cả một con ngỗng quay nhưng điều kì quái là con ngỗng nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, tiến về phía em.
Đáng thương thay những hình ảnh đó chỉ hiện lên trong chốc lát khi lửa tắt xung quanh em là một màu đen tối mịt, chỉ sót lại những màn sương đêm lạnh buốt, cái đói rã rời và đáng sợ hơn hết nỗi cô quạnh không ai chia sẻ. Không có bàn ăn thịnh soạn nào cả, cũng chẳng có ngỗng quay mà chỉ toàn một màu đen với cánh lạnh giá của đêm đông bao trùm lấy cô bé.
Tuy vậy em không vô vọng. Trí tưởng tượng đã mang lại cho em những ước ao mới em muốn đem Nô-en phải có cây thông nên quyết định quẹt que thứ ba và bỗng hiện lên một cây thông Nô-en cây được trang trí thật lộng lẫy cùng với hàng ngàn ngọn nến sáng rực.
Và que diêm nữa vào tường một ánh sáng xanh tỏa ra xung quanh và em thấy bà đang mỉm cười với em, em reo lên cho cháu đi với. Và em biết khi que diêm tắt thì hình ảnh bà cũng mất đi như những lần khác và em đã quyết định quẹt toàn thể những que diêm sót lại để níu kéo bà để được bà cho đi theo đến một toàn cầu không đói rét và thống khổ.
Kết thúc mẩu truyện là sự đối lập giữa cảnh đời vui vẻ và tử vong bi thảm của cô bé bán diêm. Sáng ngày tiếp theo tuyết đã phủ kín mặt đất, nhưng mặt trời lên, trong sáng, chói chang trên khung trời xanh mọi người vẫn vui vẻ ra khỏi nhà. Trong buổi sáng rét mướt ấy ở một xó tường người ta thấy một em bé gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười em đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa.
Em bé thật đáng thương. Trong xã hội tư bản thiếu sự thấu hiểu và tình yêu thương giữa người với người nhà văn An-đéc-xen đã viết truyện này với niềm xót thương vô hạn so với cô bé không may mắn. Tuy vậy nội dung mẩu truyện Cô bé bán diêm với kết thúc thương tâm của nó vẫn khiến người đọc rơi nước mắt.
Tham khảo thêm:
-
Phân tích nhân vật cô bé bán diêm trong truyện ngắn cùng tên của An-đéc-xen
-
Thông điệp và tấm lòng nhân ái của nhà văn trong truyện Cô bé bán diêm
Trên đây là các bài văn mẫu Phân tích truyện ngắn Cô bé bán diêm do THPT Đông Đô sưu tầm được, mong rằng với nội dung tham khảo này thì các em sẽ có thể hoàn thiện bài văn của mình tốt nhất!
Đăng bởi: Đại Học Đông Đô
Thể loại: Lớp 8, Ngữ Văn 8
Xem thêm những thông tin liên quan đến đề tài hình ảnh nhớ mẹ đã mất
Thánh Ca Về Cha Mẹ Đã Mất
- Tác giả: Nhac Thanh Ca
- Ngày đăng: 2019-11-05
- Nhận xét: 4 ⭐ ( 6515 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Thánh Ca Về Cha Mẹ Đã Mất
Vui lòng ấn Chia Sẻ (Share) để nhiều người nghe đến Chúa hơn, cám ơn!
Các bài hát ngợi ca Thiên Chúa:
https://www.youtube.com/playlist?list=PLPerI6anUmeC44z4HCkANhEFVIQFqF_TM
Các bài hát về Mẹ Maria:
https://www.youtube.com/playlist?list=PLPerI6anUmeDZZTqW4Ntg0Cx3Q2misA9_
Thánh Ca Mùa chay:
https://www.youtube.com/playlist?list=PLPerI6anUmeAI6iEjWZtgGqzdkKZfXwVe
Thánh Ca Tận Hiến:
https://www.youtube.com/playlist?list=PLPerI6anUmeCl-F4LWmoncB0VmQnBM1aj
Karaoke Thánh Ca:
https://www.youtube.com/playlist?list=PLPerI6anUmeDP9j3_kQXPqNKVYrGyw0fC
Thánh Ca Tin Mừng:
https://www.youtube.com/playlist?list=PLPerI6anUmeDkfzxH5M0Z8G6zSQlAnbKa
Thánh Ca Vào Đời:
https://www.youtube.com/playlist?list=PLPerI6anUmeBMHuVwyXIBju3J7qTayqwZ
Các bài hát về Cha Mẹ:
https://www.youtube.com/playlist?list=PLPerI6anUmeDCmsssypPQRzXhxwB3lhFT
Các bài hát về Lễ Cưới
https://www.youtube.com/playlist?list=PLPerI6anUmeChFMz1bHzFjIHU4BXX7A1P
Dâng Chúa Mùa Xuân:
https://www.youtube.com/playlist?list=PLPerI6anUmeDDtGOd-y5573ChneFIusQJ
Các bài hát về Cầu Hồn:
https://www.youtube.com/playlist?list=PLPerI6anUmeA7wesrTnIoWpKswQBCIUy6
Nhạc Giáng Sinh:
https://www.youtube.com/playlist?list=PLPerI6anUmeBaVTh7begQsGKUwIUMYRk5
Nhạc Giáng Sinh – Karaoke:
https://www.youtube.com/playlist?list=PLPerI6anUmeCOUYpwXjuWJAIjL8S6At1GFb: https://www.facebook.com/NhacThanhCaThienDuc/
Youtube: https://www.youtube.com/nhacthanhcaconggiao
Mơ Thấy Mẹ Đã Mất Đánh Con Gì, Điềm Gì ❤️️ Giải Mã
- Tác giả: scr.vn
- Nhận xét: 4 ⭐ ( 8242 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Mơ Thấy Mẹ Đã Mất Đánh Con Gì, Điềm Gì ❤️️ Giải Mã Giấc Mơ ✅ Chia Sẻ Những Thông Điệp Chuẩn Xác Được Các Chuyên Gia Số Học Tâm Linh Mang Ra.
Hình Ảnh Buồn Nhớ Mẹ Hiền Vất Vả Mưu Sinh Đẹp Nhất
- Tác giả: thptleminhxuan.edu.vn
- Nhận xét: 3 ⭐ ( 7961 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Hình ảnh buồn nhớ mẹ hiền vất vả mưu sinh. Dành tặng cho những người con đã mất mẹ, xa mẹ nhằm vơi đi nỗi nhớ thương.
Status nhớ cha, mẹ đã mất, đã khuất đầy ý nghĩa đong đầy nước mắt
- Tác giả: sttchat.vn
- Nhận xét: 3 ⭐ ( 9892 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm:
Hình Ảnh Buồn Nhớ Mẹ Hiền Vất Vả Mưu Sinh Đẹp Nhất
- Tác giả: demoda.vn
- Nhận xét: 5 ⭐ ( 6018 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Hình ảnh buồn nhớ mẹ hiền vất vả mưu sinh. Dành tặng cho những người con đã mất mẹ, xa mẹ nhằm vơi đi nỗi nhớ thương
Cụ ông xúc động khi nhận bức vẽ chân dung mẹ đã mất 70 năm
- Tác giả: www.yan.vn
- Nhận xét: 4 ⭐ ( 9429 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Cụ ông xúc động khi nhận bức vẽ chân dung mẹ đã mất 70 năm. Nhìn bức ảnh hoàn thiện được người thợ làm cho, không chỉ cụ ông mà toàn bộ dân cư mạng đều cảm thấy trầm trồ, xúc động vì việc làm “có tâm”, bức hình thật sự quá đẹp.
Xót xa hình ảnh người mẹ ôm con tự vẫn: Phút quẫn trí hay tận cùng tội ác?
- Tác giả: suckhoedoisong.vn
- Nhận xét: 4 ⭐ ( 1345 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Chỉ vì cạn nghĩ hay trong một phút dại dột họ đã tự tước đi mạng sống của chính con mình, bản thân mình, để lại nỗi đau khôn cùng cho những người ở lại.
Xem thêm các nội dung khác thuộc thể loại: giải trí