– thuận thiên cao hoàng hậu

Bạn đang xem: thuận thiên cao hoàng hậu

Thông tin tuyên truyền

Tóm tắt cuộc sống 13 vị VUA triều Nguyễn

Ngày update

17/10/2019

Triều Nguyễn, triều đại Phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, đã tồn tại trong suốt hơn 143 năm (1802-1945) với 13 đời vua Nguyễn. Thông thường các vua Nguyễn sau khoảng thời gian mất, bài vị được mang vào thờ tại Thế Miếu, có Miếu hiệu ứng với tên của các đỉnh đồng đúc dưới thời Minh Mạng (1835), trừ các vua bị phế truất và các vua bị Pháp đày ra khỏi nước.

Miếu hiệu Cung Tôn Huệ hoàng thượng là do con trai là vua Thành Thái truy phong, nhưng bài vị không được mang vào thờ tại Thế Miếu. Các vị vua yêu nước Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân vào năm 1959 đã được Hội Đồng Nguyễn Phước Tộc làm lễ và mang bài vị vào thờ tại Thế Miếu.Dưới đây là những ghi chép vắn tắt về 13 vua Nguyễn:

1. Gia Long hoàng đế (1802 – 1819)

Nguyễn Ánh lấy lại được Gia Định năm Mậu Thân (1788) tuy đã xưng vương mà chưa đặt niên hiệu riêng, vẫn dùng niên hiệu vua Lê. Tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802) lấy lại được toàn thể đất đai cũ của các chúa Nguyễn, Nguyễn Vương Phúc ánh cho lập đàn tế cáo trời đất, thiết triều tại Phú Xuân, đặt niên hiệu Gia Long năm thứ nhất. Lê Quang Định được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh xin phong vương và đổi tên nước là Nam Việt. Nhà Thanh cho rằng tên nước là Nam Việt sẽ lẫn với nước của Triệu Đà (gồm cả Đông Việt, Tây Việt) nên đổi là Việt Nam. Thế là năm Giáp Tý (1804) án sát Quảng Tây Tề Bồ Sâm được vua Thanh phái sang phong vương cho Gia Long và nước ta có tên là Việt Nam. Năm Bính Dần (1806), Gia Long chính thức làm lễ xưng đế ở điện Thái Hòa và từ đây qui định hàng tháng cứ ngày rằm và mồng một thì thiết đại triều, các ngày 5, 10, 20 và 25 thì thiết tiểu triều.

Là vua sáng nghiệp của triều Nguyễn, Gia Long phải quyết định rất nhiều việc đặt nền tảng cho vương triều có một địa phận thống trị rộng lớn từ Bắc chí Nam. Để tránh lộng quyền, ngay từ đầu nhà vua huỷ bỏ chức vụ Tể tướng. ở triều đình chỉ đề ra 6 bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công do các Thượng thư đứng đầu và Tả hữu tham tri, Tả hữu thị lang giúp việc. ở trong cung cũng vậy, nhà vua không lập ngôi Hoàng hậu, chỉ có Hoàng phi và các cung tần.

Quản lý một quốc gia thống nhất kéo dài từ Lạng Sơn đến Hà Tiên so với Gia Long lúc này là hoàn toàn mới mẻ. Gia Long cho tổ chức lại các nhà cung cấp hành chính từ trung ương xuống. Cả nước chia làm 23 trấn, 4 doanh. Từ Ninh Bình trở ra gọi là Bắc thành gồm 11 trấn (5 nội trấn và 6 ngoại trấn); từ Bình Thuận trở vào gọi là Gia Định thành gồm 5 trấn; ở quãng giữa là các trấn độc lập: Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Nghĩa, Bình Định, Phú Yên, Bình Hòa, Bình Thuận; đất kinh kỳ đặt 4 doanh: Trực Lệ Quảng Đức doanh (tức Thừa Thiên), Quảng Trị doanh, Quảng Bình doanh và Quảng Nam doanh. Cai trị Bắc thành và Gia Định thành có Tổng trấn và Phó tổng trấn. Mỗi trấn có Lưu trấn hay Trấn thư, cai bạ và ký lục. Trấn chia ra phủ, huyện, châu có tri phủ, tri huyện, tri châu đứng đầu. Đây là lần đầu trên một lãnh thổ thống nhất, các tổ chức hành chính được xếp đặt chính quy như vậy.

Quản lý đinh khẩu, ruộng đất và thế khóa vận dụng theo mẫu hình thời Lê sơ nhưng được thực hiện trên quy mô to hơn, có quy củ hơn. Đáng lưu ý là việc làm sổ ruộng (địa bạ) dưới thời Gia Long được tiến hành nhất loạt, có quy mô toàn quốc. Các làng xã phải lập sổ địa bạ ghi rõ từng loại ruộng đất, diện tích, vị trí, công, tư… chép thành 3 bản nộp lên bộ Hộ. Bộ đóng dấu kiềm, lưu 1 quyển, tỉnh giữ 1, xã giữ 1. Năm năm làm lại địa bạ một lần. Đến nay còn lưu giữ khá đủ toàn thể địa ba Gia Long của các trấn, doanh cả nước. Trên nền tảng điều tra kê cứu địa chí các địa phương. Cả nước gồm 4 địa hình sông núi, cầu quán, chợ búa, phong tục, thổ sản… năm Bính Dần (1806), vua Gia Long sai biên soạn và công bố bộ “Nhất thống địa dư chí” gồm 10 quyển.

Năm ất Hợi (1815) bộ “Quốc triều hình luật” gồm 22 quyển với 398 điều luật đã được công bố.

Quá trình khai phá vùng đồng bằng sông Cửu Long được tiếp tục. Nhà nước đã ném tiền đào kênh thoát nước Thụy Hà và sông Vĩnh Tế tạo thuận tiện cho việc khẩn hoang. Những công trình lớn như sông Vĩnh Tế kêu gọi sức người, sức của cả dânViệt và Chân Lạp dọc hai bờ có sông chạy qua. Việc trị thủy vùng đồng bằng Bắc Bộ cũng được Gia Long lưu ý ngay từ đầu. Năm Giáp Tý (1804), trên đường ra Bắc làm lễ thụ phong của nhà Thanh, Gia Long cũng nêu vấn đề đắp đê để sĩ phu Bắc Hà thảo luận. Mặc dù chưa nhất trí, nhà vua vẫn quyết định đắp đê. Thời Gia Long khối lượng đê, kè, cống được đắp nhiều nhất so với các triều trước.

Đối ngoại, triều Nguyễn một mặt tranh thủ sự ủng hộ và giữ lễ thần phục nhà Thanh, mặc khác lại tạo quan hệ đàn anh so với Chân Lạp và Ai Lao. So với các nước phương Tây, từ chỗ tựa vào lực lượng của họ để giành thắng lợi chuyển sang lạnh nhạt. Năm Quí Hợi (1803), nước Anh xin mở cửa tiệm buôn bán ở Trà Sơn (Quảng Nam) bị nhà vua từ chối. Sĩ quan Pháp đã từng giúp vua được trọng đãi, chầu không phải lạy… Còn yêu sách khác của chính phủ Pháp đều bị khước từ. Năm Đinh Sửu (1817) tàu buôn Pháp tên là “La paix” (hòa bình) chở hàng sang bán nhưng là hàng không hợp thị hiếu người Việt Nam, phải trở về, miễn thuế. Đến khi tàu Cybèle vào Đà Nẵng mang thư hoàng thượng (1787) (Bá Đa Lộc thay mặt Nguyễn ánh, có khoản Nguyễn ánh nhường cho Pháp cửa biển Đà Nẵng và đảo Côn Lôn). Gia Long kiên quyết bác bỏ viện lý rằng: Điều ước tuy đã ký nhưng thuở đó phía Pháp không thực hiện thì nay không buôn phương Tây song cũng không mời chào, khuyến khích hoặc có một quyết sách tỏ ra chủ động, tích cực hơn.

Gia Long có hai vợ chính: thứ nhất là Thế tổ Thừa Thiên Cao hoàng hậu họ Tống, người huyện Tống Sơn, Thanh Hóa, con gái Quí Quốc công Tống Phúc Khuông. Nguyễn Phúc ánh cưới bà làm vợ năm 18 tuổi, người kính cẩn, cẩn trọng, có phép tắc lễ độ. Bà sinh được hai hoàng tử, con cả là Chiêu chết sớm; con thứ là Hoàng tử Cảnh từng theo Bá Đa Lộc làm con tin sang cầu viện Pháp rồi về nước được lập làm Thái tử, sau bị bệnh đậu mùa mất năm Tân Dậu (1801). Bà thứ hai là Thuận thiên Cao hoàng hậu họ Trần, người huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên, con gái Thọ Quốc công Trần Hưng Đạt, được tiến vào hầu Nguyễn ánh từ năm Giáp Ngọ (1774), năm Kỷ Dậu (1789) được tấn phong là Tả cung tần, hiệu Nhị phi. Bà sinh được 4 hoàng tử: Nguyễn Phúc Đởm (sau lên ngôi lấy hiệu là Minh Mệnh); Nguyễn Phúc Đài (Kiến An vương); Nguyễn Phúc Hiệu (mất sớm), Nguyễn Phúc Thấn (Thiệu Hòa quận vương). Ngoài 6 người con với hai vợ chính đã kể trên Gia Long còn 7 người con trai với các bà khác, tổng cộng 13 hoàng tử 18 công chúa.

2. Minh Mệnh hoàng đế (1820 – 1840)

Vua húy là Hiệu, lại có tên là Đởm, sinh ngày 23 tháng giêng năm Tân Hợi (1789), là con thứ tư của vua Gia Long. Tháng giêng năm Canh Thìn (1820), Thái tử Đởm lên ngôi vua, đặc quốc hiệu là Đại Nam, niên hiệu là Minh Mệnh, 30 tuổi.

Minh Mệnh có tư chất thông minh, hiếu học, năng động và quyết đoán. Từ khi lên ngôi, ông ra coi chầu rất sớm, xem xét mọi việc trong triều và tự tay “châu phê” rồi mới cho thi hành – Thuật ngữ “châu phê” khởi đầu có từ đây. Minh Mệnh muốn quan lại các cấp phải có đức độ và năng lực, nên khi mới lên ngôi đã đề ra lệ mà về sau khó ai thực hiện nổi. Quan lại ở Thành, Dinh, Trấn, văn từ Hiệp trấn, Cai bạ, Ký lục, Tham hiệp; võ từ Thống quản cơ đến Phó vệ uý… ai được thăng điện; bổ nhiệm… đều cho đến kinh gặp vua trước khi nhậm chức để nhà vua thăm hỏi công việc, xác minh năng lực và khuyên bảo…

Minh Mệnh là người ham hiểu biết, thường khi tan chầu, nhà vua cho đòi một vài đại thần tới các việc kinh lý, hỏi sự tích đời vua, danh nhân và phong tục các nước xa lạ. Nhiều đêm vua thức xem chương, sớ đến canh hai canh ba mới nghỉ. Vua thường nói với triều thần:

– Lòng người, ai chả muốn yên, hay gì sinh sự để thay đổi luôn, nhưng lúc trẻ khỏe mà không biết sửa sang mọi việc, đến lúc già yếu, mỏi mệt hỏi mong làm gì được nữa. Do đó trẫm không dám lười biếng bất kỳ lúc nào.

Là người tinh thâm Nho học, sùng đạo Khổng Mạnh, Minh Mệnh rất quan tâm đến học tập khoa cử, tuyển chọn nhân tài. Dựng Quốc Tử giám, đặt chức Tế tửu và Tư nghiệp năm Tân Tị (1821), mở lại thi Hội thi Đình năm Nhâm Ngọ (1822). Trước đó, 6 năm một khoa thi nay rút xuống 3 năm: các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu, thi Hương; các năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thi Hội thi Đỉnh. Vua còn cho đặt đốc học ở Gia Định thành, dùng thầy giáo người Nghệ An là Nguyễn Trọng Vũ làm phó đốc học để khuyến khích việc học tập ở Nam bộ. Minh mệnh thường nói:

– Người Gia Định vốn tính trung nghĩa nhưng ít học, do đó hay tức khí với nhau. Nếu được bậc đại nho túc học làm thầy giáo dục cho điển lễ nhượng nhì dễ hóa làm thiện mà thành tài sẽ nhiều đó.

Thời đó, Gia Định chỉ có Trịnh Hoài Đức là có học, được vua rất tin dùng, cho làm Hiệp biện Đại học sĩ, làm Thượng thư bộ lại kiêm Thượng thư bộ Binh.

Minh Mệnh cho lập Quốc sử quán để biên soạn lịch sử dân tộc và các triều đại.

Trong việc dùng người, Minh Mệnh đặc biệt lưu tâm đến tri thức. Năm Nhâm Ngọ (1822), Lê Văn Liêm được Thự tiền quân Trần Văn Năng tiến cử làm Tri phủ Ninh Giang, bộ Lại mang vào bệ kiến,vua xét hỏi, Liêm đáp là ít học, Vua nói:

– Tri phủ giữ chính lệnh trong một phủ, không học thì không rõ luật lệ, lỡ khi xử đoán sai lầm thì pháp luật khó dung, như vậy là làm hại chứ không phải là yêu. Thế là Liêm không được bổ dụng. Nhà vua đã có lần thông báo thuật dùng người rất chí lý:

– Nay dùng người không ngoài hai đường là khoa mục và tiến cử, người giỏi khoa mục không chắc đã giỏi chính sự. Nhưng cũng chưa có ai học nuôi con rồi sau mới lấy chồng. Chính sự cốt ở nuôi dân, muốn yên dân thì đừng nhiễu dân; làm quan phủ huyện không tham không nhiễu thì chính sự có khó gì đâu! Nếu không thế thì văn học dẫu nhiều há dùng làm gì?

Cơ chế tiền lương cho quan lại cũng được quy định khá cụ thể, từ chánh Nhất phẩm đến tòng Cửu phẩm cách nhau chừng 18 bậc, tiền lương cũng chênh nhau khoảng 18 đến 20 lần. Ngoài ra, tri phủ, đồng tri phủ, tri huyện, tri châu còn tồn tại khoản tiền “dưỡng liêm” từ 20 đến 50 quan tùy thuộc vào cương vị khác nhau, nhà vua nghiêm trị bọn quan lại tham nhũng. Có viên quan không dùng thước để gạt thăng đong thóc thuế, thường dùng tay để dễ lạm dụng, biết chuyện nhà vua mau chóng sai chặt tay tên quan lại đó.

Minh Mệnh rất quan tâm đến võ bị, nhất là thủy quân. Ngay những năm đầu lên ngôi, vua đã sai người tìm hiểu cách đóng tàu của châu Âu và quyết tâm làm cho người Việt tự đóng được tàu theo kiểu Tây Âu và biết lái tàu vượt đại dương, các quy chế luyện tập thủy quân, thăm dò vị trí bờ biển, hải cảng cũng được lưu ý. Hàng năm, nhà vua thường phái nhiều tàu vượt biển sang các nước và các cảng lớn vùng biển Đông như Jakarta, Singapore, Malaysia… để bán hàng, mua hàng, luyện tập đi biển và xem xét tình hình các nước. Minh Mệnh đã cho hoàn chỉnh hệ thống đê điều ở Bắc bộ, đặt quan khuyến nông, khai phá ven biển Bắc bộ lập hai huyện mới Kim Sơn và Tiền Hải. Quá trình khai phá và thủy lợi ở Nam Bộ cũng được đẩy mạnh. Minh Mệnh đã trải nghiệm phương án bỏ đê phía Nam Hà Nội… đào sông thoát lũ Cửu An (Hưng Yên)…

Trên nền tảng đã có từ thời Gia Long, nay Minh Mệnh củng cố và hoàn thiện hơn bộ máy quản lý quốc gia: đặt nội các trong hoàng cung để khi cần, vua thăm hỏi và làm giấy tờ; biểu sắc, chế cáo năm Kỷ Sửu (1829); đặt cơ mật viện năm Giáp Ngọ (1834) dùng 4 đại thần, đeo kim bài để phân biệt chức vị. Cơ mật viện cùng vua thảo luận và quyết định những việc trọng yếu nhất. Năm Tân Mão (1831), Minh Mệnh cho tiến hành cải tiến hành chính trên quy mô lớn, chia cả nước ra làm 31 tỉnh. Từ đây, tỉnh là nhà cung cấp hành chính thống nhất trong cả nước có cương vực và địa hình khá hợp lý. Mỗi tỉnh có Tổng đốc, Tuần phù, Bố chính, án sát để trông coi công việc. Các châu miền núi dựa trên nhà cung cấp hành chính thống nhất với miền xuôi.

Tuy vậy, dưới thời Minh Mệnh, nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra với nhiều loại khác nhau. Nông dân nghèo nổi lên chống quan lại nhũng nhiễu, khắc nghiệt như Phan Bá Vành ở đồng bằng Bắc Bộ. Cựu thần nhà Lê như Lê Duy Cương nổi lên chống lại triều đình. Các tù trưởng người thiểu số như Nông Văn Vân hoặc họ Quách ở vùng Hòa Bình, Thanh Hóa… Minh Mệnh phải cử Trương Minh Giảng, Tạ Quang Cự, Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ cầm quân đi đánh giặc.

Về đối ngoại, Minh Mệnh đặc biệt lưu ý thần phục nhà Thanh. Lễ thụ phong của nhà vua ở thành Thăng Long được tổ chức cực kỳ trọng thể. Ngày 10 tháng 10 năm Tân Tỵ (1821), nhà vua đứng đầu một đoàn tùy tùng có 1.782 người gồm Hoàng thân, bá quan văn võ và 5.150 lính (tổng cộng 6.932 người) rời Phú Xuân ra Thăng Long để nhận sắc phong của “thiên triều”. Hành trình kéo dài 33 ngày đêm. Đoàn người đông đúc đó phải nằm chờ ở Thăng Long mãi từ khi sứ Thanh đến và xong lễ. Thủ tục tiếp đón và đón tiếp sứ Thanh diễn ra hết sức chu đáo và long trọng.

So với các nước phương Tây, nhà vua lại tỏ ra lạnh nhạt và nghi kỵ. Quyết sách thụ động như vậy đã kìm hãm sự phát triển của quốc gia.

Minh Mệnh đang là người được ghi nhớ nhiều bởi phép đặt tên đôi rất mới lạ.

Gia Long đã quy định cách viết tộc phả nhà Nguyễn: con cháu Nguyễn Hoàng vào Nam thì chép theo họ tôn thất Nguyễn Phúc; con cháu của Nguyễn Hoàng ở Bắc và các chi trước Nguyễn Hoàng ở Thanh Hóa thì thuộc về công tính họ Nguyễn Hựu. Năm Quí Mùi (1823), Minh Mệnh đã nghĩ đến chuyện tránh tranh chấp trong nội bộ hoàng thất, đảm bảo để nghiệp lâu dài cho mình và con cháu. Vua tìm thấy phép đặt tên đôi khá chặt chẽ và tế nhị dễ chấp thuận so với các hoàng tử ruột thịt. Vua đã thảo ra 11 bài thơ, trong đó có bài “Đế hệ thi” và 10 bài “Phiên hệ thi”. Mỗi bài 20 chữ, chữ có nghĩa tốt và uyên bác dùng làm tiền từ cho 20 đời tiếp nối sau kể từ Minh Mệnh.

“Đế hệ thi” có 20 chữ như sau:

Miên, Hường, Ung, Bữu, Vĩnh

Bảo, Quý, Định, Long, Tường

Hiền, Năng, Kham, Kế, Thuật

Thế, Thoại, Quốc, Gia, Xương

Theo phép này, toàn bộ con trai Minh Mệnh đều phải có tiền từ “miên”, thêm sau tên do gia đình đặt, đến lượt mình mọi con trai của thế hệ “Miên” đều phải có tên khởi đầu bằng “Hường” thêm sau tên do gia đình đặt; mọi trai của thế hệ “Hường” lại lấy tiền từ “Ưng” thêm sau tên do gia đình đặt… cứ thế đến hết 20 chữ của bài thơ “đế hệ” 10 bài “Phiên hệ” cũng theo phép tắc trên. Mục đích việc này nhằm từ đây chia các hoàng tử vua Gia Long ra làm hai hệ: đế hệ và phiên hệ. Đế hệ được kế thừa đế nghiệp, phiên hệ là bờ rào bao quanh bảo vệ đế hệ. Khi công bố cách đặt tên này, Minh Mệnh nói: Trẫm không dàm so sánh với nhà Chu xưa ở Trung Nguyên bói năm được 700 năm, bói đời được 30 đời. Nhờ các tiên đế ta tính nhân đức, chính sự ân huệ tốt họ Nguyễn Phúc được cội sâu gốc bền, nghiệp lớn tốt thịnh. Trẫm chỉ giơ tay lên trán cầu trời cho từ nay về sau con cháu ta nhận nối cơ đồ lớn, được hưởng 500 năm, tức là hơn 20 đời, chẳng dám mong nhiều hơn! Cùng năm công bố phép đặt tên này, 23 hoàng tử của vua Minh Mệnh thảy được đổi tên lấn Miên đứng đầu: Miên Tông, Miên Định, Miên Nghi, Miên Hoành, Miên An…

Từ đó trở đi, hễ sinh thêm Hoàng tử, đầy 100 ngày phải làm lễ “bảo kiến” (ẵm đến ra mắt vua) chiếu theo “đế hệ thư” mà cho tên. Có tên mới chấm hết dùng tên cũ.

Triều Nguyễn đã thực hiện bài “đế hệ thư” đến chữ thứ 5 – “Vĩnh” thì bị cuộc cách mạng tháng Tám 1945 lật đổ.

Minh Mệnh có rất nhiều vợ, số chuẩn xác thì chưa thấy có tài liệu nào nói đến, nhưng căn cứ vào câu thơ của Minh Mệnh: “Nhất dạ ngũ giao, tam hữu dâng” (một đêm ngủ với năm vợ thì 3 vợ có thai) và theo sử sách, nhân có năm trời làm hạn hán, nhà vua cho rằng trong thâm cung có quá nhiều cung nữ khí uất tắc mà nên, nhà vua bèn cho thả ra 100 người. Với sinh hoạt như vậy và một lúc dám thải ra 100 người thì rõ ràng số cung nữ thường xuyên tối thiểu cũng gấp bốn năm lần! Số liệu chuẩn xác về con Minh Mệnh là 78 hoàng nam, 64 hoàng nữ, tổng cộng 142 người.

Trị vì 21 năm, Minh Mệnh lo toan công việc thường như một ngày, sức làm việc phải nói là đáng ngạc nhiên! Mọi phê bảo, dụ chỉ, chế cáo đều tự tay vua viết ra với số lượng không nhỏ. Không những thế, khi rỗi rãi, ông còn làm thơ viết văn. Vua còn để lại 5 tập thơ và 2 tập văn.

Tháng 12 năm Canh Tí (1840), ốm nặng, vua cho vời Hoàng tử, các thân công và cơ mật viện đại thần Trương Đăng Quế vào hầu. Vua dụ Trương Đăng Quế rằng:

– Hoàng tử Trường Khánh Công, lấy về ngôi thứ là hàng trưởng, lấy về đức, về tuổi, nên nối ngôi lớn. Ngươi nên hết lòng hết sức giúp rập, hễ việc gì chưa hợp lộ, ngươi nên dẫn lời nói của ta mà can gián. Xong, nói với Hoàng tử trưởng:

– Trương Đăng Quế thờ ta đến nay đã 21 năm, trọn đạo làm tôi, một lòng công trung, bày mưu dưới trướng, ra sức của triều đình, ngươi nên đãi ngộ một các trọng hậu, hễ nói gì phải nghe, bày mưu kế gì phải theo… Nói rồi vua mất, thọ 55 tuổi. Miếu hiện là Thánh tổ.

3. Thiệu Trị hoàng đế (1841 – 1847)

Trong số rất nhiều vợ của Minh Mệnh, có bà xã cả họ Hồ, con gái lớn của công thần Hồ Văn Bôi, quê huyện Bình An, tỉnh Biên Hòa. Hồ Văn Bôi đã có công theo giúp vua Gia Long từ buổi đầu. Gia Long và bà Nhị phi đã chọn kỹ và cưới cô gái họ Hồ về làm vợ Hoàng tử Đởm. Là người trang kính, chín chắn, thận trọng, hiền hòa, trinh nhất… được Minh Mệnh hết lòng yêu kính, phong là Thuận đức Thần phi. Bà sinh Thái tử Dong được 13 ngày thì mất. Hoàng tử Dong được các cung nữ khác nuôi nấng. Năm Quí Mùi (1832), theo phép đặt tên của đế hệ. Hoàng tử Dong có tên mới là Miên Tông. Miên Tông là con trưởng trong số 78 hoàng tử của Minh Mệnh nên được nối ngôi. Tháng giêng năm Tân Sửu (1841) Miên Tông lên ngôi ở điện Thái Hòa, đặt niên hiệu là Thiệu Trị, vừa đúng 34 tuổi.

Thiệu Trị hiền hòa, không hay bày việc. Vả chăng, mọi quy chế đã được xếp đặt khá quy củ từ thời Minh Mệnh, Thiệu Trị giữ nếp cũ, chỉ răm rắp làm theo lời di huấn của cha thôi. Bọn tôi cũ từng giúp Minh Mệnh nay vẫn là vây cánh, chân tay của Thiệu Trị như Trương Đăng Quế, Lê Văn Đức, Doãn Uốn, Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương, Lâm Duy Tiếp… Thời kỳ cầm quyền ngắn ngủi của Thiệu Trị chỉ đủ để khắc phục một số hậu quả để lại từ thời Minh Mệnh.

Thứ nhất là khắc phục hậu quả của phương án bỏ đê ở Bắc Bộ. Vào năm Quí Mùi (1883), sau nhiều nỗ lực củng cố và hoàn thiện hệ thống đê điều ở Bắc Bộ mà vẫn lụt lội, Minh Mệnh mạnh dạn vận dụng phương án “đào sông thay đê”. Vua cho phá bỏ đê điều vùng trũng phía nam Hà Nội, khơi đào sông thoát lũ vùng Hải Dương, Hưng Yên nhưng vô hiệu. Theo ý nguyện thần dân địa phương, Thiệu Trị lại cho đắp đê, đập chắn ngang cửa sông Cửu An. Việc thứ hai là khắc phục vấn đề Chân Lạp. Cuối đời Minh Mệnh, thành Trấn Tây là mối lo cần khắc phục. Trương Minh Giảng, Nguyễn Tiến Lâm, Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ… Đem quân đánh dẹp mãi không yên. Vì vậy ngay năm đầu lên ngôi, triều quan như Tạ Quang Cự tâu xin bỏ đất Chân Lạp, rút quân về giữ An Giang. Vua nghe theo, xuống chiếu bãi binh. Trương Minh Giảng về đến An Giang thì mất. Tháng 6 năm ất Tỵ (1845), Chân Lạp bị Xiêm chiếm đóng, đáp lời cầu viện của Chân Lạp, triều đình lại cử binh sang buộc tướng Xiêm là Chất Tri ký hòa ước rồi hai nước cùng bãi binh. Nguyễn Tri Phương, Doãn Uốn rút quân về đóng ở Trấn Tây. Năm Bính Ngọ (1846), Nặc Ông Đơn sai sứ sang dâng biểu và cống phẩm. Tháng Hai Đinh Mùi (1847) triều đình Nguyễn phong Nặc Ông Đơn là Cao Miên quốc vương và Mỹ Lâm quận chúa, Cao miên quận chúa. Lại xuống chiếu cho quân thứ ở Trấn Tây rút về An Giang. Từ đó, Chân Lạp lại có vua và phía Tây Nam khởi đầu yên dần.

Vấn đề thứ ba là quan hệ với phương Tây. Khi Thiệu Trị lên cầm quyền thì việc cấm đạo có nguôi đi ít nhiều. Một số giáo sĩ bị tóm gọn giam từ trước tại Huế, bị kết án tử hình nay được tự do nhờ sự can thiệp của hải quân Pháp. Năm Đinh Mùi (1847) Pháp sai một đại tá, một trung tá và cho tự do tín ngưỡng. Đang trên bàn thương lượng thì Pháp dùng đại bác bắn đắm tàu thuyền của Việt Nam neo đỗ bên cạnh rồi chạy ra bể. Trước sự kiện đó, Thiệu Trị vô cùng tức giận, ban thêm sắc dụ cấm người ngoại quốc giảng đạo và trị tội người trong nước đi dạo. Sau đó, tháng 9 năm Đinh Mùi (1847), Thiệu Trị bị bệnh rồi mất, ở ngôi được 7 năm, thọ 41 tuổi, miếu hiệu là Hiếu tổ chương hoàng đế, có 54 người con (29 hoàng tử và 25 hoàng nữ).

4. Tự Đức hoàng đế (1848 – 1883)

Vua húy là Thì, tên đặt theo đế hệ là Hồng Nhậm, sinh ngày 25 tháng 8 năm Kỷ Sửu (1829), con thứ hai của Thiệu Trị. Mẹ họ Phạm, con gái thượng thư bộ Lễ Phạm Đăng Hưng, người huyện Tân Hòa (Gia Định). Tháng Giêng năm Thiệu Trị thứ 3, năm Quí Mão (1843) Thì 14 tuổi, được phong làm Phúc Tuy công, lấy vợ là con gái Vũ Xuân Cẩn. Khi ấy Yên phong công Hồng Bảo tuy đã lớn nhưng là con của vợ thứ lại ít học, chỉ ham vui chơi. Trái lại, Hồng Nhậm nhân hiếu, thông sáng và chăm học, được vua cha rất yêu quí, bảo có nhiều tính giống mình nên có ý truyền ngôi cho. Hồng Nhậm, vì vậy thường được vua gọi vào chầu riêng để giáo dục. Tháng 10 năm Đinh Mùi (1847), Hồng Nhậm lên ngôi ở điện Thái Hòa, lấy niên hiệu là Tự Đức, 19 tuổi. Vì cho con ít tuổi nối ngôi, nên Hồng Nhậm và Hồng Bảo tranh chấp nhau. Bảo thua, sau bị chết.

Tự Đức ốm yếu, phải luôn sống tại hoàng cung Huế, trừ mỗi năm hai lần nghỉ hè và nghỉ đông ở cửa biển Thuận An. Suốt đời vua chỉ đi xa một chuyến, này là dịp phò giá vua cha ra Bắc nhận lễ thụ phong của nhà Thanh ở Thăng Long năm 1842, khi đó mới 13 tuổi. Cũng chính vì kém sức khỏe nên khi lên ngôi, sứ thần sang nhà Phú Xuân làm lễ phong vương cho Tự Đức. Có những lần đích thân vua phải đứng quản lý tế nhưng mệt lại phải sai Xuân thọ công Miên Định hoặc An phong công Hồng Bảo làm thay. Cũng cũng chính vì nguyên nhân trên mà vua ít sát dân tình, ngày càng trở nên quan liêu, mệnh lệnh. Bù lại sự yếu kém sức khỏe, Tự Đức lại rất thông minh và có tài văn học. Vua thích nghiền ngẫm kinh điển Nho giáo, xem sách đến khuya. Có thể nói Tự Đức là một trong những người uyên bác nhất thời đó và là môn đồ tích cực của Khổng học.

Lẽ dễ hiểu Tự Đức là người con rất có hiếu. Cũng mới lên nối ngôi, Tự Đức đã làm tang vua cha cực kỳ cẩn trọng, trang trọng, tốn kém. Vua từng truyền phán.

– Sửa sang tang nghi là việc lớn, dẫn hợp cả tài lực của bốn bể năm châu cũng chưa dám cho rằng xa xỉ.

Vua cũng rất có hiếu với mẹ là Từ Dụ. Vua tự quy định ngày lẻ thì thiết triều, ngày chẵn vào chầu thăm mẹ. Như vậy, mỗi tháng vua ngự triều 15 lần, thăm mẹ 15 lần! Khi đến với mẹ thì sửa mình, nén hơi, quỳ xuống hỏi thăm sức khỏe, rồi cùng mẹ thảo luận kinh sách và sự tích xưa nay, nhất là chính sự. Từ Dụ là người thuộc nhiều sử sách, biết nhiều chuyện cổ kim. Hễ mẹ nói gì là vua ghi ngay vào sổ nhỏ gọi là “Từ huấn lục”. Trải 36 năm ở ngôi, vua duy trì điều độ nề nếp ấy, chỉ trừ lúc đau yếu. Chuyện kể rằng Tự Đức không thích gì hơn là đi săn để tiêu khiển ngoài việc chính sự. Một hôm rảnh việc, vua đi săn tại vườn Thuận Trực gặp mưa lũ, không về kịp giỗ Thiệu Trị. Từ Dụ nóng ruột sai người đi đón. Thuyền ngự về đến bến, trời còn mưa to mà nhà vua liền ngồi kiệu trần đi thẳng vào cung lạy xin chịu tội. Từ Dụ ngồi xoay mặt vào trong, không thèm nói nửa lời. Tự Đức lấy roi mây dâng lên trát kỷ rồi tự nằm xuống xin chịu đòn. Từ Dụ tha cho mới đứng dậy.

Hằng năm đến kỳ nghỉ ở Thuận An, Tự Đức hay đi cùng mẹ. Xem thế đủ biết bà mẹ có tác động lớn đến chính sự của nhà vua!

Tự Đức có dáng vẻ một nho sĩ, không cao không thấp, trạc người bậc trung, hơi gầy, mặt hơi dài, cằm nhỏ, trán rộng mà thẳng, mũi cao mà tròn, hai con mắt tinh và hiền. Vua thường mặc quần áo màu vàng, chít khăn vàng và đi giày cũng màu vàng, không ưa trang sức và cũng không muốn cung nữ đeo đồ nữ trang, chỉ lấy sự sạch sẽ làm đẹp. Nhà vua siêng năng việc chính sự, sáng 5 giờ đã tỉnh giấc, 6 giờ đã ra triều. Vì vậy, những buổi thiết triều, các quan cũng phải dậy sớm, thắp đèn ăn cháo để vào triều cho kịp. Vua thường ngự triều tại điện Văn Minh, bên tả bên hữu vu. Khi vua ra, thái giám tuyên triệu triều quan, các quan đều mặc áo thụng xanh, đeo bài ngà, quan văn bên hữu, quan võ bên tả… Bái mạng xong, bộ nào có việc thì tâu quỳ tại chỗ. Cạnh quan tấu có quan Nội các ghi chép lời vua ban. Các buổi thiết triều kéo dài đến chín mười giờ.

Lúc không thiết triều, vua làm việc ở chái Đông điện Cần Chánh: Nhà vua ngồi làm việc một mình, có vài thị nữ đứng hầu, mài son, châm thuốc hoặc để truyền việc. Triều quan không được vào chỗ ngự tọa, mọi việc lớn, nhỏ, nhà vua phải tự xem. Phiếu sớ từ các nơi gởi về nội các, được xếp vào trát tấu sự, mang cho giám, giám mang cho nữ quan dâng vua. Vua xem xong, giao lại nội các, Nội các giữ bản chính có châu điểm, châu phê, sao lục gửi các bộ, nha thi hành. Những phiếu tấu có chữ “châu phê” của Tự Đức còn sót lại cho thấy nhà vua đã tốt chữ mà văn lại hay. Có nhiều tờ tấu, vua phê dài hơn hết lời tâu. Xem như vậy, rõ ràng vua rất chăm chỉ và cẩn trọng việc chính sự.

Tự Đức trị vì quốc gia trong hoàn cảnh gặp nhiều thử thách sống còn. Nhà vua thiếu tính quyết đoán, phải dựa vào triều thần bàn việc, mà triều thần tuy có người thanh liêm và có thực quyền như Trương Đăng Quế song lại bảo thủ. Trên toàn cầu, khoa học và công nghiệp đã phát triển mạnh mẽ, đối đầu buôn bán ngày càng gay gắt, vậy mà đình thần quanh vua chỉ chăm sóc việc văn chương, khéo nghề nghiên bút, bàn đến quốc sự thì lấy Nghiêu Thuấn, Hạ, Thương Chu xa xưa làm gương, tự vỗ ngực là văn minh, chê thiên hạ là ngoại dị. Vì vậy, Tự Đức cấm buôn bán ngày càng gay gắt hơn. Đến khi Gia Định đã rơi vào tay Pháp, nhà vua hỏi tới việc Phú quốc cường binh thì triều thần không mang ra được kế sách gì. Cũng có những người đã đi ra ngoài du học hoặc được tiếp xúc, có cách nhìn mới, muốn thay đổi, cải tiến như Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ (1864), Nguyễn Trường Tộ (1866), Đinh Văn Điền (1868), Nguyễn Hiệp (1867), Lê Đĩnh (1881)… dâng điều trần xin nhà vua cải tiến mọi mặt: chính trị, kinh tế, quân sự… theo gương Nhật Bản, Thái Lan, Hương Cảng và các nước phương Tây. Đình thần hoặc cho rằng nói càn, bàn nhảm hoặc cho rằng không hợp thời thế hoặc còn để hỏi xem các tỉnh và làm từ từ…

Năm Mậu Dần (1878), xem báo “Hương Cảng tân văn”, thấy bàn tới việc chấn hưng quốc gia phải thông thương và chống lại bảo thủ, đúc súng, đóng tàu, cử người học tiếng nước ngoài, nhà vua muốn cho thi hành, bảo viện cơ mật xem xét rồi tâu lên. Viện cơ mật cho rằng thông thương, học tiếng, đóng tàu… thật là cấp thiết nhưng người Tây dương quán tất phải dần dần, làm ngay một lúc, thực khó được như ý, rồi còn phải chờ kỳ tiến công nhà Thanh năm tới, xem sao rồi liệu sau… Tự Đức xem lời tâu, dụ rằng:

– Xét việc thì nên cẩn trọng và tư duy cho chín, nhưng cũng nên làm thế nào cho tiến bộ, chứ không tiến là thoái vậy!

Vua phê duyệt việc học tiếng nước ngoài, sức cho làm ngay. Tháng 11 năm Mậu Dần (1878), cùng với sứ bộ sang Xiêm có một số thanh niên do Hồ Khắc Hài đứng đầu sang học tiếng Xiêm.

Nhận thấy và làm đến lúc đó đã là quá chậm, thế nhưng quần thần vẫn chần chừ, ngại cải tiến, nếu có làm, lại dè dặt, nửa chừng… Triều đình chia thành hai phe: chủ chiến và chủ hòa. Những người chủ chiến dù rất gan góc nhưng tranh đấu trong điều kiện quá chênh lệch về lực lượng, vũ khí nên cuối cùng bị thất bại.

Năm Nhâm Ngọ (1882), triều đình cử Thượng thư bộ Hình Phạm Thận Duật đi sứ Thiên Tân (Trung Quốc) cầu viện nhà Thanh đánh Pháp. Trung Quốc đang bị các nước phương Tây xâu xé, không chỉ không cứu được mà còn muốn nhân dịp này chiếm các tỉnh phía Bắc nước ta. Ngày 16/6 năm Quí Mùi (1883), Tự Đức mất, trị vì được 36 năm, thọ 55 tuổi. Triều đình Huế phải ký hòa ước Quí Mùi (1883) rồi hòa ước Patơnốt (1885), quốc gia bị chia làm 3 kỳ chịu sự bảo lãnh của thực dân Pháp.
Tự Đức lấy vợ từ năm 14-45 tuổi và sau đó còn lấy thêm 103 vợ nữa, nhưng đến năm 35 tuổi vẫn chưa có con, mặc dù đã chữa chạy bằng mọi thủ đoạn, cầu tự khắp đền chùa có tiếng trong nước, thậm chí nhà vua còn hạ cố lấy một phụ nữ đã qua một đời chồng, có con mà vẫn “vô hậu”. Nhà vua phải nuôi lấy 3 người con các anh mình làm con nuôi: Ưng Chân, Ưng Kỷ và Ưng Đường. Di chúc nhà vua viết: “Trẫm nuôi sẵn ba con, Ưng Chân cố nhiên là học lâu trưởng thành, chính danh đã lâu, nhưng mặt hơi có tật, giấu kín không rõ ràng, sợ sau không sáng, tính lại hiếu dâm, cũng rất là không tốt, chưa chắc đương nổi việc lớn. Nhưng nước cần có vua nhiều tuổi, đương lúc khó khăn này không dùng hắn thì dùng ai? Sau khi Trẫm muôn tuổi, nên cho Quốc công Ưng Chân nối nghiệp…” Về sau, Trần Tiến Thành, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết là các phụ chính đại thần mưu bỏ vua này lập vua khác gây ra thảm kịch trong triều Nguyễn sau khoảng thời gian Tự Đức mất.

5. Dục Đức (làm vua ba ngày)

Trước ngày đăng quang, Dục Đức bàn với ba đại thần phụ chánh là Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và Trần Tiến Thành sẽ không đọc một đoạn nhận xét về mình trong di chiếu tại lễ lên ngôi. Cả ba vị phụ chính đều tán thành. Ngày ngày tiếp theo, khi Trần Tiến Thành đọc đến đoạn ấy, hạ giọng xuống hầu như không ai nghe rõ, thì Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết tức giận bảo Nguyễn Trọng Hợp đọc lại rồi chia quân túc vệ canh gác trong ngoài thành thật nghiêm ngặt và bắt gọn 10 người thân tín của vua nối ngôi trong đó có Nguyễn Như Khuê.

Hai ngày tiếp theo, tại buổi thiết triều có đông đủ hoàng thân và đình thần, Nguyễn Văn Tường đứng lên tuyên cáo phế truất Dục Đức vì bốn tội:

  1. Cắt bớt một đoạn trong di chiếu của vua cha
  2. Tự tiện mang một giáo sĩ vào hoàng thành
  3. Mặc áo màu xanh trong lúc để tang vua cha
  4. Thông dâm với nhiều cung nữ của vua cha.

Dục Đức bị tống giam tại một phòng kín vừa được cấp tốc xây lên ngay trong biệt điện mình. Dục Đức bị đối xử như một tù nhân thường. Nhờ người lính gác thương tình chủ cũ, mỗi ngày đút cho một nắm cơm và một chiếc áo cũ thấm nước, vắt ra uống, Dục Đức sống thoi thóp được gần một tháng thì chết, xác vùi trên một quả đồi, không quan tài và không ai được đi mang tang.

Hơn 20 năm sau, con trai thứ 7 tức Thành Thái lên làm vua, Dục Đức mới được khôi phục lại đế hiệu và tôn là “Cung tôn huệ hoàng đế”.

6. Hiệp Hòa (6.1883-11.1883)

Tên thật là Hồng Dật, con thứ 29 và là con út của Thiệu Trị, sinh tháng 9 năm Thiệu Trị thứ 7 tức năm Bính Ngọ (1846). Năm ất Sửu (1865) Tự Đức 18 tuổi được phong Văn Lãng công. Tự Đức thứ 31 tức năm Kỷ Mão (1879) được tấn phong Lãng Quốc công.

Tháng 6 năm Quý Mùi (1883) phế xong Dục Đức, theo ý của Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường, được ý chỉ của Từ Dụ Hoàng Thái Hậu, triều đình cử một phái đoàn ra Kim Long rước Lãng Quốc công vào Đại Nội để chuẩn bị làm lễ đăng quang. Lãng Quốc công khóc mà nói rằng: Tôi là con út của tiên đế, tư chất tầm thường, không dám nhận ngôi vua. Phái đoàn vừa phải năn nỉ vừa dùng vũ lực mới mang được Hồng Dật vào Cấm thành. Thế là hai ngày tiếp theo Lãng Quốc công trở thành vua Hiệp Hòa.

Hiệp Hòa lên nối ngôi, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết cậy công tôn lập nên thâu tóm mọi quyền hành, không thèm đếm xỉa gì đến vua. Hiệp Hòa ghét lắm, muốn tước bớt quyền lực của họ. Vua đã kiên quyết điều Tôn Thất Thuyết từ bộ Binh sang bộ Lại. Làm vua được bốn tháng thì Hiệp Hòa thu được mật sớ của hai người thân tín là Hồng Phi (Tham tri bộ Lại, con trai Tùng Thiện Vương) xin giết hai quyền thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết.

Hiệp Hòa phê vào sớ: “Giao cho Trần Khanh (Trần Tiến Thành) phụng duyệt”, bỏ sớ vào tráp giao thái giám Trần Đại mang đến nhà Trần Tiến Thành ở chợ Dinh Ông. Việc vỡ lở, Tôn Thất Thuyết cùng với Nguyễn Văn Tường bàn cách phế truất Hiệp Hòa. Họ cho mời các đại thần đến họp kể tội Hiệp Hòa và Trần Tiến Thành, Hồng Phi và Hồng Sâm có mưu mô dựa vào quân Pháp sát hại hai đại thần phụ chính, với chứng cứ hẳn hoi (tờ mật sớ): Sau ép các quan ký vào tờ sớ đòi phế truất Hiệp Hòa xong, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết vào cung Diên Thọ xin ý chỉ của Hoàng thái hậu đồng thời cho người dẫn 50 lính vào điện Càn Thành bắt Hiệp Hòa phải tự xử mình theo lệ “Tam ban triều điển” giành cho các đế vương, khanh tướng phạm tội tử hình.

Đang đêm khuya nhà vua mới biết có sự biến, hỏi đến trực hầu, thì chỉ có một vài thái giám. Vua sai thái giám Trần Đạt đem chiếu nhường ngôi tới và xin được trở về phủ cũ. Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường giả vờ nhận lời, cho người đem võng mang vua và cung phi về phủ cũ ở xã Phú Xuân xong lại bí mật dặn riêng Ông ích Khiêm và Trương Văn Đễ đón ở cửa Hiểu Nhân, chặn đường mang vua đến nhà Hộ Thành, ép uống thuốc độc tự vẫn.

Riêng Trần Tiến Thành, cáo ốm nằm ở nhà cũng bị lính đến giết chết ngay đêm ấy. Này là một ngày mùa Đông (29.11.1883). Hiệp Hòa làm vua được 4 tháng, chết 36 tuổi, giao cho phủ Tôn nhân chôn cất theo nghi thức Quốc công.

7. Kiến Phúc (12.1883-8.1884)

Húy là Hạo, tự là Ưng Hỗ, lại có tự là Ưng Đăng, con nuôi thứ 3 của Tự Đức, sinh ngày 2 tháng Giêng năm Canh Ngọ (1870). Năm lên hai, (1871) vì Tự Đức không có con, Hạo được kén vào cung, sung làm Hoàng thiếu tử, do học phi Nguyễn Thị Chuyên nuôi dưỡng. Từ nhỏ Hạo đã sớm hiểu biết, ôn hòa, lặng lẽ và sạch sẽ, cẩn trọng lời nói và việc làm. Vì vậy, Tự Đức rất khen và tỏ ý yêu dấu khác thường. Mùa thu năm Nhâm Ngọ (1882) được tới nhà đọc sách gọi là Dưỡng Thiệu đường và được vua sai kèm cặp đạo làm vua. Trong di chiếu, Tự Đức tỏ ý muốn nhường ngôi nhưng vì nhỏ tuổi (mới 14 tuổi) đành thôi.
Tự Đức mất, Hoàng thiếu tử ra ngoài thành, ở nhà Quan xá ngoài của Vụ Khiêm. Mờ sáng ngày 30.11 năm Quý Mùi (1883) được quần thần đón về điện Quan Canh ở sở Tịch Điền. Thấy người đến đón, Hoàng tử sợ hãi, quân lính phải ôm lên võng khênh đi. Đến nơi, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường báo là xin lập lên làm vua. Hoàng tử trả lời:

– Ta còn bé, sợ làm không nổi

Hai phụ chánh nói:

– Tiên đế (tức Tự Đức) đã có ý ấy nhưng chưa kịp làm. Nay là mệnh trời, vậy xin nghĩ đến tôn miếu xã tắc làm trọng.

Xong họ truyền lệnh họp triều thần lại tôn lập vua mới. Thế là ngày 1/12 năm Quý Mùi (1883), Dưỡng Thiện (Ưng Đăng) lên nối ngôi, niên hiệu là Kiến Phúc.

Từ ngày Kiến Phúc lên ngôi thế lực bà Học Phi ngày càng lớn. Nguyễn Văn Tường đã nhận thấy điều này và hết sức tranh thủ tình cảm của bà. Dịp may đã tới với Nguyễn Văn tường khi nhà vua bị bệnh đậu mùa. Bà Học Phi ngày nào cũng ở cạnh vua còn nhỏ nhắn của mình từ mờ sáng đến nửa đêm. Thế là phụ chính Nguyễn Văn Tường tối nào cũng vào chầu hoàng thượng và Hoàng mẫu, có khi đến nửa đêm mới về. Trước thái độ quá đon đả và có chiều lả lơi của Nguyễn Văn Tường với bà mẹ nuôi, Kiến Phúc đã tỏ thái độ hết sức khó chịu. Có lần thiu thiu ngủ, nghe được mẩu chuyện giữa hai người, vua liền quát: “Khi nào lành bệnh rồi tao sẽ chặt đầu cả ba họ nhà mi”. Tường nghe được bèn xuống thái y viện lấy thuốc pha chế mang cho Học Phi. Theo lời khuyên của dưỡng mẫu Kiến Phúc đã uống thuốc đó tới sáng ngày tiếp theo thì tử vong.

Ngay chiều hôm đó, tại buổi thiết triều dị thường, Nguyễn Văn Tường tuyên cáo Kiến Phúc đã bỏ mạng vì bệnh tình biến chuyển đột ngột và mang em ruột là Ưng Lịch lên nối ngôi.

Kiến Phúc làm vua được 8 tháng thì mất, mới 15 tuổi.

8. Hàm Nghi (8.1884-8.1885)

Hàm Nghi tên thật là Ưng Lịch, em ruột Kiến Phúc. Sau thời điểm Kiến Phúc bị giết, Ưng Lịch mới 13 tuổi và được mang lên ngôi ngày 1/8 năm Giáp Thìn (1884). Lúc đó, hòa ước Giáp Thân (6.6.1884) đã được ký kết. Lễ đăng quang của Hàm Nghi không được Nam triều thông báo cho Khâm sứ Pháp tại Trung Kỳ, vì vậy Rê-na không thừa nhận vua mới. Chúng yêu cầu mời các đại thần cơ mật sang tòa Khâm sứ để bàn định nghi thức gặp mặt giữa vua Hàm Nghi và đại diện tối cao của chính phủ Pháp song Tôn Thất Thuyết từ chối. Tướng Đờ Cuốc-xy dọa sẽ đem quân sang bắt. Trước tình thế không thể trì hoãn, nửa đêm 7/7 năm ất Tị (1885) Tôn Thất Thuyết sai bảo tấn công ngạc nhiên vào đồn Mang Cá và đồn Pháp cạnh tòa Khâm sứ. Quân Nam đánh rất hăng say, song vũ khí quá thô sơ và giao liên non kém nên chỉ mấy giờ sau, bị thất bại. Kinh thành Huế thất thủ. Tôn Thất Thuyết hạ lệnh tập hợp tàn quân chực sẵn ở cửa Chương Đức, vào cung vua và tam cung chạy khỏi Hoàng thành xa giá ra Quảng Trị. Đạo Ngự có hơn ngàn người, phần nhiều là các đại thần, ông hoàng bà chúa, già có, trẻ có, đi kiệu, đi ngựa, và đi bộ. Hoàng tử Chánh Mông cưỡi ngựa vì chạy nhanh, tiền vàng trong người rải khắp dọc đường. Có bà chúa ôm con khóc sướt mướt trên kiệu. Hàm Nghi ngồi kiệu lâu, kêu mệt, phải chuyển sang nằm võng.

Qua hai ngày đi đường, đoàn ngự ra đến Quảng Trị – Tỉnh quan Quảng Trị ra ngoài thành rước nhà vua và tam cung vào ngự ở hành cung. Chiều 8/7/1885 theo lệnh của Từ Dụ trở lại Huế gồm các hoàng thân và quan lại già yếu hoặc nặng gánh gia đình cùng phụ nữ yếu đuối. Một đoàn theo vua ra Tân Sở xây dựng căn cứ chống Pháp. Căn cứ Tân Sở nằm trên cao nguyên miền Trung, phía Tây là Lào, Đông là trảng cát khô cằn tỉnh Quảng Trị. Đây là vùng khí hậu khắc nghiệt, cây cối thưa thớt cằn cỗi, mùa hè gió Lào mù mịt, nóng như thiêu đốt. Sau ba ngày ở Tân Sở, Hàm Nghi đòi Tôn Thất Thuyết cho người mang về Huế. Song trước thái độ kiên quyết của Tôn Thất Thuyết, nhà vua dần dần hiểu ra và quyết tâm kháng chiến. Hàm Nghi đã phê duyệt Chiếu Cần vương với ý thức trách nhiệm rất rõ ràng của một ông vua khi có ngoại xâm. Hưởng ứng Chiếu Cần Vương, dân chúng và sĩ phu cả nước liên tiếp đứng dậy cầm vũ khí chống Pháp. Thực dân Pháp vô cùng lúng túng trước trào lưu Cần Vương, đã tìm cách bắt cho được Hàm Nghi để dẹp trào lưu từ đầu não. Dùng kế phản gián, thực dân đã lừa bắt được Hàm Nghi, tại căn cứ ở Hà Tĩnh, mang xuống thuyền mang về Huế ngày 14.11 năm Mậu Thân (1888). Bấy giờ vua mới 17 tuổi. Pháp tìm mọi cách thuyết phục Hàm Nghi hợp tác, làm bù nhìn song đều bị nhà vua thẳng thắn khước từ:

– Tôi, thân đã tù, nước đã mất, còn dám nghĩ chi đến cha mẹ, anh chị em nữa.

Không mua chuộc nổi, thực dân Pháp đẩy nhà vua đi an trí tại An-giê (thủ đô Angiêri, thuộc địa của Pháp). Tại đây, Hàm Nghi được đến ở villa thuộc làng Enbia, ngoại ô An-giê. Lúc đầu, nhà vua tẩy chay không chịu học tiếng Pháp. Về sau nghĩ lại, nếu không học thì khó mà hiểu được văn hóa Pháp và toàn cầu, nhà vua đã học và biết nhanh chóng quản lý được ngôn từ Pháp. Hiểu sâu sắc về văn chương, mỹ thuật Pháp, sau trở thành một họa sĩ có tài. Dù vậy, về nhà vua vẫn giữ nguyên tập tục dân tộc: đầu búi tó, quần the, áo dài Việt Nam.

Hội họa, âm nhạc và một gia đình nhỏ gồm 1 vợ và một con gái đã hỗ trợ Hàm Nghi khuây khỏa phần nào nỗi đau của người dân mất nước, của một ông vua bị đi đày xa.Vua đã sống ở An-giê 47 năm, thọ 64 tuổi.

9. Đồng Khánh (10.1885-12.1888)

Sau thời điểm đày Hàm Nghi, thực dân Pháp bàn với đại thần cơ mật Nguyễn Hữu Độ và Phan Đình Bình lập Kiến Giang quận công làm vua mới.

Kiến Giang quận công tên thật là Ưng Đường, sinh 12/1 năm Giáp Tí (1864) con trưởng của Kiến quốc công Hồng Cai, mẹ là Bùi Thị. Năm ất Sửu (1865) lên 2, được mang vào cung làm con nuôi thứ 2 của Tự Đức. Năm Quí Mùi (1883) được sắc phong là Kiến Giang quận công. Ngày 19/9 năm ất Tị (1885) dưới quyền bảo trợ và quyết định của Giám quốc người Pháp, Ưng Đường được lập lên làm vua lấy hiệu là Đồng Khánh. Ngay từ đầu, vua đã trở thành dụng cụ trong tay người Pháp. Lễ rước vua mới từ Phu Văn Lâu vào điện Càn Thành do Đờ Cuốc-xy và Săm pô đứng đầu. Dọc đường rước vua đi qua có lính Pháp bồng súng và lính Nam vác gươm giáo đứng bảo vệ. Lên ngôi, Đồng Khánh không quên ơn người đã tạo dựng cho mình nên ban liền ba đạo dụ phong Đờ Cuốc-xy tước “Bảo hộ quân vương”, phong Sâm pô tước “Bảo hộ công” và tướng Oa-rơ-nô tước “Dực quốc công” Đồng Khánh còn nhờ Đờ Cuốc-xy chuyển tới tổng thống Pháp bức điện thư cảm ơn nước Đại Pháp đã hết lòng vun trồng cho mình và khẳng định sẽ mãi mãi giữ trọn tình giao hảo giữa hai nước. Từ đó, ngày nào, vua cũng tiệc tùng với các quan chức thượng hạng Pháp, nhất là sau khoảng thời gian đã cưới con gái Nguyễn Hữu Độ.

Đồng Khánh càng thân Pháp thì trào lưu Cần Vương chống Pháp càng lan rộng khắp nơi. Thực dân Pháp đã phải thừa nhận: “Chưa hề ở xứ nào, thời nào có một ông vua bị thần dân oán ghét như vua bù nhìn Đồng Khánh!” Đồng Khánh cũng tự thú nhận: “Không đời nào tôi có thể tin rằng Hà Tĩnh Quảng Bình trung thành với tôi, vì hai tỉnh ấy có nhiều sĩ phu quá!”

Song đời làm vua của Đồng Khánh không được lâu, ngày 25/12 năm Quí Mùi (1888), Đồng Khánh chết bệnh tại chính định Càn Thành (Huế), 25 tuổi, ở ngôi 3 năm, có 9 người con (6 năm, 3 nữ).

10. Thành Thái (1.1889-7.1907)

Sáu người con trai của Đồng Khánh đều còn quá nhỏ.Vâng ý chỉ của Lưỡng Tôn Cung (Nghi thiên chương Hoàng hậu – vợ Thiệu Trị và Lê Thiên anh Hoàng hậu – vợ Tự Đức) triều đình đón người con thứ 7 của Dục Đức (đã bị phế truất) là Hoàng tử Bửu Lân khi đó mới 8 tuổi lên làm vua.

Chuyện kể rằng: khi triều quan đến nhà rước Hoàng tử vào hoàng thành làm lễ đăng quang thì mẹ là Từ Minh đi vắng. Ông hoàng nhỏ nhắn run sợ, nói:

– Các ông đến làm chi? Bắt tôi à? Các ông muốn làm chi thì làm nhưng phải đợi ả tôi (mẹ tôi) về đã.

Khi Từ Minh về, biết chuyện con mình bị tóm gọn đi làm vua, bà òa khóc, nghẹn ngào nói:

– Lạy các quan! Xin các quan tha cho mẹ con tôi! Tôi không khi nào quên tử vong vô cùng thê thảm của chồng tôi (tức vua Dục Đức). Tôi cũng không quên rằng các vua Hiệp Hòa, Kiến Phúc đều đã bị giết và vua Hàm Nghi thì bị đi đày.

Sau một hồi khuyên giải của hàng xóm có mặt lúc đó. Từ Minh mới để cho người ta bế con lên kiệu rước đi. Sau đó 3 giờ, chú bé Bửu Lân trở thành hoàng đế Thành Thái.

Thành Thái thông minh, lên 4 – khi vua cha bị truất đã phải sống ở ngoài thành với bà con lao động, chia sẻ khổ cực với những người nghèo khó trong cảnh nước mất nhà tan. Vì vậy, làm vua, tuy mới 10 tuổi, Thành Thái đã sớm có ý thức về quốc sự và rất ham hiểu biết. Vua thích đọc các tân thư chữ Hán của Trung Quốc và Nhật Bản. Nhờ đó, Thành Thái có trí não tự cường dân tộc và đầu óc cải tiến. Song mọi dự kiến cách tân quốc gia của vua đều bị thực dân Pháp ngăn chận.

Khâm sứ Pháp lo ngại một điều là Thành Thái rất gần dân, thương dân và hay vi hành. Có một lần Thành Thái đi chơi bộ trên cầu Gia Hội, sắp gặp một người vác tre. Quân lính vội chạy lên trước, dẹp đường, Vua bảo:

– Cứ để cho người ta đi! Mình dân không phải là dân, vua không phải là vua, vì sao dẹp người ta ?

Nhiều chuyến săn bắn ở Cổ Bỉ (cách Huế khoảng 30km) vua thường ghé vào chơi các làng dọc sông Bồ. Vào làng, vua cho trải chiếu ngồi giữa đất, dân làng bu lại xem. Nếu lính đuổi, vua không cho và hỏi dân muốn gì? Dân bảo muốn xem bắn, vua liền giương súng bắn cho họ xem.

Khâm sứ Pháp và quần thần Nam triều xu nịnh rất muốn truất ngôi của Thành Thái để thay bằng một vua bù nhìn khác. Họ phao tin, nhà vua bị điên để hạ uy thế. Khâm sứ Lê-véc-cơ rất tức tối sau nhiều lần nhà vua không làm theo ý hắn. Ngày 29/7/1907, Lê-véc-cơ nói thẳng với vua: Nhà vua không thành thật công tác với chính phủ bảo lãnh thì nay mọi việc đều do Hội đồng thượng thư tự quyết đoán. Nhà vua đã hết quyền hành và không được ra khỏi nơi Đại Nội dành riêng cho vua.

Ngày 3/9/1907, triều thần được lệnh của Pháp vào điện Càn Thành dâng vua dự thảo chiếu thoái vị với nguyên nhân sức khỏe không đảm bảo, xin tự nguyện rút lui. Xem xong bản dự thảo, Thành Thái nhếch mép cười, khi ghi ngay hai chữ “phê chuẩn”, quay lưng đi vào.

Ngày 12.9.1907 thực dân Pháp cho dẫn giải vào Sài Gòn rồi mang đi quản thúc tại Cáp Xanh Giắc cơ (Cap saint Jacques), đến năm 1916 thì đày ra đảo Rê-uy-ni-ông (Réunion) cùng với con là Duy Tân.

Như vậy Thành Thái làm vua được 18 năm, phế truất năm 28 tuổi. Sau 31 năm bị đày, năm 1947, ông được phép trở về Tổ quốc nhưng buộc phải ở Sài Gòn để Pháp dễ bề kiểm tra. Mãi đến tháng 3 năm 1953, thực dân Pháp mới cho ông về thăm lăng tẩm cha mẹ, ông bà ở Huế sau lại phải trở vào Sài Gòn. Thành Thái mất tại Sài Gòn ngày 24/3/1954. Con cháu mang ông về chôn ở Huế, thọ 74 tuổi.

11. Duy Tân (1907-1916)

Gạt xong Thành Thái, thực dân Pháp định dùng con của Thành Thái là Hoàng tử Vĩnh San mới 8 tuổi lên làm vua để dễ bề thao túng. Chúng không ngờ được rằng vị vua trẻ này còn tồn tại thái độ chống lại kiên quyết và tích cực hơn vua cha.

Từ khi còn nhỏ, vua đã có những việc làm và lời nói cương nghị, chống Pháp rất quyết liệt. Có lần, ngồi câu trước bến Phu Văn Lâu cùng với thầy học là Nguyễn Hữu Bài, vua ra vế đối:

“Ngồi trên nước không ngăn được nước, trót buông câu nên lỡ phải lần”

Nguyễn Hữu Bài đối lại:

“Nghĩ việc đời mà ngán cho đời, đành nhắm mắt đến đâu hay đó”.

Mặt đượm buồn, vua nói: hóa ra thầy là người cam chịu bó tay trước số mạng. Theo ý trẫm, sống như vậy thì buồn lắm. Phải có ý chí vượt khổ cực, khó khăn để tiến lên thì mới sống có ý nghĩa.

Cuối năm 1916, được một tổ chức cứu nước trợ giúp, Duy Tân đã bí mật gặp hai nhà chí sĩ Việt Nam Quang phục hội (Phan Bội Châu chủ xướng) là Trần Cao Vân và Thái Phiên bàn mưu khởi nghĩa đánh Pháp. Vua đã chủ động tham gia và quyết định đẩy ngày khởi nghĩa lên sớm hơn để khỏi lỡ thời cơ. Không may, bị lộ, nhà vua bị giặc Pháp bắt tại một ngôi chùa Quảng Ngãi ngày 6/5/1916 cùng với rất nhiều chiến sĩ cứu nước khác. Giặc dụ dỗ, Duy tân khẳng khái trả lời:

– Nếu các người dùng bạo lực bắt ta thì cứ bắt, còn ta, nhất định không về!

Toàn quyền Pháp ở Hà Nội đích thân ra gặp và dụ dỗ vua trở lại ngai vàng. Nhà vua bình thản trả lời.

– “Các ngài muốn buộc tôi phải làm vua nước Nam, thì hãy coi tôi là một ông vua đã trưởng thành và có quyền tự do hành động, nhất là quyền tự do trao đổi thư tín và chính kiến với chính phủ Pháp”.

Không chấp thuận được, toàn quyền Pháp lệnh cho Khâm sứ mang Duy Tân vào tạm giữ ở đồn Mang Cá và giao cho Nam triều trong 1 tuần phải thuyết phục được nhà vua thay đổi chính kiến. Cuối cùng, không chịu khuất phục thực dân Pháp và tay sai, Duy Tân đã bị lưu đày sang đảo Rêuyniông.

Trần Cao Vân, Thái Phiên, Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu đều bị chém đầu.

Theo vua đi đày có Hoàng mẫu Nguyễn Thị Định, Hoàng quế phi Mai Thị Vàng và em ruột là Mệ Cưởi mới 12 tuổi. Lúc theo chồng lên đường Bà Mai Thị Vàng đã có mang 3 tháng và bị sẩy thai. Sau hai năm ở đảo Rêuyniông, vì không hợp thủy thổ, khí hậu, bị đau ốm luôn, mẹ, vợ và em vua cùng nhau trở về Tổ quốc. Năm 1925, Duy Tân đã gửi thư về cho hội đồng tộc kèm giấy ly hôn bà Mai Thị Vàng, xin Hội đồng chứng thực để bà đi lấy chồng khác, lúc đó, bà mới 27 tuổi, nhưng kiên quyết thủ tiết với chồng.

Sau thời điểm đã ly dị bà Vàng, Duy Tân đã lấy một người phụ nữ địa phương, từ 1929 đến 1939, sinh được 4 con, 3 trai 1 gái. Rồi không rõ bà xã này đã chết hay bỏ nhau, cựu hoàng lại lấy một người ở thủ đô Xanh Bơ noa và sinh được một gái.

Trong chiến tranh chống phát xít 1939-1945, Duy Tân tự nguyện tham gia quân đội của “nước Pháp tự do” và khi đồng minh thắng lợi, ông được giải ngũ với hàm thiếu tá không quân. Việc làm này của ông bị vua cha là Thành Thái phản đối kịch liệt. Tháng 10 năm 1945, Duy Tân chấp thuận lời đề xuất của tổng thống Pháp Đờ Gôn trở về Việt nhưng bị tai nạn máy cất cánh và mất trên đường đi thăm vợ con ở đảo Rêuyniông, thọ 46 tuổi.

12. Khải Định (1916-1925)

Khải Định tên thật là Bửu Đảo hay còn gọi là Hoàng thân Phụng Hóa, con Đồng Khánh, sinh năm 1884. Từ 1907, sau khoảng thời gian phế truất Thành Thái, thực dân Pháp định mang Bửu Đảo lên ngôi vua để tiếp nối dòng vua bù nhìn Đồng Khánh. Khi khắc phục vấn đề này, nhiều đình thần tỏ ý không muốn đặt lên ngai vàng một người “vô hậu” (tuyệt tự). Pháp đành phải chấp thuận Duy Tân. Duy Tân bị đi đày, Pháp mang Bửu Đảo lên ngôi, lấy niên hiệu là Khải Định, 32 tuổi.

Đây là một ông vua bù nhìn mạt hạng. Nhân dân Huế đã truyền miệng câu ca thông dụng về Khải Định:

“Tiếng đồn Khải Định nịnh Tây,

Nghề này thì lấy ông này tiên sư”

Tháng 4/1922, trước ngày sang Pháp dự hội chợ Mác-xây, Khải Định cho làm lễ sắc lập Nguyễn Vĩnh Thụy làm Đông cung Thái tử. Ngay sau khoảng thời gian trở thành người kế vị, Vĩnh Thụy 10 tuổi, được trao cho Khâm sứ Sác-lơ mang về Pháp huấn luyện.

Ngày 20/5/1922, Khải Định sang Pháp dự hội chợ thuộc địa Mác-xây. Đây là lần trước nhất, một ông vua triều Nguyễn sang nước ngoài. Sự kiện này giúp thực dân Pháp tô vẽ cho quá trình chinh phục và khai hóa của họ ở thuộc địa. Chuyến hành trình của Khải Định đã làm dấy lên nhiều hoạt động của người Việt Nam yêu nước nhằm lật tẩy gương mặt phản dân hại nước của hắn trước công luận Pháp. Đáng lưu ý hơn hết là những bài báo đanh thép của Nguyễn ái Quốc cùng vở kịch “Con rồng tre” được thông báo, trình diễn tại Pháp và bản “Thất điều trần” của Phan Chu Trinh.

Tháng 9/1924, Khải Định tổ chức lễ tứ tuần đại kháng (mừng thọ tuổi 40) rất lớn và tốn kém. Hầu như các tỉnh Bắc Kỳ, Trung Kỳ phải gửi tặng phẩm về mừng vua. Sau lễ mừng thọ này, ngân sách Nam triều kiệt quệ, Khải Định chỉ lệnh tăng thêm 30% thuế.

Tứ tuần đại khánh được 1 năm thì Khải Định tử vong ngày 6/11/1925, lễ tang kéo đến 31/1/1926.

Khải Định có 12 vợ nhưng vô sinh. Đông cung thái tử Vĩnh Thụy là con của người khác, được vua nhận làm con mình. Vì vậy, lúc Vĩnh Thụy còn nhỏ và đang tu nghiệp tại Pháp, người ta đã thay bằng một một hội đồng phụ chính có sự can thiệp của Toàn quyền Đông Dương.

13. Vị hoàng đế cuối cùng Bảo Đại (1926-1945)

Khải Định tử vong, Toàn quyền Đông Dương và hội đồng phụ chính đã ký một bản “qui ước” ghi rõ: trong lúc vua còn ở nước ngoài, Hội đồng phụ chính được quyền thay mặt điều hành mọi việc triều đình, đồng thời từ nay chỉ những lệ định có liên quan đến điển lệ, ân thích, ân xá, tặng phong các hàm tước, chức sắc… thì do hoàng đế ban dụ. Mọi việc khác đều thuộc quyền nhà nước Bảo lãnh. Văn bản này còn sáp nhập ngân sách Nam Triều vào ngân sách Trung Kỳ và mọi cuộc họp bàn của Hội đồng thượng thư phải do Khâm sứ Trung Kỳ chủ tọa. Như vậy là bằng văn bản trên, thực dân Pháp đã hoàn toàn thâu tóm mọi quyền lực của Nam Triều ngay cả trên địa phận Trung Kỳ. Triều đình Huế chỉ đang là bộ máy tay sai do thực dân trả lương mà thôi.

Sau 10 năm huấn luyện ở “Mẫu quốc”, ngày 16/8/1932, Bảo Đại về nước. Ngày 10/9/1932, Bảo Đại ra đạo dụ số 1 tuyên cáo chấp chính và nhất định chính sách quân chủ Nam triều. Văn bản này hủy bỏ “quy ước” ngày 6/11/1925 lập ra sau khoảng thời gian Khải Định mất. Năm sau (1933), Bảo Đại cho công bố hàng loạt quyết sách cải tiến, thực chất chỉ là hình thức mị dân mà thôi.

Bảo Đại có một thú vui duy nhất là đi săn ở vùng cao nguyên miền Trung, nghỉ ngơi với mỹ nữ tại Đà Lạt cùng với rất nhiều danh lam thắng cảnh khác. Do xếp đặt của thực dân Pháp, ngày 20/3/1934, Bảo Đại cưới con gái một điền chủ Nam kỳ, mang quốc tịch Pháp, theo đạo thiên chúa, tên là Mariette Jeanne Nguyễn Thị Hào, tức Nguyễn Hữu Thị Lan. Cuộc hôn phối này càng khép chặt Bảo Đại hơn nữa vào vòng tay kiềm chế của Pháp. Đây là trường hợp duy nhất một ông vua nhà Nguyễn lập Hoàng hậu khi đương ngôi: Nam Phương hoàng hậu.

Ngày 30/8/1945. Sau 80 năm nô lệ, quần chúng cách mạng cả nước dưới sự lãnh đạo của Việt Minh và Hồ Chủ tịch, dấy lên như vũ bão, trước hơn 5 vạn nhân dân tp Huế tập trung ở cửa Ngọ Môn, Bảo Đại tuyên bố thoái vị, trao ấn kiếm cho đại diện chính quyền cách mạng, và tuyên bố “làm công dân một nước tự do còn hơn làm vua một nước nô lệ”.

Sau đó, công dân Vĩnh Thụy được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời làm cố vấn cho chính phủ Lâm thời mới thành lập. Năm 1946, trong chuyến du ngoạn cùng phái đoàn chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang TrungQuốc, Bảo Đại đã ở lại nước ngoài. Tháng 4/1949 lại được mang về nước tham chính nhưng Bảo Đại lại bị Ngô Đình Diệm lật đổ. Tháng 10/1956, Bảo Đại sang Pháp sống lưu vong. Để quên đi quãng đời hoạt động chính trị cay đắng, Bảo Đại đã tự giam mình 10 năm ròng (1956-1966) trong một ngôi nhà vùng Alsace, miền Đông nước Pháp, giữa những cánh rừng châu Âu, lấy săn bắn và suy ngẫm làm thú vui và giết thời gian. Về sau ông lấy vợ nữa, bà Mô-ních (Monique Baudot). Bà là người phụ nữ Pháp rất hâm mộ và hiểu rõ văn hóa Việt Nam.

Năm 1972 họ sang sống ở Hồng Kông, sau lại trở về sống tại quận 16, tp Paris. Cuộc sống của họ thanh bạch, không kẻ hầu người hạ và rất bình yên. Cuối đời ông bà Vĩnh Thụy đã lập ra hội cứu trợ các thuyền nhân và tranh đấu chống bọn buôn lậu đồ cổ của cố đô Huế. Đây là cuộc tình cuối cùng của Bảo Đại.

Như vậy từ thuở các vua Hùng dựng nước, đến vị hoàng đế cuối cùng – Bảo Đại trị vì, nước ta trải hơn 4000 năm lịch sử với những thăng trầm của hơn 20 triều đại, các ông hoàng, bà chúa.

Năm 1945 cách mạng tháng Tám thành công – vị hoàng đế cuối cùng thoái vị, chấm hết thời kỳ phong kiến tập quyền lâu dài, lịch sử Việt Nam lật sang trang mới – tạo dựng một nhà nước Việt Nam-Độc lập – Dân chủ.

Nguồn: Hội Khoa Học Lịch Sử Bình Dương

 

 

    Gửi tin qua tin nhắn hộp thư online  

Các tin khác

Mưa lớn trên diện rộng tỉnh Thừa Thieeh Huế

(16/10/2019)

Tập huấn xây dựng nông thôn mới

(16/10/2019)

Lịch sử 89 năm ngày thành lập Hội LHPN Việt Nam và 09 năm ngày Phụ nữ Việt Nam

(15/10/2019)

Kỷ niệm 89 năm ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930 – 14/10/2019). Phầи 4: Giai cấp nông dân Việt Nam và Hội Nông dân Việt Nam trong tranh đấu giải phóng miền Nam

(15/10/2019)

Kỷ niệm 89 năm ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930 – 14/10/2019). Phầи 3: Giai cấp nông dân Việt Nam và Hội Nông dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc

(15/10/2019)

Kỷ niệm 89 năm ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930 – 14/10/2019). Phầи 2: Hội Nông dân Việt Nam và cuộc vận động cách mạng giải phóng dân tộc (1930 – 1945)

(15/10/2019)

Kỷ niệm 89 năm ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930 – 14/10/2019). Phầи 1: Sự ra đời của Nông Hội đỏ, tiền thân của Hội Nông dân Việt Nam ngày nay

(15/10/2019)

Thận trọng khi tự chủ theo hướng xã hội hóa

(15/10/2019)

Học và làm theo Bác từ những việc nhỏ nhất

(14/10/2019)

Giúp người nghèo vươn lên ổn định cuộc sống

(14/10/2019)

« Trước12 3 4 5 7 8 9 T span_T_P_T_T_Chan_

47 Sau » Xem tin theo ngày


Xem thêm những thông tin liên quan đến chủ đề thuận thiên cao hoàng hậu

Thuận Thiên Cao hoàng hậu –  Một đời cùng tự quân vun đắp triều Nguyễn

alt

  • Tác giả: Khám Phá Lịch Sử
  • Ngày đăng: 2021-05-31
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 3160 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Thuận Thiên Cao hoàng hậu – Trần Thị Đang (陳氏璫, 1769 – 1846), là con gái thứ của Thọ Quốc công Trần Hưng Đạt và phu nhân Lê thị. Bà nổi danh một vùng là tiểu thư danh gia vọng tộc, công dung ngôn hạnh đều tập hợp đủ.

    Đầu năm 1775, khi quân Trịnh vào đánh Phú Xuân, thân mẫu của Nguyễn Ánh – Ý Tĩnh Khang Hoàng hậu lánh nạn ở làng An Dụ. Trong khoảng thời gian đó, bà Đang chỉ mới 6 tuổi, được tuyển vào hầu cận vì là con nhà danh giá. Năm 1781, khi 12 tuổi, bà được tấn phong là Tả cung tần, xưng là Nhị phi.  Lúc quân Tây Sơn còn mạnh, bà Trần Thị Đang theo Nguyễn Ánh phiêu dạt nhiều nơi, đêm thường thắp hương cầu khẩn: “Lúc này vận nước còn khó khăn, chưa được an định, nếu sinh con mà bỏ đi thì bất nhân mà mang theo chỉ bận lòng chúa thượng. Nếu số mệnh có con thì xin thái bình rồi mới sinh, mong trời ban được như thế”.  Năm 1788, một đêm bà nằm mộng thấy một vị thần dâng lên một cái tỉ và hai cái ấn; cái tỉ màu sắc đỏ bóng nhẫy tươi sáng như mặt trời; một cái ấn thì sắc tía, cái kia thì sắc rất nhạt, bà nhận lấy toàn bộ. Đây có vẻ là điềm báo cho tương lai đầy uy quyền của người phụ nữ này. Năm 1791, điềm báo thành đã thành sự thật. Bà hạ sinh được 4 vị hoàng tử là Hoàng tử Đảm (tức vua Minh Mạng) ở thôn Hoạt Lộc, theo sau là Kiến An Vương Đài, Hoàng tử Diệu (mất từ nhỏ) và Thiệu Hóa Quận vương Chẩn. Năm 1801, Thái tử Nguyễn Phúc Cảnh yểu mệnh tử vong sớm, khiến Hoàng hậu đau lòng khôn xiết. Thương vợ, vua Gia Long ngỏ ý mang Hoàng tử Đảm làm con của Hoàng hậu và được yêu chiều, nuôi dưỡng hết mực. Mãi đến khi Hoàng hậu mất, Hoàng tử Đảm mới trở về bên cạnh mẹ ruột. Năm 1806, Gia Long sắc phong Vương hậu Tống Phúc Thị Lan làm Hoàng hậu, bà Trần Thị Đang tuy chỉ được phong phi nhưng quyền lực trong cung cấm lại ngang ngửa Hoàng hậu. Bà có được sự sủng hạnh lớn như vậy bởi bà và Hoàng hậu là hai người đã đi theo vua Gia Long khi chưa có cơ đồ. Tuy bà với vua Gia Long trên danh nghĩa là phu thê, nhưng sự thực hai người lại tựa như tri âm tri kỷ của nhau. Bà dùng cả cuộc sống mình để hoàn thiện trách nhiệm của một người vợ, người mẹ mà không hề có sự oán trách, đố kị nào với các phi tần khác. Vua Gia Long bỏ mạng, bà Đang tiếp tục công việc của tiên hoàng là dạy dỗ, chỉ bảo vua Minh Mạng và Thiệu Trị phép trị nước, an dân.  Năm 1821, Minh Mạng cùng bá quan dâng biểu tôn bà làm Hoàng thái hậu, vào ở trong cung Từ Thọ. Năm 1840, vua Minh Mạng mất, viết di chiếu lệnh cho Hoàng tử trưởng là Trường Khánh Công Miên Tông lên nối ngôi, tức Thiệu Trị. Quan đại thần Trương Đăng Quế tâu lên, bà dụ rằng: “Cha truyền con nối là đạo thường xưa, bọn ngươi phải dốc toàn tâm mà trợ giúp tân đế“. Lúc sứ thần Trung Quốc phụng mệnh vua nhà Thanh đem sắc phong qua nước ta để phong cho Thiệu Trị, theo lệ thì đức vua phải ra Bắc tiếp họ, để hoàng tử trưởng ở lại kinh thành. Tuy nhiên Thiệu Trị lại e ngại tính cách của Hồng Bảo, bởi vậy bàn với Trương Đăng Quế muốn dùng Hồng Nhậm lưu kinh. Xem thêm: Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh nói về nhà Nguyễn Khi ông vào chầu và đem việc này tâu lên, Thái hoàng Thái hậu dụ rằng: “Hoàng trưởng tử lưu kinh vốn là việc cũ. Hồng Bảo tuy ít học, nhưng tuổi đã trưởng thành, để lại một vài đại thần giúp việc, có gì là không nên? Hà tất phải thay đổi việc

    Xem cụ thể: https://khamphalichsu.com/thuan-thien-cao-hoang-hau-n247.html
    ———————————
    Khám Phá Lịch Sử:
    Website: https://khamphalichsu.com/
    Google Podcasts: https://podcasts.google.com/feed/aHR0cHM6Ly9raGFtcGhhbGljaHN1LmNvbS9yc3MvcG9kY2FzdC54bWw
    Apple Podcasts: https://podcasts.apple.com/vn/podcast/kh%C3%A1m-ph%C3%A1-l%E1%BB%8Bch-s%E1%BB%AD-khamphalichsu-com/id1544954510
    Google App: https://play.google.com/store/apps/details?id=com.khamphalichsu
    Group Fb: https://www.facebook.com/groups/khamphalichsu/

Người đẹp nào được vua Gia Long xem như tri kỷ, si mê cả đời?

  • Tác giả: kienthuc.net.vn
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 2911 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Là sủng phi của vua Gia Long, Thuận Thiên Cao Hoàng hậu Trần Thị Đang trở thành Hoàng thái hậu dưới thời Minh Mạng và Thái Hoàng thái hậu dưới thời Thiệu Trị. Trải 3 đời vua, bà là một trong nhân vật có quyền uy vị trí thứ nhất nhà Nguyễn.

Hiển Từ Thuận Thiên (Công Chúa), Hồi Một: Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng Hậu,

  • Tác giả: acthan.vn
  • Nhận xét: 5 ⭐ ( 1138 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: (PLO) -Đời bố mẹ con Kiến Gia Hoàng hậu Trần Thị Dung, theo sự xoay vần Lý nối sang Trần, ngẫu nhiên làm sao lại tương đồng nhau lắm, Nhưng dù ở nơi cung đình đó, mà họ chịu phận nước chảy, bèo trôi thôi

Sai, chuẩn xác phải là Thừa Thiên Cao hoàng hậu và Nam Phương hoàng hậu

  • Tác giả: vnexpress.net
  • Nhận xét: 5 ⭐ ( 8329 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: – VnExpress

Số phận éo le của công chúa Việt bị mẹ đẻ ép lấy em chồng

  • Tác giả: songdep.com.vn
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 1017 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Công chúa Thuận Thiên có số phận éo le khi đang mang thai 3 tháng bị mẹ đẻ ép cưới em chồng. Điều này khiến em gái hiểu nhầm bà nhẫn tâm cướp chồng của mình.

CÂU CHUYỆN ĐẰNG SAU MỘ SONG TÁNG TRONG THIÊN THỌ LĂNG

  • Tác giả: vyctravel.com
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 3162 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Hình ảnh ngôi mộ song táng trong Thiên Thọ lăng như kể lại mẩu chuyện về tình yêu son sắt, thủy chung của vua Gia Long và Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu

Thuận Thiên Cao hoàng hậu – Một đời cùng tự quân vun đắp triều Nguyễn

  • Tác giả: khamphalichsu.com
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 5997 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Thuận Thiên Cao hoàng hậu – Trần Thị Đang (陳氏璫, 1769 – 1846), là con gái thứ của Thọ Quốc công Trần Hưng Đạt và phu nhân Lê thị. Bà nổi danh một vùng là tiểu thư danh gia vọng tộc, công dung ngôn hạnh đều tập hợp đủ.

Xem thêm các nội dung khác thuộc thể loại: giải trí