Truyện Cổ Tích: Sự tích Tết Trung Thu Sự tích Tết Trung Thu Hàng năm, tới ngày rằm tháng tám âm-lịch, trẻ con khắp nước Việt-Nam được người lớn cho rước đèn, ăn bánh trung-thu và múa lân thật là vui. Ngày lễ ấy gọi là TếtTrung-Thu, hay là Tết Nhi-Đồng. Thực ra, tục vui Tết Trung-Thu đã có từ thời Đường Minh Hoàng bên Trung-Hoa, vào đầu thế kỷ thứ tám (713-755). Sách xưa chép rằng, nhân một đêm rằm tháng tám, khi cùng các quan ngắm trăng, vua Đường ao-ước
Bạn đang xem: sự tích tết trung thu
Sự tích Tết Trung Thu
Sự tích Tết Trung Thu Hàng năm, tới ngày rằm tháng tám âm-lịch, trẻ con khắp
nước Việt-Nam được người lớn cho rước đèn, ăn bánh trung-thu và múa lân thật là
vui. Ngày lễ ấy gọi là TếtTrung-Thu, hay là Tết Nhi-Đồng. Thực ra, tục vui Tết
Trung-Thu đã có từ thời Đường Minh Hoàng bên Trung-Hoa, vào đầu thế kỷ thứ tám
(713-755).
Sách xưa chép rằng, nhân một đêm rằm tháng tám, khi cùng các quan ngắm trăng,
vua Đường ao-ước được lên thăm cung trăng một lần cho biết. Pháp-sư Diệu Pháp
Thiên tâu xin làm phép mang vua lên cung trăng. Lên tới cung trăng, Minh Hoàng
được chúa tiên tiếp rước, bày tiệc đãi đằng và cho hàng trăm tiên nữ xinh tươi
mặc áo lụa mỏng nhiều màu sắc rực rỡ, tay cầm tấm lụa trắng tung múa trên sân,
vừa múa vừa hát, gọi là khúc Nghê-Thường vũ y. Vua Đường thích quá; nhờ có khiếu
thẩm âm nên vừa trầm trồ khen ngợi vừa lẩm nhẩm học thuộc lòng bài hát và điệu
múa mong đem về hoàng cung bày cho các cung nữ trình diễn. Cuối năm đó, quan
Tiết Độ Sứ thống trị xứ Tây Lương mang về triều tiến dâng một đoàn vũ nữ với điệu
múa Bà-la-môn. Vua thấy điệu múa có nhiều chỗ giống Nghê-Thường vũ y, liền chỉnh
đốn hai bài hát và hai điệu làm thành Nghê-Thường vũ y khúc. Về sau các quan
cũng học theo vua mang điệu múa hát về các phiên trấn xa xôi nơi họ thống trị rồi
dần dần thông dụng khắp dân gian. Tục ngắm trăng, xem ca múa sau biến thành thú
vui chơi đêm rằm Trung Thu .
Về sau tết Trung Thu lan rộng sang các nước láng giềng và thuộc địa của Trung
Hoa. Sách sử Việt không nói rõ dân ta khởi đầu chơi Tết Trung Thu từ lúc nào, chỉ
biết hàng mấy trăm năm trước, tổ tiên ta đã theo tục này. Ngay từ đầu tháng tám
âm lịch, chợ búa khởi đầu có màu sắc Trung Thu. Lồng đèn, bánh nướng, bánh dẻo đã
được bày bán la liệt trong các cửa hiệu rực rỡ ánh đèn. Người mua lẫn người đi
xem đông chen như hội.
Ngoài các loại đèn giấy, đồ ngọt còn tồn tại các con giống đầu lân, mặt ông địa bày
bán đầy các chợ. Những nhà giàu còn bày cỗ Trung Thu để khoe tài nấu nướng của
các cô con gái tới tuổi lấy chồng. Đúng vào ngày rằm, các Tp lớn như Hà
Nội, Huế, Sài Gòn đều có múa sư tử, múa lân rất náo nhiệt.
*
Sự Tích Tết Trung Thu !
Tết Trung thu có từ lúc nào?
Theo sử sách, Tết Trung thu đã có cách đây tối thiểu 2.000 năm. Từ thời thượng cổ,
các vị vua chúa có tục lệ tế mặt trời vào mùa xuân, tế mặt trăng vào mùa thu.
Theo Âm lịch, ngày 15 tháng 8 là trung tâm mùa thu được xem là ngày “lành” để
làm lễ tế thần mặt trăng.
ở nước ta và một số nước châu á khác, ngày 15 tháng 8 Âm lịch hằng năm được lấy
làm ngày Tết Trung thu.
Tục lệ ăn bánh hình mặt trăng trong dịp Tết Trung thu đã có từ thời Bắc Tống ở
Trung Quốc, cách đây trên 1.000 năm.
Trong đêm 15 tháng 8 Âm lịch hằng năm, khi trăng rằm tỏa sáng, lễ tế thần mặt
trăng khởi đầu. Trên bàn thờ có hoa quả, có bánh hình mặt trăng hay còn gọi là bánh
“đoàn viên”, bởi lẽ, trong dịp này, cả gia đình có dịp sum vầy để cùng ăn bánh
và cùng thưởng thức ánh trăng thu trong trẻo và bầu không khí ấm áp của đêm rằm
đến với mọi nhà.
Đêm Trung thu, các em rước đèn, múa sư tử. Ngoài Bắc gọi là múa sư tử, trong Nam
gọi là múa lân. Lân hay còn gọi là kỳ lân. Kỳ là tên con đực, lân là tên con cháu.
Lân là sinh vật đứng thứ hai trong tứ linh: long (rồng), lân, qui (rùa), phụng
(phượng hoàng). Lân là sinh vật thần thoại, thân hươu, móng ngựa, đuôi bò, miệng
rộng, mũi to, có một sừng ở ngay giữa trán, lông trên lưng ngũ sắc, lông dưới
bụng màu vàng. Tục truyền, lân là sinh vật hiền từ, chỉ có người tốt mới nhìn
thấy nó được.
Thoạt nhìn, đầu lân giống đầu sư tử. Do vậy, người ta gọi múa lân thành múa sư
tử.
ở một vài địa phương, có tục các em rước đèn kéo quân trong dịp Tết Trung thu.
Đèn kéo quân hình vuông, cao khoảng 80cm, rộng mỗi bề khoảng 50cm. Bốn mặt đều
phết giấy Tàu bạch như giấy bóng mờ hiện tại. Phía trên và phía dưới có đường
viền sặc sỡ. Bên trong có một tán giấy hình tròn. Khi đốt đèn, hơi lửa bốc lên,
tán giấy xoay quanh. Đèn kéo quân hay còn gọi là đèn chạy quân vì hình đoàn quân cứ
liên tục kéo đi, chạy đi không ngừng hết vòng nọ đến vòng kia. Chỉ khi nào đèn
hết dầu (nến), đèn tắt thì các tán không quay nữa. Đèn có bốn mặt, hình ảnh xem
ở mặt nào cũng được.
Trẻ em rất thích ăn bánh Trung thu, múa lân và rước đèn kéo quân. Từ đó, Tết
Trung thu nghiễm nhiên trở thành Tết của các em từ hàng ngàn năm nay.
***
Sự tích Thỏ Ngọc
Tương truyền vào thời xa xưa, có một cặp thỏ tu luyện ngàn năm, đắc đạo thành
tiên. Chúng có bốn chú thỏ con trắng tinh và dễ thương. Một hôm, Ngọc Hoàng
thượng đế triệu kiến thỏ chồng lên thiên cung. Khi đến Nam thiên môn , nhìn thấy
Thái Bạch Kim Tinh dẫn theo thiên tướng dẫn giải Hằng Nga đi ngang. Thỏ tiên
không biết đã xảy ra chuyện gì, liền hỏi một vị thần gác cửa. Sau khoảng thời gian nghe xong
hoàn cảnh của Hằng Nga , Thỏ tiên cảm thấy Hằng Nga chỉ vì giải cứu bách tính mà
vô tình chịu tội, nên rất thương cảm. Nghĩ đến Hằng Nga một mình bị nhốt ở cung
trăng, độc thân thống khổ, nếu có người ở với nàng thì thật tốt, chợt nghĩ đến bốn
con của mình, Thỏ tiên đã mau lẹ cất cánh trở về nhà.
Thỏ tiên đem mẩu chuyện Hằng Nga kể với vợ và nói muốn mang một thỏ con đi làm
bạn cùng Hằng Nga . Thỏ vợ tuy vô cùng thông cảm với Hằng Nga, nhưng lại không
nỡ rời xa các con yêu! Các thỏ con cũng không muốn rời xa cha mẹ, thỏ nào cũng
khóc. Thỏ cha nói: “Nếu ta bị nhốt, các con có chịu ở với ta không? Hằng Nga vì
giải cứu bách tính mà bị liên lụy, chẳng lẽ tất cả chúng ta lại không thương nàng? Các
con, tất cả chúng ta không thể chỉ nghĩ đến bản thân!”
Các thỏ con rất hiểu lòng cha, nên đều tán thành đi. Hai vợ chồng thỏ nước mắt lưng
tròng, nhìn các con mỉm cười. Chúng quyết định để thỏ út đi. Thỏ út từ biệt cha
mẹ và các chị, lên cung trăng ở cùng Hằng Nga.
***
Sự tích bánh trung thu
Người Trung Hoa có những món ăn lưu truyền trong dân gian, và có những sử tích
kèm theo nó ví dụ như bánh trung thu, bánh chưng vào ngày tết Đoan Ngọ (loại
bánh chưng này gói có trứng trong đó khác với bánh chưng ngày tết của VN ), bột
vò viên (giống như trôi nước của VN) vào rằm tháng giêng …
Đều có những mẩu chuyện lý thú tương truyền trong dân chúng. bánh trung thu được
coi là biểu tượng của sự phúc lành, sum vầy. Mỗi năm vào ngày rằm tháng tám,
người Trung Hoa sum vầy với gia đình, ăn bánh, trái cây, uống trà và thưởng
ngoạn trăng rằm.
Bánh trung thu người Tàu gọi là bánh Trăng (Nguyệt), ngày xưa hay còn gọi là bánh Hồ
(bánh của người Hồ), bánh nhỏ, bánh đoàn (sum vầy), bánh đoàn viên. Những loại
bánh trên người Tàu ngày xưa dùng để cúng tế, dần dần trở thành bánh dùng để
cúng và ăn vào ngày trung thu.
Bánh Nguyệt có lịch sử lâu dài ở Trung Quốc, sử sách ghi chép từ thời Ân, Chu ở
vùng Triết Giang đã có loại bánh kỷ niệm Thái Sư Văn Trọng gọi là bánh Thái Sư.
Bánh này có thể coi như là thuỷ tổ của bánh trung thu. Vào thời Tây Hán, Trương
Thiên đi Tây Vực mang về Trung Quốc hạt Mè, hạt Hồ đào (walnut), dưa hấu làm
nguyên liệu cho bánh Nguyệt thêm dồi dào. Thời đó hồ đào là nguyên liệu chính
của bánh Nguyệt nên hay còn gọi là bánh Hồ Đào.
Đến thời Đường trong dân gian có những người hành nghề làm bánh, ở Tp
Trường An có những tiệm bánh trứ danh. Tương truyền có một đêm trung thu, Đường
Huyền Tông và Dương Quý Phi ăn bánh Hồ Đào, thuởng ngoạn trăng rằm, Đường Huyền
Tông chê tên bánh Hồ nghe không hay nên đặt tên là bánh Nguyệt cho thơ mộng hơn,
nên từ đó về sau Bánh trung thu có tên là Bánh Nguyệt mà người Tàu dùng cho đến
hiện tại.
Đến thời nhà Tống, tập tục ăn bánh trung thu rất thịnh hành trong giới quý tộc.
Thơ Tống có nhiều nội dung về việc ăn bánh trung thu, thưởng ngoạn Trăng vào
ngày này. Tuy nhiên, trong dân gian việc ăn bánh trung thu mới trở thành phổ
cập. Các nhà kinh doanh nghề bánh dùng mẩu chuyện Hằng Nga trên cung trăng để
làm tăng thị hiếu.
Ngày nay, Bánh trung thu là quà tặng thiết yếu trong ngày trung thu. Lượng bánh
trung thu sản xuất hàng năm vào mùa trung thu ở Đông Nam Á, Đông Á và Trung Quốc
là một con số khổng lồ. Nhiều tiệm bánh ở vùng này nhờ lợi tức mùa bánh trung
thu mà đủ tiêu xài cho cả năm trời.
***
Sự tích chị Hằng Nga
Tương truyền, vào thời xa xưa, trên trời xuất hiện mười ông mặt trời, cùng chiếu
xuống mặt đất nóng đến bốc khói, biển hồ khô cạn, người dân hầu hết không thể
sống nổi. Chuyện này đã làm kinh động đến một người hùng tên là Hậu Nghệ. Anh đã
trèo lên đỉnh núi Côn Lôn, dùng thần lực giương nỏ thần bắn rụng chín ông mặt
trời. Hậu Nghệ đã lập nên thần công cái thế, thu được sự tôn kính và yêu mến
của mọi người, rất nhiều chí sĩ mộ danh đã tìm đến tầm sư học đạo, trong đó có
Bồng Mông là một kẻ tâm thuật bất lương.
Không lâu sau, Hậu Nghệ lấy một người vợ xinh tươi, tốt bụng, tên là Hằng Nga.
Ngoài dạy học săn bắn, cả ngày Hậu Nghệ luôn ở bên cạnh vợ, mọi người đều ngưỡng
mộ đôi vợ chồng trai tài gái sắc này.
Một hôm, Hậu Nghệ đến núi Côn Lôn thăm bạn, trên đường tự dưng gặp được Vương
mẫu nương nương đi qua, bèn xin Vương mẫu thuốc trường sinh bất tử. Nghe
nói, uống thuốc này vào, sẽ mau lẹ được cất cánh lên trời thành tiên. Nhưng Hậu Nghệ
không nỡ rời xa vợ hiền, đành tạm thời mang thuốc bất tử cho Hằng Nga giữ lại.
Hằng Nga cất thuốc vào hộp đựng gương lược của mình, không ngờ đã bị Bồng Mông
nhìn thấy.
Ba ngày sau, Hậu Nghệ dẫn học trò ra ngoài săn bắn, Bồng Mông với tâm địa xấu xa
đã giả vờ lâm bệnh, xin ở lại. Đợi Hậu Nghệ dẫn các học trò đi không lâu, Bồng
Mông tay cầm bảo kiếm, đột nhập vào hậu viện, ép Hằng Nga phải mang ra thuốc bất
tử. Hằng Nga biết mình không phải là đối thủ của Bồng Mông, trong lúc nguy cấp
đã vội vàng mở hộp gương lược, lấy thuốc bất tử ra và uống hết. Hằng Nga uống
thuốc xong, thấy người bỗng nhẹ rời khỏi mặt đất, hướng về cửa sổ và cất cánh lên
trời. Nhưng do Hằng Nga còn nhớ chồng, nên chỉ cất cánh đến mặt trăng là nơi gần với
nhân gian nhất rồi trở thành tiên.
Tối hôm đó, khi Hậu Nghệ về đến nhà, các thị nữ vừa khóc vừa kể lại mẩu chuyện
xảy ra lúc sáng. Hậu Nghệ vừa lo vừa giận, đã rút kiếm tìm giết nghịch đồ, nhưng
Bồng Mông đã trốn đi từ lâu. Hậu Nghệ tức giận nhưng chỉ biết vỗ ngực giậm chân
kêu khóc. Trong lúc thống khổ, Hậu Nghệ đã ngửa cổ lên trời đêm gọi tên vợ hiền.
Khi đó, anh ngạc nhiên phát xuất hiện, trăng ngày hôm nay đặc biệt sáng ngời, mà còn tồn tại
thêm một bóng người động đậy trông giống Hằng Nga. Hậu Nghệ vội sai người đến hậu
hoa viên nơi Hằng Nga yêu thích, lập bàn hương án, đặt lên đó những món ăn và
trái cây mà bình thường Hằng Nga thích ăn nhất, để tế Hằng Nga nơi cung trăng
đang nhớ đến mình.
Sau khoảng thời gian mọi người nghe tin Hằng Nga lên cung trăng thành tiên nữ, đều đã lần
lượt bày hương án dưới ánh trăng, cầu xin Hằng Nga tốt bụng ban cho may mắn và
bình an. Từ đó, phong tục “bái nguyệt” vào tết trung thu được truyền đi trong
dân gian.
***
Sự tích Ngô Cương đốn cây
Mỗi khi ngẩng đầu nhìn trăng vào những đêm trăng tròn, tất cả chúng ta thường thấy có
một cái bóng màu đen giống như một người nào đó đang đứng dưới gốc cây. Tương
truyền vào đời Đường (Trung Quốc) có một truyền thuyết như vậy này: trên mặt
trăng có một cây quế cao đến 500 trượng. Vào thời đó, có một người họ Ngô tên
Cương vốn là một tiều phu, anh ta muốn trở thành tiên nhưng lại không chịu học
hành. Ngọc Hoàng rất tức giận, bảo anh ta rằng: “Nếu đốn ngã được cây quế ở mặt
trăng thì hãy nghĩ đến chuyện đắc đạo thành tiên”. Thế là Ngô Cương bắt tay vào
việc đốn ngã cây quế thần kỳ. Nhưng cứ mỗi nhát chém vào thân cây là vết chém
lại liền ngay. Ngày qua ngày, ước mong đắc đạo thành tiên của Ngô Cương vẫn chưa
thực hiện được. Cái bóng mà tất cả chúng ta thấy nơi mặt trăng chính là hình ảnh Ngô
Cương vẫn đang miệt mài đốn cây với kỳ vọng một ngày nào đó sẽ thực hiện được
nguyện vọng của mình.
***
Sự tích “Đèn kéo quân”
Ngày xưa, gần đến dịp tết Trung thu, theo lệnh Vua, dân chúng nô nức thi nhau
chế ra những chiếc đèn kỳ lạ nhưng không có chiếc đèn nào làm cho vua vừa ý. Bấy
giờ, có một nông dân nghèo khó tên là Lục Đức mồ côi cha, ăn ở với mẹ rất hiếu
thảo. Một hôm nằm mộng, Lục Đức thấy một vị thần râu tóc bạc phơ xuất hiện phán
rằng: “Ta là Thái Thượng Lãn Quân, thấy nhà ngươi nghèo khó nhưng ăn ở hiếu thảo
với mẹ, vậy ta bày cho ngươi cách làm chiếc đèn dâng Vua”.
Ngày tiếp theo theo lời dặn của Thần, Lục Đức cùng mẹ lấy những thân trúc trắng cùng
giấy màu để làm chiếc đèn. Thời gian qua mau, khi chiếc đèn làm xong là ngày rằm
tháng 8 cũng vừa đến. Chàng vui mừng cùng mẹ đem chiếc đèn vào kinh thành dâng
vua. Nhà vua xem, thấy chiếc đèn vừa lạ, vừa nhiều màu sắc lại biết chuyển động
nên rất ưng ý. Khi Vua hỏi ý nghĩa của chiếc đèn, Lục Đức theo lời Thần tâu
rằng: “Thưa hoàng thượng, thân trúc ở giữa đèn là dấu hiệu trục khôn, cái chong chóng
quay sáu mặt biểu tượng cho sáu cá tính của nhân loại: thương, ghét, giận, buồn,
vui, hờn. Cái chong chóng quay luôn luôn, tượng trưng cho nhân loại hay thay đổi
cũng có căn do, này là đạo làm người. Chong chóng quay luôn cũng nhờ ánh đèn soi
sáng, cũng như nhân loại tốt lành cũng nhờ đạo đức. Sáu mặt của chiếc đèn làm
bằng giấy tươi sáng dấu hiệu cá tính của nhân loại”.
Vua truyền đem đèn cho dân chúng cùng xem. Đèn xông lên làm quay chong chóng.
Hiện lên sáu màu sắc rực rỡ là hình ảnh vua, quan, người, ngựa nối đuôi nhau.
Toàn bộ những hình nhân trên đèn được làm bằng giấy. Vua ban thưởng cho mẹ con
Lục Đức rất hậu và phong làm Vạn Hộ Hầu.
Từ đó, mối khi đến Tết Trung thu, nhớ lại sự tích người con hiếu thảo Lục Đức,
dân chúng đua nhau học theo chàng làm ra những chiếc đèn màu rực rỡ gọi là đèn
kéo quân.
***
Sự tích Tết Trung Thu Hàng năm, tới ngày rằm tháng tám âm-lịch, trẻ con khắp nước Việt-Nam được người lớn cho rước đèn, ăn bánh trung-thu và múa lân thật là vui. Ngày lễ ấy gọi là TếtTrung-Thu, hay là Tết Nhi-Đồng. Thực ra, tục vui Tết Trung-Thu đã có từ thời Đường Minh Hoàng bên Trung-Hoa, vào đầu thế kỷ thứ tám (713-755).Sách xưa chép rằng, nhân một đêm rằm tháng tám, khi cùng các quan ngắm trăng, vua Đường ao-ước được lên thăm cung trăng một lần cho biết. Pháp-sư Diệu Pháp Thiên tâu xin làm phép mang vua lên cung trăng. Lên tới cung trăng, Minh Hoàng được chúa tiên tiếp rước, bày tiệc đãi đằng và cho hàng trăm tiên nữ xinh tươi mặc áo lụa mỏng nhiều màu sắc rực rỡ, tay cầm tấm lụa trắng tung múa trên sân, vừa múa vừa hát, gọi là khúc Nghê-Thường vũ y. Vua Đường thích quá; nhờ có khiếu thẩm âm nên vừa trầm trồ khen ngợi vừa lẩm nhẩm học thuộc lòng bài hát và điệu múa mong đem về hoàng cung bày cho các cung nữ trình diễn. Cuối năm đó, quan Tiết Độ Sứ thống trị xứ Tây Lương mang về triều tiến dâng một đoàn vũ nữ với điệu múa Bà-la-môn. Vua thấy điệu múa có nhiều chỗ giống Nghê-Thường vũ y, liền chỉnh đốn hai bài hát và hai điệu làm thành Nghê-Thường vũ y khúc. Về sau các quan cũng học theo vua mang điệu múa hát về các phiên trấn xa xôi nơi họ thống trị rồi dần dần thông dụng khắp dân gian. Tục ngắm trăng, xem ca múa sau biến thành thú vui chơi đêm rằm Trung Thu .Về sau tết Trung Thu lan rộng sang các nước láng giềng và thuộc địa của Trung Hoa. Sách sử Việt không nói rõ dân ta khởi đầu chơi Tết Trung Thu từ lúc nào, chỉ biết hàng mấy trăm năm trước, tổ tiên ta đã theo tục này. Ngay từ đầu tháng tám âm lịch, chợ búa khởi đầu có màu sắc Trung Thu. Lồng đèn, bánh nướng, bánh dẻo đã được bày bán la liệt trong các cửa hiệu rực rỡ ánh đèn. Người mua lẫn người đi xem đông chen như hội.Ngoài các loại đèn giấy, đồ ngọt còn tồn tại các con giống đầu lân, mặt ông địa bày bán đầy các chợ. Những nhà giàu còn bày cỗ Trung Thu để khoe tài nấu nướng của các cô con gái tới tuổi lấy chồng. Đúng vào ngày rằm, các Tp lớn như Hà Nội, Huế, Sài Gòn đều có múa sư tử, múa lân rất náo nhiệt.Tết Trung thu có từ lúc nào?Theo sử sách, Tết Trung thu đã có cách đây tối thiểu 2.000 năm. Từ thời thượng cổ, các vị vua chúa có tục lệ tế mặt trời vào mùa xuân, tế mặt trăng vào mùa thu.Theo Âm lịch, ngày 15 tháng 8 là trung tâm mùa thu được xem là ngày “lành” để làm lễ tế thần mặt trăng.ở nước ta và một số nước châu á khác, ngày 15 tháng 8 Âm lịch hằng năm được lấy làm ngày Tết Trung thu.Tục lệ ăn bánh hình mặt trăng trong dịp Tết Trung thu đã có từ thời Bắc Tống ở Trung Quốc, cách đây trên 1.000 năm.Trong đêm 15 tháng 8 Âm lịch hằng năm, khi trăng rằm tỏa sáng, lễ tế thần mặt trăng khởi đầu. Trên bàn thờ có hoa quả, có bánh hình mặt trăng hay còn gọi là bánh “đoàn viên”, bởi lẽ, trong dịp này, cả gia đình có dịp sum vầy để cùng ăn bánh và cùng thưởng thức ánh trăng thu trong trẻo và bầu không khí ấm áp của đêm rằm đến với mọi nhà.Đêm Trung thu, các em rước đèn, múa sư tử. Ngoài Bắc gọi là múa sư tử, trong Nam gọi là múa lân. Lân hay còn gọi là kỳ lân. Kỳ là tên con đực, lân là tên con cháu. Lân là sinh vật đứng thứ hai trong tứ linh: long (rồng), lân, qui (rùa), phụng (phượng hoàng). Lân là sinh vật thần thoại, thân hươu, móng ngựa, đuôi bò, miệng rộng, mũi to, có một sừng ở ngay giữa trán, lông trên lưng ngũ sắc, lông dưới bụng màu vàng. Tục truyền, lân là sinh vật hiền từ, chỉ có người tốt mới nhìn thấy nó được.Thoạt nhìn, đầu lân giống đầu sư tử. Do vậy, người ta gọi múa lân thành múa sư tử.ở một vài địa phương, có tục các em rước đèn kéo quân trong dịp Tết Trung thu. Đèn kéo quân hình vuông, cao khoảng 80cm, rộng mỗi bề khoảng 50cm. Bốn mặt đều phết giấy Tàu bạch như giấy bóng mờ hiện tại. Phía trên và phía dưới có đường viền sặc sỡ. Bên trong có một tán giấy hình tròn. Khi đốt đèn, hơi lửa bốc lên, tán giấy xoay quanh. Đèn kéo quân hay còn gọi là đèn chạy quân vì hình đoàn quân cứ liên tục kéo đi, chạy đi không ngừng hết vòng nọ đến vòng kia. Chỉ khi nào đèn hết dầu (nến), đèn tắt thì các tán không quay nữa. Đèn có bốn mặt, hình ảnh xem ở mặt nào cũng được.Trẻ em rất thích ăn bánh Trung thu, múa lân và rước đèn kéo quân. Từ đó, Tết Trung thu nghiễm nhiên trở thành Tết của các em từ hàng ngàn năm nay.Tương truyền vào thời xa xưa, có một cặp thỏ tu luyện ngàn năm, đắc đạo thành tiên. Chúng có bốn chú thỏ con trắng tinh và dễ thương. Một hôm, Ngọc Hoàng thượng đế triệu kiến thỏ chồng lên thiên cung. Khi đến Nam thiên môn , nhìn thấy Thái Bạch Kim Tinh dẫn theo thiên tướng dẫn giải Hằng Nga đi ngang. Thỏ tiên không biết đã xảy ra chuyện gì, liền hỏi một vị thần gác cửa. Sau khoảng thời gian nghe xong hoàn cảnh của Hằng Nga , Thỏ tiên cảm thấy Hằng Nga chỉ vì giải cứu bách tính mà vô tình chịu tội, nên rất thương cảm. Nghĩ đến Hằng Nga một mình bị nhốt ở cung trăng, độc thân thống khổ, nếu có người ở với nàng thì thật tốt, chợt nghĩ đến bốn con của mình, Thỏ tiên đã mau lẹ cất cánh trở về nhà.Thỏ tiên đem mẩu chuyện Hằng Nga kể với vợ và nói muốn mang một thỏ con đi làm bạn cùng Hằng Nga . Thỏ vợ tuy vô cùng thông cảm với Hằng Nga, nhưng lại không nỡ rời xa các con yêu! Các thỏ con cũng không muốn rời xa cha mẹ, thỏ nào cũng khóc. Thỏ cha nói: “Nếu ta bị nhốt, các con có chịu ở với ta không? Hằng Nga vì giải cứu bách tính mà bị liên lụy, chẳng lẽ chúng ta lại không thương nàng? Các con, chúng ta không thể chỉ nghĩ đến bản thân!”Các thỏ con rất hiểu lòng cha, nên đều tán thành đi. Hai vợ chồng thỏ nước mắt lưng tròng, nhìn các con mỉm cười. Chúng quyết định để thỏ út đi. Thỏ út từ biệt cha mẹ và các chị, lên cung trăng ở cùng Hằng Nga.Người Trung Hoa có những món ăn lưu truyền trong dân gian, và có những sử tích kèm theo nó ví dụ như bánh trung thu, bánh chưng vào ngày tết Đoan Ngọ (loại bánh chưng này gói có trứng trong đó khác với bánh chưng ngày tết của VN ), bột vò viên (giống như trôi nước của VN) vào rằm tháng giêng …Đều có những mẩu chuyện lý thú tương truyền trong dân chúng. bánh trung thu được xem là biểu tượng của sự phúc lành, sum vầy. Mỗi năm vào ngày rằm tháng tám, người Trung Hoa sum vầy với gia đình, ăn bánh, trái cây, uống trà và thưởng ngoạn trăng rằm.Bánh trung thu người Tàu gọi là bánh Trăng (Nguyệt), ngày xưa hay còn gọi là bánh Hồ (bánh của người Hồ), bánh nhỏ, bánh đoàn (sum vầy), bánh đoàn viên. Những loại bánh trên người Tàu ngày xưa dùng để cúng tế, dần dần trở thành bánh dùng để cúng và ăn vào ngày trung thu.Bánh Nguyệt có lịch sử lâu dài ở Trung Quốc, sử sách ghi chép từ thời Ân, Chu ở vùng Triết Giang đã có loại bánh kỷ niệm Thái Sư Văn Trọng gọi là bánh Thái Sư. Bánh này có thể coi như là thuỷ tổ của bánh trung thu. Vào thời Tây Hán, Trương Thiên đi Tây Vực mang về Trung Quốc hạt Mè, hạt Hồ đào (walnut), dưa hấu làm nguyên liệu cho bánh Nguyệt thêm dồi dào. Thời đó hồ đào là nguyên liệu chính của bánh Nguyệt nên hay còn gọi là bánh Hồ Đào.Đến thời Đường trong dân gian có những người hành nghề làm bánh, ở Tp Trường An có những tiệm bánh trứ danh. Tương truyền có một đêm trung thu, Đường Huyền Tông và Dương Quý Phi ăn bánh Hồ Đào, thuởng ngoạn trăng rằm, Đường Huyền Tông chê tên bánh Hồ nghe không hay nên đặt tên là bánh Nguyệt cho thơ mộng hơn, nên từ đó về sau Bánh trung thu có tên là Bánh Nguyệt mà người Tàu dùng cho đến hiện tại.Đến thời nhà Tống, tập tục ăn bánh trung thu rất thịnh hành trong giới quý tộc. Thơ Tống có nhiều nội dung về việc ăn bánh trung thu, thưởng ngoạn Trăng vào ngày này. Tuy nhiên, trong dân gian việc ăn bánh trung thu mới trở thành phổ cập. Các nhà kinh doanh nghề bánh dùng mẩu chuyện Hằng Nga trên cung trăng để làm tăng thị hiếu.Ngày nay, Bánh trung thu là quà tặng thiết yếu trong ngày trung thu. Lượng bánh trung thu sản xuất hàng năm vào mùa trung thu ở Đông Nam Á, Đông Á và Trung Quốc là một con số khổng lồ. Nhiều tiệm bánh ở vùng này nhờ lợi tức mùa bánh trung thu mà đủ tiêu xài cho cả năm trời.Tương truyền, vào thời xa xưa, trên trời xuất hiện mười ông mặt trời, cùng chiếu xuống mặt đất nóng đến bốc khói, biển hồ khô cạn, người dân hầu hết không thể sống nổi. Chuyện này đã làm kinh động đến một người hùng tên là Hậu Nghệ. Anh đã trèo lên đỉnh núi Côn Lôn, dùng thần lực giương nỏ thần bắn rụng chín ông mặt trời. Hậu Nghệ đã lập nên thần công cái thế, thu được sự tôn kính và yêu mến của mọi người, rất nhiều chí sĩ mộ danh đã tìm đến tầm sư học đạo, trong đó có Bồng Mông là một kẻ tâm thuật bất lương.Không lâu sau, Hậu Nghệ lấy một người vợ xinh tươi, tốt bụng, tên là Hằng Nga. Ngoài dạy học săn bắn, cả ngày Hậu Nghệ luôn ở bên cạnh vợ, mọi người đều ngưỡng mộ đôi vợ chồng trai tài gái sắc này.Một hôm, Hậu Nghệ đến núi Côn Lôn thăm bạn, trên đường tự dưng gặp được Vương mẫu nương nương đi qua, bèn xin Vương mẫu thuốc trường sinh bất tử. Nghe nói, uống thuốc này vào, sẽ mau lẹ được cất cánh lên trời thành tiên. Nhưng Hậu Nghệ không nỡ rời xa vợ hiền, đành tạm thời mang thuốc bất tử cho Hằng Nga giữ lại. Hằng Nga cất thuốc vào hộp đựng gương lược của mình, không ngờ đã bị Bồng Mông nhìn thấy.Ba ngày sau, Hậu Nghệ dẫn học trò ra ngoài săn bắn, Bồng Mông với tâm địa xấu xa đã giả vờ lâm bệnh, xin ở lại. Đợi Hậu Nghệ dẫn các học trò đi không lâu, Bồng Mông tay cầm bảo kiếm, đột nhập vào hậu viện, ép Hằng Nga phải mang ra thuốc bất tử. Hằng Nga biết mình không phải là đối thủ của Bồng Mông, trong lúc nguy cấp đã vội vàng mở hộp gương lược, lấy thuốc bất tử ra và uống hết. Hằng Nga uống thuốc xong, thấy người bỗng nhẹ rời khỏi mặt đất, hướng về cửa sổ và cất cánh lên trời. Nhưng do Hằng Nga còn nhớ chồng, nên chỉ cất cánh đến mặt trăng là nơi gần với nhân gian nhất rồi trở thành tiên.Tối hôm đó, khi Hậu Nghệ về đến nhà, các thị nữ vừa khóc vừa kể lại mẩu chuyện xảy ra lúc sáng. Hậu Nghệ vừa lo vừa giận, đã rút kiếm tìm giết nghịch đồ, nhưng Bồng Mông đã trốn đi từ lâu. Hậu Nghệ tức giận nhưng chỉ biết vỗ ngực giậm chân kêu khóc. Trong lúc thống khổ, Hậu Nghệ đã ngửa cổ lên trời đêm gọi tên vợ hiền. Khi đó, anh ngạc nhiên phát xuất hiện, trăng ngày hôm nay đặc biệt sáng ngời, mà còn tồn tại thêm một bóng người động đậy trông giống Hằng Nga. Hậu Nghệ vội sai người đến hậu hoa viên nơi Hằng Nga yêu thích, lập bàn hương án, đặt lên đó những món ăn và trái cây mà bình thường Hằng Nga thích ăn nhất, để tế Hằng Nga nơi cung trăng đang nhớ đến mình.Sau khoảng thời gian mọi người nghe tin Hằng Nga lên cung trăng thành tiên nữ, đều đã lần lượt bày hương án dưới ánh trăng, cầu xin Hằng Nga tốt bụng ban cho may mắn và bình an. Từ đó, phong tục “bái nguyệt” vào tết trung thu được truyền đi trong dân gian.Mỗi khi ngẩng đầu nhìn trăng vào những đêm trăng tròn, tất cả chúng ta thường thấy có một cái bóng màu đen giống như một người nào đó đang đứng dưới gốc cây. Tương truyền vào đời Đường (Trung Quốc) có một truyền thuyết như vậy này: trên mặt trăng có một cây quế cao đến 500 trượng. Vào thời đó, có một người họ Ngô tên Cương vốn là một tiều phu, anh ta muốn trở thành tiên nhưng lại không chịu học tập. Ngọc Hoàng rất tức giận, bảo anh ta rằng: “Nếu đốn ngã được cây quế ở mặt trăng thì hãy nghĩ đến chuyện đắc đạo thành tiên”. Thế là Ngô Cương bắt tay vào việc đốn ngã cây quế thần kỳ. Nhưng cứ mỗi nhát chém vào thân cây là vết chém lại liền ngay. Ngày qua ngày, ước mong đắc đạo thành tiên của Ngô Cương vẫn chưa thực hiện được. Cái bóng mà tất cả chúng ta thấy nơi mặt trăng chính là hình ảnh Ngô Cương vẫn đang miệt mài đốn cây với kỳ vọng một ngày nào đó sẽ thực hiện được nguyện vọng của mình.Ngày xưa, gần đến dịp tết Trung thu, theo lệnh Vua, dân chúng nô nức thi nhau chế ra những chiếc đèn kỳ lạ nhưng không có chiếc đèn nào làm cho vua vừa ý. Bấy giờ, có một nông dân nghèo khó tên là Lục Đức mồ côi cha, ăn ở với mẹ rất hiếu thảo. Một hôm nằm mộng, Lục Đức thấy một vị thần râu tóc bạc phơ xuất hiện phán rằng: “Ta là Thái Thượng Lãn Quân, thấy nhà ngươi nghèo khó nhưng ăn ở hiếu thảo với mẹ, vậy ta bày cho ngươi cách làm chiếc đèn dâng Vua”.Ngày tiếp theo theo lời dặn của Thần, Lục Đức cùng mẹ lấy những thân trúc trắng cùng giấy màu để làm chiếc đèn. Thời gian qua mau, khi chiếc đèn làm xong là ngày rằm tháng 8 cũng vừa đến. Chàng vui mừng cùng mẹ đem chiếc đèn vào kinh thành dâng vua. Nhà vua xem, thấy chiếc đèn vừa lạ, vừa nhiều màu sắc lại biết chuyển động nên rất ưng ý. Khi Vua hỏi ý nghĩa của chiếc đèn, Lục Đức theo lời Thần tâu rằng: “Thưa bệ hạ, thân trúc ở giữa đèn là biểu hiện trục khôn, cái chong chóng quay sáu mặt biểu tượng cho sáu cá tính của con người: thương, ghét, giận, buồn, vui, hờn. Cái chong chóng quay luôn luôn, tượng trưng cho con người hay thay đổi cũng có căn do, đó là đạo làm người. Chong chóng quay luôn cũng nhờ ánh đèn soi sáng, cũng như con người tốt lành cũng nhờ đạo đức. Sáu mặt của chiếc đèn làm bằng giấy tươi sáng biểu hiện cá tính của con người”.Vua truyền đem đèn cho dân chúng cùng xem. Đèn xông lên làm quay chong chóng. Hiện lên sáu màu sắc rực rỡ là hình ảnh vua, quan, người, ngựa nối đuôi nhau. Toàn bộ những hình nhân trên đèn được làm bằng giấy. Vua ban thưởng cho mẹ con Lục Đức rất hậu và phong làm Vạn Hộ Hầu.Từ đó, mối khi đến Tết Trung thu, nhớ lại sự tích người con hiếu thảo Lục Đức, dân chúng đua nhau học theo chàng làm ra những chiếc đèn màu rực rỡ gọi là đèn kéo quân.
Xem thêm những thông tin liên quan đến đề tài sự tích tết trung thu
SỰ TÍCH TẾT TRUNG THU – Phim Hoạt Hình Tết Trung Thu Đầu Tiên Của Việt Nam – Phim Hoạt Hình 3D
- Tác giả: Kênh Thiếu Nhi – BHMEDIA
- Ngày đăng: 2018-08-08
- Nhận xét: 4 ⭐ ( 5757 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Phim thiếu nhi Cổ Tích Việt Nam 3D: SỰ TÍCH TẾT TRUNG THU – trước tiên của Việt Nam ⭐
🌠 Người lớn uống trà, thưởng trăng, bọn trẻ con phá cỗ tay cầm bánh, tay tung tăng xách đèn cười vui bên lũ bạn, xem múa lân rộn ràng cả đường phố… là những hình ảnh nối liền với Tết Trung Thu từ bao lâu nay.
🌠 Dần dà, những hình ảnh này phai dần đi. Tết Trung Thu đến, bố mẹ bận rộn lo mua bánh biếu, bánh tặng mà quên mất ý nghĩa thực thụ của Trung Thu: Tết của trẻ em.
🌠 Năm nay, giữa muôn vàn sự tích Tết Trung Thu, Con Cưng Studio chọn mẩu chuyện Đoàn Viên làm nguồn xúc cảm cho bộ phim 3D cùng tên, với muốn cùng bố mẹ mang đến cho bé một Trung Thu đúng nghĩa – TRUNG THU CỦA RIÊNG TRẺ EM. Phụ huynh cùng bé xem ngay nhé!
trungthu sutichtettrungthu hoathinhvietnam► Theo dõi kênh Thiếu Nhi – BHMEDIA: https://goo.gl/LiQZ0g
☞ Update video mới hay bằng cách LIKE, SHARE và Sub kênh nhé.Xem thêm:
Hoạt hình Con Rồng Cháu Tiên: https://goo.gl/kVYHRy
Phim Cổ Tích Việt Nam: https://goo.gl/LOv7MdHoạt Hình Mỹ Hầu Vương: https://goo.gl/J7SNUR
Bố Đầu Nhỏ Con Đầu To: https://goo.gl/8fUUBw♫ LK Thiếu Nhi Vui Nhộn: https://goo.gl/mofP1m
♫ Nhạc Cho Trẻ Mầm Non: https://goo.gl/lSC4iA
♫ Bài hát bé yêu thích nhất: https://goo.gl/uBzvDg
————–
Kênh Thiếu Nhi – BHMEDIA luôn nỗ lực mang đến video có ích thú vị nhất.
Rất mong thu được nhiều đóng phản hồi kiến của chúng ta.
Update sản phẩm mới nhanh nhất thì nhanh tay Subcribe kênh nhé. Cám ơn các bạn rất nhiều.
—————
► © Bản quyền thuộc về Con Cưng Studio với sự link truyền thông của BH Media Corp.
Tết Trung Thu: Sự tích và nguồn gốc
- Tác giả: www.doisongphapluat.com
- Nhận xét: 5 ⭐ ( 7956 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Tết Trung thu giờ đây đã trở thành ngày hội với mọi gia đình, nhất là trẻ em. Tết Trung thu đến vào rằm tháng Tám, đang giữa độ mùa thu, mùa mát mẻ và đẹp nhất trong năm.
Sự tích Tết Trung Thu ngắn gọn, mẩu chuyện về Tết Trung Thu
- Tác giả: meta.vn
- Nhận xét: 4 ⭐ ( 1448 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Hòa trong không khí rộn ràng của đêm rằm tháng 8 sắp tới gần, tất cả chúng ta hãy cùng dành thời gian tìm hiểu về nguồn gốc, sự tích Tết Trung thu nhé!
Sự tích thú vị về tết Trung thu
- Tác giả: laodongtre.laodong.vn
- Nhận xét: 4 ⭐ ( 6498 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Tết Trung thu được tổ chức vào Rằm tháng 8 Âm lịch hàng năm. Có rất nhiều sự tích về nguồn gốc của Tết Trung thu .
Những Sự Tích Về Tết Trung Thu Hay Rằm Tháng 8, Sự Tích Tết Trung Thu Việt Nam
- Tác giả: angiangtourism.vn
- Nhận xét: 3 ⭐ ( 7521 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Nguồn gốc và ý nghĩa của Tết Trung ThuTết trung thu diễn ra vào ngày 15 của tháng 8 trong Âm Lịch và đã có từ ngàn năm nay, đây là thời gian mặt trăng tròn nhất và sáng nhất, đây cũng là thời gian người Châu Á thu hoạch xong mùa vụ và khởi đầu tổ chức những lễ hội mà tiêu biểu trong này là lễ hội trăng rằm, Món ăn được người Á Đông lưu tâm nhất trong mùa lễ hội này này là Bánh Trung Thu, với rất nhiều mùi vị khác nhau và thường được thưởng thức với trà, thường là trà đặc
Tết trung thu: Nguồn gốc và Ý nghĩa không phải ai cũng biết
- Tác giả: www.vntrip.vn
- Nhận xét: 4 ⭐ ( 9119 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Ngày Tết trung thu sắp tới rồi nhưng không phải ai cũng hiểu được nguồn gốc và ý nghĩa tết Trung Thu đúng đắn là như vậy nào?
Sự tích Tết trung thu ở Việt Nam cực kỳ thú vị và ý nghĩa
- Tác giả: eva.vn
- Nhận xét: 3 ⭐ ( 5496 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Sự tích Tết trung thu là những mẩu chuyện đầy thú vị về chị Hằng, chú Cuội, thỏ ngọc, đèn ông sao… được rất nhiều trẻ em hào hứng lắng nghe. Cho đến ngày nay dân gian vẫn lưu truyền nhiều sự tích, nguồn gốc và ý nghĩa liên quan tới dịp đặc biệt này.
Xem thêm các nội dung khác thuộc thể loại: giải trí