… cho đời vương quốc Chăm – pa Tên gọi – Lâm Ấp: quốc gia xem vương quốc Chămpa, vốn thuộc huyện Tượng Lâm, quận Nhật Nam thuộc Hán Và theo Lê Văn Siêu tác phẩm “Việt Nam văn minh sử”, vương quốc. .. Thuận Thành, vua Cham -pa quyền tự trị trước 1832, sau
Bạn đang xem: hoa chăm pa ở nước nào
VƯƠNG QUỐC CHĂM PA
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.26 KB, 19 trang )
Biên giới phía Bắc Cham-pa
Biên giới năm 1069
Biên giới năm 1306
Biên giới năm 1471
Biên giới năm 1611
Biên giới năm 1653
Biên giới phía Nam Cham-pa
BẢN ĐỒ CHÍNH TRỊ CỦA VƯƠNG QUỐC CHĂM – PA
𝓐. MỞ ĐẦU
Ι. LÝ DO NGHIÊN CỨU
Đông Nam Á được xem là một khu vực có vai trò trọng yếu trong toàn thể
lịch sử toàn cầu ngay từ thời thượng cổ. Với những dấu hiệu về điều kiện tự nhiên
cũng như kinh tế – xã hội rất thuận tiện và khá tương đồng giữa các nước trong
khu vực mà các quốc gia thượng cổ được tạo dựng rất sớm ở vùng đất này. Trên
lãnh thổ Việt Nam lúc bấy giờ trong quy luật phát triển chung của khu vực cũng
đã xuất hiện nhà nước Văn Lang – Âu Lạc ở Bắc Bộ, còn phần Trung và Nam Bộ
trước khi Việt Nam là một quốc gia thống nhất, tồn tại tiểu quốc này là nhà nước
Chămpa.
Vương quốc này có quá trình tồn tại và phát triển trong khoảng 17 thế kỷ
(từ đầu công nguyên đến thế kỷ XVII), có quan hệ với nhiều quốc gia khác
trong khu vực về chính trị – kinh tế – văn hóa. Đến nay, Chămpa đã trở thành
một phần lãnh thổ không thể tách rời của quốc gia và dân tộc Việt Nam.
Vì vậy việc tìm hiểu về vương quốc Chăm – pa luôn là một vấn đề cơ
bản, trọng yếu và được quan tâm trong lịch sử của dân tộc Việt Nam nói chung
và là một vấn đề nhạy cảm trong quan hệ đối ngoại nói riêng. Đặc biệt, những
năm gần đây, phần lịch sử vương quốc Chăm – pa được mang vào giảng dạy
trong chương trình lịch sử lớp 10 THPT. Với tính chất nhạy cảm và phức tạp
của nó đòi hỏi người giáo viên lịch sử phải nắm vững thực chất của tiến trình
lịch sử để khắc phục các vấn đề dựa trên nền tảng khoa học đúng đắn.
Tuy nhiên, nguồn tư liệu tìm hiểu về vương quốc cổ này phần lớn là tư
liệu gián tiếp, phản ánh chưa đầy đủ, chưa toàn diện, chưa đúng đắn các thời đại,
các sự kiện lịch sử. Bởi vậy, cho đến nay vẫn còn tồn tại nhiều khoảng trống trong
lịch sử Chăm – pa, nhiều tranh chấp gây tranh cãi mà vẫn chưa có lời giải.
II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Quá trình tìm hiểu về vương quốc cổ Chăm – pa là một quá trình từng
bước nhận thức về sự tồn tại của vương quốc này từ tên gọi, phạm vi lãnh thổ,
cương vực, dân cư, nhà nước, tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và các
thời kỳ phát triển…
+ Vương quốc Chăm – pa được phản ánh trong thư tịch cổ Trung Quốc
như Thủy kinh chú, Hậu Hán thư, Tấn thư, Tống thư, Nam Tề thư, Lương thư…
là những tài liệu phản ánh sớm nhất, tương đối điều độ qua từng thời kỳ, nhưng
tập trung hầu hết trong thời kỳ từ đầu công nguyên đến khoảng thế kỉ XII –
XIII, về sau thưa dần. Trên nền tảng phản ánh việc bang giao triều cống của Chăm
– pa so với Trung Quốc, các sử gia Trung Quốc cũng từng ghi chép được những
thông tin cơ bản về địa lý, lịch sử, các sản vật, tập tục, đời sống của dân cư
Chăm – pa.
+ Sau này là những tác phẩm Sử học dưới thời kì phong kiến của Việt
Nam cũng từng nhắc về vương quốc này ở những khía cạnh khác nhau. Song họ
vẫn cho rằng, Chăm – pa là quốc gia nào đó ngoài lãnh thổ của dân tộc Việt
Nam chứ không phải là một phòng ban của dân cư Việt Nam, lãnh thổ Việt Nam.
Ví dụ như trong Đại Việt sử ký toàn thư có nhắc tới vương quốc cổ Chăm – pa
dưới tên gọi là Chiêm Thành với sự thành lập nhà nước Lâm Ấp, nhắc đến mối
quan hệ giữa Chiêm Thành với đời Lý, Trần, nhất là thời Trần.
Hay trong Lịch triều hiến chương loại chí, trong phần Bang giao chí có
đề cập tới mối quan hệ bang giao giữa Chiêm Thành với các triều đại phong
kiến Việt Nam nhất là triều vua Lê Thánh Tông…
+ Từ sau cách mạng tháng Tám trở đi, với những thành tựu của nền khảo
cổ học, những vấn đề liên quan đến nhà nước Chăm – pa được sáng tỏ và quan
tâm hơn, nước Chăm – pa được trả lại đúng vị trí của mình, là một phòng ban, là
một quốc gia được thành lập sớm trên lãnh thổ của nước ta ở phía Nam. Ví dụ
như tác phẩm “Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam” – Trần Quốc Vượng, Hà
Văn Tấn (chương 6: sự thành lập và phát triển của nước Lâm Ấp), “Lịch sử Việt
Nam” – Huỳnh Công Bá – NXb Thuận Hóa, 2004 cũng đề cập một cách toàn
diện về Chămpa…. Đặc biệt đã xuất hiện tác phẩm chuyên khảo “Vương quốc
Chămpa” – Lương Ninh. Đây là công trình tìm hiểu từ nhiều năm từ những
nội dung của tác giả trình bày các thời kỳ phát triển của Chămpa và các vấn đề
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…
Ɓ. NỘI DUNG
Ι. CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VƯƠNG QUỐC
CHĂM – PA
1. Nền tảng tạo dựng
α. Điều kiện tự nhiên
Dải đất miền Trung Việt Nam, địa phận sinh trưởng và phát triển của
Vương quốc Chăm – pa, trải dài xuôi theo bờ biển Đông từ Bắc xuống Nam với
kết cấu đặc trưng là hẹp ngang. Nơi đây bị ngăn cách với vùng lục địa phía
trong bởi dãy Trường Sơn. Ở nhiều nơi, núi ăn sâu ra biển làm cho độ dốc địa
hình rất lớn. Hệ thống sông tuy dày đặc nhưng do dấu hiệu địa hình nên thường
ngắn và dốc, lưu lượng phù sa thấp. Các đồng bằng trong vùng vì vậy thường
nhỏ hẹp, phân bố dọc ven biển và kém màu mỡ hơn các đồng bằng khác ở miền
Bắc và miền Nam. Những dòng sông và những con đèo vắt ngang từ dãy
Trường Sơn ra biển Đông trở thành những ranh giới tự nhiên chia cắt các đồng
bằng duyên hải miền Trung.
Dải đồng bằng ven biển với hệ thống sông dày đặc và khí hậu nhiệt đới
ẩm gió mùa đã tạo điều kiện thuận tiện cho sự phát triển nghề nông trồng lúa
nước. Tuy vậy, do đồng bằng nhỏ, sông dốc gây khó khăn cho công tác thuỷ lợi
nên nông nghiệp trồng lúa nước trong vùng phát triển manh mún, nhỏ hẹp,
không tạo được một nền tảng vững chắc về kinh tế cho Vương quốc.
Vị trí ven biển làm cho dân cư ở đây từ sớm đã thạo đi biển. Nghề đánh
cá phát triển, trở thành một hình thái kinh tế trọng yếu bên cạnh nghề nông trồng
lúa nước. Vị trí đó vừa giúp Chăm – pa mở rộng giao lưu kinh tế và văn hoá với
nước ngoài, nhưng lại vừa tiềm tàng những rủi ro bị xâm lấn từ bên ngoài.
Sự tồn tại của các ranh giới tự nhiên (sông, đèo, núi…) chia cắt các vùng
miền không chỉ khiến sự đi lại, giao lưu khó khăn mà còn làm cho tình trạng
phân tán trong lịch sử Vương quốc khá thông dụng.
ɓ. Sự phát triển liên tục của các nền văn hóa khảo cổ học
Chăm – pa là vương quốc ra đời trên nền tảng những nền văn hóa địa phương,
không phải là nền văn hóa ngoại lai, bắt nguồn từ văn hóa Tiền Sa Huỳnh phát
triển lên văn hóa Sa Huỳnh.
Đồng thời với nền văn hoá Hạ Long, Quỳnh Văn ở miền Bắc; Hàng Gòn,
Cần Giờ (Văn hoá Tiền Óc Eo) ở miền Nam, ở miền Trung xuất hiện các nền
văn hoá Bình Châu, Long Thạnh – sơ kỳ đồng thau (hay thường hay gọi là văn hoá Tiền
Sa Huỳnh) cùng hàng loạt các di tích Bàu Trám, Bàu Né, Gò Miếu, Phú Hoà
(Quảng Nam, Đà Nẵng), Gò Lồi (Quảng Ngãi), Xóm Cồn, Bình Hưng, Mũi Né
(Khánh Hoà)… có thời đại nửa đầu thiên niên kỷ Ι TCN.
Đến khoảng giữa thiên niên kỉ Ι TCN (thế kỉ VII – VI TCN), dân cư miền
Trung tiến vào thời kì hậu kỳ đồ đồng – sơ kỳ đồ sắt với nền văn hoá Sa Huỳnh
phân bố khắp các vị trí từ Quảng Bình đến Đồng Nai và một phần Tây Nguyên.
Văn hoá Sa Huỳnh có sự giao lưu giữa dân cư kim khí Đông Nam Á hải
đảo và Đông Nam Á lục địa. Như vậy, chủ nhân của văn hoá Sa Huỳnh là tộc
người nói tiếng Nam Đảo với nhiều yếu tố Nam Á, là tiền thân của người Chăm.
Trên nền tảng đối chiếu thời đại và các đặc trưng văn hóa ở thời kỳ hậu kỳ
của văn hóa Sa Huỳnh với thời đại, nội dung văn hóa Chăm – pa ở thời kỳ
sớm, kết phù hợp với các thư tịch cổ Trung Quốc viết về Lâm Ấp – Chămpa cho
phép tất cả chúng ta suy luận một cách logic rằng: văn hóa Chămpa được nảy sinh từ
văn hóa Sa Huỳnh.
Từ những đặc trưng về di tích, di vật, không gian phân bố và sự phát triển
văn hóa một cách tiếp nối, liên tục đã cho tất cả chúng ta biết rằng dân cư Sa Huỳnh
đã có một nền nông nghiệp trồng lúa nước rất phát triển. Tuy nhiên là nghề
đánh cá, và nghề thủ công như làm đồ gốm, dệt vải bông, từng bước mở rộng
quan hệ trao đổi buôn bán với những dân cư trong khu vực và Ấn Độ, Trung
Hoa… vì thế đã tạo ra một nền kinh tế phong phú cùng với một nền văn hoá đặc
sắc với những đặc trưng không lẫn vào đâu được.
Với những thành tựu đã đoạt được trên các phương diện của đời sống vật
chất, phương thức hoạt động kinh tế và nhất là sự phát triển của kỹ nghệ
luyện kim sắt, dân cư văn hóa Sa Huỳnh đã nhanh chóng đạt tới đỉnh cao huy
hoàng vào đầu thời kì đồ sắt. Và họ có thể bước vào một xã hội có giai cấp và
nhà nước sơ khai – là tiền đề cho sự ra đời của vương quốc Chăm – pa.
2. Tên gọi
– Lâm Ấp: là một quốc gia được xem là vương quốc trước tiên của
Chămpa, vốn thuộc huyện Tượng Lâm, quận Nhật Nam thuộc Hán. Và theo Lê
Văn Siêu trong tác phẩm “Việt Nam văn minh sử”, vương quốc này tồn tại cho
đến khoảng thế kỷ VII (năm 605), lãnh thổ từ Quảng Bình – Quảng Nam.
– Chămpa: được nghe đến qua tài liệu bia kí dưới vương triều Gangaraja,
có tư liệu cho rằng là thế kỷ VI, tư liệu khác cho rằng năm 875, Lâm Ấp được đổi
tên là Chămpa. Tên Chămpa có thể đặt theo tên 1 địa danh thuộc phía Bắc Ấn
Độ và hạ lưu sông Hằng.
– Chiêm Thành: theo Trần Trọng Kim, là tên gọi được khởi đầu vào
khoảng thế kỉ IX.
3. Dân cư
Đây cũng là một quá trình nhận thức từ những yếu tố chung chung tới
những yếu tố rõ ràng và cụ thể.
+ Thời Hán minh đế, Trương Trọng làm thái thú ở Nhật Nam nói rằng: cư
dân ở đây tính hung tợn, chiến tranh gan góc, quen ở núi ở nước, không quen đất bằng.
+ Nhà Hán gọi các dân tộc ở miền Bắc Việt Nam là dân Bách Việt, tên
tộc Bách Việt (xuất hiện lần trước tiên trong Sử ký – Tư Mã Thiên) để ám chỉ
những tộc người khác nhau, sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam (hầu hết là miền
Nam Trung Quốc và bắc Việt Nam), người Lâm Ấp theo người Hán là một tộc
người ở Bắc Việt.
+ Theo Trần Trọng Kim: dân cư ở đây thuộc giống Mã Lai
+ Theo Lê Văn Siêu: người Lâm Ấp từ miền Nam Ấn Độ hoặc từ hải đảo
đến. Bởi vì căn cứ trên 1 tấm bia khắc ở thế kỉ IX có ghi tên một vị vua khai
sáng nước Lâm Ấp thuộc chi của vương triều Bharagavar của Ấn Độ. Và người
đến Lâm Ấp là những người thuộc dòng dõi quý tộc của Ấn Độ thất thế phải
phiêu dạt sang đây.
+ Trong thời gian gần đây, khảo cổ học đã minh chứng sự có mặt của
người Nam Đảo ở bờ biển Việt Nam từ cuối thiên niên kỉ II TCN. Tuy nhiên,
những đợt thiên di đáng kể của họ đến vùng đất này nằm trong khoảng thời gian
từ 500 năm TCN cho đến đầu CN và tập trung rõ nhất ở Sa Huỳnh. Cũng trong
thời gian này dấu vết những vùng quần cư của họ còn rải rác đến Quảng Bình và
lan đến vùng ven biển tp Hồ Chí Minh ngày nay. Rõ ràng, người Nam
Đảo đã tới bờ biển Việt Nam từ rất sớm, ít ra là từ trên dưới 1000 năm TCN, ăn
đời ở kiếp ở đây và chắc là đã diễn ra một quá trình cộng cư đơn giản, hòa bình
với những nhóm dân cư địa phương sống thưa thớt nhưng có mặt từ trước khi người
Nam Đảo thiên di tới.
Như vậy, có thể thấy rằng, dân cư của vương quốc Chămpa ở thời điểm đầu
tiên: là kết quả của sự cộng cư lâu dài của hai nhóm người: nhóm địa phương Môn
cổ hay Nam Á (tức người núi) thuộc ngữ hệ Môn – Khmer và nhóm Nam Đảo
(tức người biển) thuộc ngữ hệ Malayo – Polynesia mới di cư vào trong thời kỳ
đầu thiên niên kỉ Ι TCN.
Cũng trên địa phận văn hóa Sa Huỳnh, truyền thuyết Chăm có nói đến 2 bộ
lạc Cau và Dừa. Bia kí Chăm thế kỉ IX đề cập lại vấn đề này. Từ hai bộ tộc này
tạo dựng nên hai tiểu quốc Bắc Chăm và Nam Chăm. Tên tộc Cau – Dừa mất
đi khi tộc chung thống nhất ra đời và gọi theo tên nước – tộc người Chăm.
4. Cương vực
– Theo Tấn thư: thì Lâm Ấp giáp biên giới với Phù Nam
– Việt Nam sử lược: khoảng từ Quảng Bình – Quảng Trị.
– Lê Văn Siêu: cương giới của Lâm Ấp hầu hết ở Quảng Nam và Bình Định.
Tóm lại, dựa trên những tư liệu thành văn và khảo cổ học, cương vực
nước Lâm Ấp mà sau này là Chămpa gồm các dải đồng bằng ven biển Duyên
hải miền Trung và một phần cao nguyên, từ Sông Gianh (Quảng Bình) đến sông
Dinh – Bình Thuận.
Vương quốc Chămpa được chia thành 5 khu vực, đây có thể là tên những
địa phương:
+ Amarapati ngày nay thuộc Quảng Nam
+ Indrapura tên kinh dô ở khu vực Quảng Nam
+ Vijaya nay thuộc Bình Định
+ Kauthara nay thuộc Nha Trang
+ Panduganra nay thuộc Phan Thiết.
Như vậy, sự ra đời của vương quốc Chămpa được bắt nguồn từ văn hóa
Sa Huỳnh và sự phối hợp giữa dân cư địa phương cùng với các tộc người Nam Đảo di
cư tới theo đường thủy. Đồng thời, trong quá trình ra đời nhà nước Chămpa,
bằng đoạn đường hoà bình, văn minh Ấn Độ đã xâm nhập và có một địa vị quan
trọng trong đời sống của dân cư, từ tôn giáo tín ngưỡng đến thiết chế chính trị
và phương thức tổ chức xã hội…
II. CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN VÀ SUY VONG CỦA LỊCH SỬ
VƯƠNG QUỐC CHĂMPA.
1. Thời kỳ sơ kỳ vương quốc Chămpa (II – Ҳ)
Cuối thế kỉ II TCN, nhà Hán đã chinh phục các vùng đất phía nam thành
quận huyện trực thuộc Đế chế Hán. Nhà Hán đặt toàn thể dải đất miền Trung
phía Nam sông Gianh thành quận Nhật Nam, gồm 5 huyện, trong đó, huyện xa
nhất nằm ở phía nam đèo Hải Vân (Quảng Nam, Quảng Ngãi) là huyện Tượng
Lâm (nghĩa là Rừng Voi).
Trên nền tảng phát triển cao của nền kinh tế thời văn hoá Sa Huỳnh, xã hội
Cham-pa phân hoá ngày càng sắc nét. Nhưng sự phân hoá này về cơ bản vẫn là
sự phân hoá giàu nghèo. Tranh chấp xã hội hầu hết trong xã hội Cham-pa là
tranh chấp giữa những người bị thống trị với chính quyền nhà Hán thống trị tàn
bạo. Vì vậy, hàng loạt trận đấu tranh của nhân dân các quận huyện đã liên tục
bùng phát.
Riêng ở huyện Tượng Lâm, theo sử Trung Quốc, chỉ trong vòng 100
năm, nhân dân đã 7 lần khởi nghĩa.
Đến đời Hán Sơ Bình (190-193), dân Tượng Lâm phối phù hợp với dân 2
quận Cửu Chân và Nhật Nam, dưới sự lãnh đạo của Khu Liên thuộc dòng dõi
của bộ tộc Dừa, đánh đuổi quân Hán và giành thắng lợi. “Khu” không phải là
tên riêng mà là tước vị, phiên âm từ chữ “Kurung” (như các vua Hùng của người
Việt cổ – hay chữ “Varman” của người Chăm từ tiếng Phạn, có nghĩa là tộc
trưởng, thủ lĩnh hay vua).
Năm 192, vương quốc Cham-pa trước tiên ở phía bắc ra đời, sử Trung
Quốc gọi là Lâm Ấp (huyện Tượng Lâm trong tiếng Hán gọi là Tượng Lâm Ấp,
sau bỏ chữ Tượng và chỉ gọi là Lâm Ấp). Có giả thuyết cho rằng Lâm Ấp (đọc là
Lin-yi) là phiên âm tiếng Hán của từ Li-u (nghĩa là “dừa”) trong tiếng Chăm cổ,
vì vậy, tên gọi Lâm Ấp có thể lấy theo tên của bộ tộc Dừa đã lập nước.
Bộ lạc Dừa (Narikela vam’sa) cư trú ở vùng Quảng Nam, Bình Định và
bộ lạc Cau (Kramuka vam’sa) ở vùng Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình
Thuận ngày nay. Sau khoảng thời gian giành được độc lập, hai bộ lạc đã thống nhất thành
Vương quốc Cham-pa. Các vua Lâm Ấp dựa vào lực lượng quân sự hùng hậu,
tiến hành các cuộc tấn công các nước láng giềng, mở rộng lãnh thổ. Đến thế kỉ
VI, lãnh thổ vương quốc cổ Cham-pa đã kéo dài suốt dọc đồng bằng ven biển
miền Trung Việt Nam, từ Đèo Ngang (Bắc Quảng Bình) đến sông Dinh (Hàm
Tân, Bình Thuận).
Như vậy, vương quốc Cham-pa ra đời là không chỉ là kết quả trực tiếp của
một trận đấu tranh giành độc lập, thoát khỏi ách đô hộ của nhà Hán mà đang là
kết quả của tiến trình thống nhất các bộ tộc và các trận chiến tranh xâm lược
mở rộng lãnh thổ, dựa trên nền tảng phát triển cao của nền văn hoá Sa Huỳnh và
dưới tác động của những yếu tố văn hoá ngoại sinh Trung Hoa, Ấn Độ.
Vương quốc cổ Cham-pa phát triển qua 3 thời kỳ:
1.1.Thời kỳ Vương triều Sin-ha-pu-ra (II – giữa VIII)
Kinh đô trước tiên ở Sin-ha-pu-ra (“Thành phố Sư tử”) nay là Trà Kiệu
(Duy Xuyên, Quảng Nam) nên gọi là Vương triều Sin-ha-pu-ra.
Lãnh thổ trải dài từ Quảng Bình đến Khánh Hoà.
1.2.Thời kỳ Vương triều Vi-ra-pu-ra (giữa VIII – 854)
Vương triều Vi-ra-pu-ra (Vương triều Ra-ja-pu-ra) là vương triều của các
dòng vua miền Nam, lập năm 757, tồn tại trong gần 1 thế kỉ, gồm 6 đời vua.
Kinh đô ở Vi-ra-pu-ra nay thuộc Phan Rang.
Tên nước là Pan-du-ran-ga (tiếng Hin-đu, tiếng Chăm cổ là Pan-ran) hay
là Hoàn Vương quốc (sự trở về của vương quyền)
Địa phận bao gồm 2 tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận ngày nay.
Thành tựu nổi trội nhất mà thời kỳ này để lại cho tất cả chúng ta ngày nay này là
hệ thống Tháp Chàm mang phong thái rất riêng (Phố Hài, Hoà Lai, Po Nagar).
1.3.Thời kỳ Vương triều In-dra-pu-ra (859-982)
Vương triều của các dòng vua miền bắc, gồm 12 đời vua.
Đóng đô ở In-dra-pu-ra (Đồng Dương, Thăng Bình, Quảng Nam).
Khoảng giữa thế kỉ IX, tên gọi Cham-pa trở thành tên gọi chính thức
xuyên suốt lịch sử Cham-pa. Tuy nhiên, dựa trên nội dung một số bia ký, nhiều
học giả nhất định rằng tên gọi Cham-pa đã xuất hiện ngay từ thế kỉ VI, thậm
chí không ít người nhất định rằng tên gọi này có thể ra đời ngay từ thế kỉ IV,
thời vua Bha-dra-var-man.
2. Thời kì thống nhất và thịnh vượng – thời kì Vijaya (Ҳ – XV)
Kinh đô là Chà Bàn (Vi-jay-a) gọi theo tiếng Chăm cổ là Cha Ban,
Chanar Pal, lấy theo tên hiệu của đức vua sáng lập (nghĩa là thắng lợi) thuộc
Nhơn Hậu, An Nhơn, Bình Định. Sử Trung Quốc gọi là Phật Thệ (Phật Thành)
(hay Tân Châu, Đại Châu). Thời kỳ này được chia làm 3 thời kỳ.
+ Thời kỳ thống nhất và phát triển (XI – XIII)
+ Thời kỳ phát triển thịnh đạt (XIII – giữa thế kỉ XIV)
+ Thời kỳ khủng hoảng (cuối thế kỉ XIV – 1471)
Sự phát triển đỉnh cao dưới hai vương triều:
Sin-ha-var-man III (1265-1277) (In-dra-var-man, 1277-1285)
Sin-ha-var-man 𝒱 (sử gọi là Chế Mân, 1285-1307).
Hai vị vua này đã lãnh đạo nhân dân Cham-pa tiến hành cuộc kháng
chiến chống xâm lược Mông Nguyên thắng lợi. Đồng thời, Cham-pa tiếp tục mở
rộng lãnh thổ về phía Tây, bao gồm cả một phần cao nguyên Trường Sơn, làm
chủ cả vùng ven biển Đông.
Sự phát triển hùng mạnh được duy trì đến thời kỳ vua Po Binasor, hiệu
là Chế Bồng Nga, đã 4 lần đem quân tấn công thẳng vào kinh đô Đại Việt.
Trong cuộc tấn công ra Thăng Long lần thứ 4 (1390), Chế Bồng Nga bị tướng ta
là Trần Khát Chân giết chết.
Từ đó trở đi, Chiêm Thành ngày càng bị thu hẹp lãnh thổ xuống phía
nam. Sau trận chiến năm 1471 của vua Lê Thánh Tông thì nhà nước Chiêm
Thành đã suy yếu đến mức hầu hết không còn được nhắc đến trong sử sách.
3. Thời kì khủng hoảng và suy vong (sau 1471)
Do nền tảng kinh tế thiếu vững chắc cộng với các trận chiến tranh hao
người tốn của với Đại Việt, Cam-pu-chia, lãnh thổ Cham-pa từ sau thế kỉ XI
ngày càng bị thu hẹp.
Thế kỉ XI, Cham-pa cắt ba châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh (Quảng Bình
và Bắc Quảng Trị) cho nhà Lý.
Thế kỉ XIV, để xin cưới công chúa Huyền Trân, vua Chế Mân đã dâng
cho nhà Trần là hai châu Ô, Lý (Nam Quảng Trị và Thừa Thiên).
Thời Hồ, Cham-pa phải cắt 2 châu Chiêm Động, Cổ Luỹ (Quảng Nam,
Quảng Ngãi). Biên giới Cham-pa lùi vào Bình Định.
Năm 1471, Cham-pa gây hấn với Đại Việt. Vua Lê Thánh Tông đã thân
chinh đánh dẹp, đẩy biên giới Cham-pa lùi về phía nam đèo Cả (Phú Yên).
Năm 1653, chúa Nguyễn đã lệnh Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh đánh dẹp
và lập trấn Thuận Thành. Sự tồn tại của Vương quốc Cham-pa đến đây về cơ
bản chấm hết, tuy nhiên, chúa Nguyễn và thời kỳ đầu nhà Nguyễn vẫn cho
phép Cham-pa thực hiện cơ chế tự trị trên phạm vi Ninh Thuận, Bình Thuận
hiện tại.
Đến năm 1832, cuộc đổi mới của vua Minh Mạng xác lập nhà cung cấp hành
chính thống nhất trong cả nước đã đổi trấn Thuận Thành thành tỉnh Bình Thuận.
Từ đó, Cham-pa trở thành một phòng ban thống nhất, không thể tách rời của Tổ
quốc Việt Nam.
4. Nguyên nhân suy vong của Chămpa
+ Địa phận của quốc gia Cham-pa cổ là duyên hải hẹp dọc miền Trung.
Trong buổi đầu, nó là nền tảng kinh tế – xã hội trọng yếu để thành lập vương quốc
cổ. Nhưng về sau, địa phận này gây khó khăn trở ngại cho sự phát triển trình độ
sản xuất và đời sống kinh tế của Vương quốc Cham-pa, làm cho dân cư Champa ngày càng lạc hậu đi trong phát triển sản xuất.
Vương quốc này cũng không vượt qua cái khung dân số thiết yếu để tự nó
thỏa mãn với cục diện của mình. Như vậy, Cham-pa thiếu một nền tảng kinh tế
vững chắc cho sự tồn tại của quốc gia thống nhất.
+ Trong lịch sử Cham-pa, tình trạng chia rẽ, tản quyền thông dụng trong nội
bộ vương quốc đã làm cho quốc gia tự suy yếu đi rất nhiều. Đó có thể coi là
“tấn bi kịch chính trị” của nhà nước Cham-pa.
+ Đường lối sai lầm, nhất là trong quyết sách đối nội – đối ngoại của các
vương triều Cham-pa. Đây là điểm hầu hết quyết định vận mệnh của Cham-pa.
Trong 10 thế kỉ đầu, khi còn sung sức, còn khả năng thuận tiện để phát
triển thì lại dồn mọi nỗ lực đất tranh vùng đất phía Bắc trong điều kiện cực kỳ
khó khăn.
Trong các thế kỉ XI – XII lại ra sức đối địch với 2 vương quốc mạnh –
Đại Việt và Cam-pu-chia phát triển cực thịnh. Hành động này đã phung phí sức
mạnh quốc gia, gây tổn hại không sao bù đắp được, làm cho quốc gia kiệt quệ
và suy sụp nhanh chóng.
Sự xuất hiện của chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong như một sự
tự dưng của lịch sử song lại hoàn toàn tất yếu. Đang trên đà tăng trưởng và có xu
hướng mở rộng lãnh thổ vào Nam để tạo thành thế đối chọi với chính quyền
Đàng Ngoài, trong lúc triều đình mạt kỳ Cham-pa lại duy trì một thái độ kỳ thị,
luôn luôn chống đối, chúa Nguyễn buộc phải gạt bỏ những rào cản cuối cùng
trên đoạn đường Nam tiến của mình. Năm 1653, quốc gia Cham-pa chính thức
trở thành một phòng ban của lãnh thổ Việt Nam với tên gọi trấn Thuận Thành,
nhưng các vua Cham-pa còn được quyền tự trị cho đến trước 1832, sau đổi mới
hành chính của Minh Mạng.
Như vậy, quá trình tạo dựng và suy vong của vương quốc Chămpa trải
qua rất nhiều thời kỳ khác nhau. Chămpa được xem là một trong những
vương quốc thượng cổ ra đời sớm nhất trên lãnh thổ Việt Nam. Trong quá trình
thành lập này nó đã tiếp thụ văn hóa Ấn Độ, Trung Quốc trong đó hầu hết là
văn hóa Ấn Độ. Trong quá trình đó người ta thấy Chămpa liên tục gây xung đột
và có xu thế mở rộng lãnh thổ lên phía Bắc. Tuy nhiên cuối cũng Chămpa
cũng bị sáp nhật vào lãnh thổ Việt Nam như một tất yếu.
III. TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ, KINH TẾ, XÃ HỘI, VĂN HÓA CỦA
VƯƠNG QUỐC CHĂM – PA.
1. Chính trị:
α. Tổ chức bộ máy nhà nước: Lâm Ấp khi mới thành lập, sau một quá trình
phụ thuộc vào nhà Hán nên cũng có tác động ít nhiều đến phương thức tổ chức chính
quyền phong kiến sau thời điểm giành độc lập. Trong số đó: uy quyền lớn nhất thuộc về nhà
vua, tên vua thường gắn với tên một vị thần. Nhà vua thường đội mũ cao, viền hoa
vàng, có tua lông bằng lụa. Mỗi lần vua đi đâu thường ngồi kiệu vải mềm, có giá
gỗ cho 4 người khiêng. Nhân dân thấy vua phải quỳ xuống, song quan lại yết kiến
vua chỉ phải vái mà thôi.
Dưới vua có 2 chức quan lớn là Tây – na – bà – đế tức người đứng đầu
hàng ngũ quan võ và Tát – bà – địa – ca có vẻ là người đứng đầu quan văn. Dưới
nữa là thuộc quan, trong số này có 8 viên quan lại thượng hạng. Dưới thời Vijaya, hệ
thống quan lại của Chămpa hoàn thiện hơn: bên cạnh vua có Phó vương và Thứ
vương, do anh hoặc em vua đảm trách; trông coi mọi việc ở các miền vẫn là 8
viên quan lại lớn, mỗi miền 2 vị. ngoài ra còn tồn tại trên 50 văn lại các cấp đảm
nhiệm công việc thống trị và thu thuế, 12 viên chức giữ kho đụn, 50 viên quan coi
việc quân. Ngoài ra còn tồn tại các tăng lữ Bàlamon đảm nhiệm những chức sắc cao
cấp về tôn giáo. Các quan chức đều không có lương mà do nhân dân phân phối
các thức chi dùng.
ɓ. Hệ thống hành chính: bao gồm nhiều nhà cung cấp hành chính lớn, nhỏ khác
nhau. Do lịch sử Chăm – pa là lịch sử của những biến động nên sự sắp xếp
những nhà cung cấp hành chính cũng có nhiều xáo trộn. Dưới thời Vijaya cả vương
quốc Chămpa được chia làm 4 quận, cả nước có 38 châu lớn nhỏ, có hơn 100
thôn lạc, mỗi thôn có từ 300 đến 500 hộ, bên cạnh thôn lạc cũng đặt huyện, trấn.
ͼ. Quân đội và pháp luật: Để đảm bảo quyền thống trị, vua Chămpa
thường duy trì một đạo quân thường trực đông đảo, nhất là dưới thời vua Chế
Bồng Nga. Quân đội thường trực đông đến 4, 5 vạn người, Chế Bồng Nga có
một đội thân binh 5000 người lúc nào cũng kề cận ông ta. Quân đội Chămpa
gồm đầy đủ các binh chủng: bộ binh, tượng binh, kị binh, và thủy binh. Quân sĩ
được nhà vua cấp cho lương thực, quần áo, trang bị vũ khí là lao, kích, nỏ, mũi
tên bằng tre có tẩm thuốc độc. Ngoài ra, các vua còn lấy sức xây đắp hệ thống
thành lũy khổng lồ và rải rác tại nhiều nơi – Trà Bàn (An Nhơn – Bình Định) là
thành trọng yếu nhất.
Về pháp luật, trong lịch sử Cham-pa, không hề thấy có bóng hình của
pháp luật hay thể chế. Nhà vua thống trị quốc gia bằng uy quyền của thần linh,
hài lòng tin và sự bảo lãnh của thánh thần. Điều này chứng tỏ các quan hệ xã
hội trong xã hội Chăm – pa còn tương đối đơn giản.
{d}. Ngoại giao:
Với Trung Quốc: thúc đẩy của Trung Quốc so với Cham-pa yếu ớt hơn
so với Đại Việt và Cam-pu-chia, vì vậy, Cham-pa thường dùng đoạn đường ngoại
giao hoà bình, hàng năm vẫn cho người đem sản vật quý cống nạp cho vương
triều phương Bắc. Tuy nhiên nó vẫn luôn chứa đựng những xung đột giữa một bên
muốn đô hộ và một bên vừa muốn độc lập vừa muốn mở rộng lãnh thổ.
Với Cam-pu-chia: khi thân thiện khi đánh nhau (nhất là trong thời kỳ
1113-1220 gây tổn hại nghiêm trọng đến tiềm lực quốc gia)
Với Đại Việt: tương đối phức tạp: không ít lần link, trợ giúp nhau, là
đồng minh của nhau trong chiến trường. Nhưng cũng không ít lần hai bên giao chiến
kịch liệt. Trong mối quan hệ giữa Đại Việt và Chăm – pa, vấn đề ranh giới lãnh
thổ luôn là vấn đề nóng bỏng trong từng thời kỳ lịch sử. Qua nhiều đoạn đường
khác nhau: hôn phối – hòa bình, chiến tranh – xung đột, tuy nhiên còn tồn tại con
đường thứ ba trổ tài rõ nhất từ thời Trần – Hồ là sự phối hợp giữa dân Việt và
Chăm trong quá trình khai phá những vùng đất mới, từng bước đã sáp nhập lãnh
thổ của Chăm – pa trở thành một phòng ban của lãnh thổ Đại Việt.
2. Kinh tế:
α. Nông nghiệp: là hoạt động kinh tế chính của dân cư Chăm – pa, họ
sớm nghe đến việc trồng nhiều loại lúa khác nhau. Ruộng cấy 2 mùa: mùa thu
trồng lúa trắng, mùa xuân trồng lúa đỏ. Ngoài ra ở những vùng cao, họ còn
trồng bắp, đậu, mè và các loại khoai, bầu, bí…Bên cạnh làm ruộng, người Chăm
còn làm vườn, đánh cá, khai thác lâm thổ sản, đặc biệt họ còn làm nghề trồng
dâu, nuôi tằm.
ɓ. Thủ công nghiệp: dân cư Chămpa đã làm các nghề khai thác vàng, sản
xuất muối, làm đồ gốm, dệt, nhuộm vải…Bên cạnh nghề thủ công nổi tiếng như
nghề gốm, trạm khắc…, các nghề thủ công khác của Chămpa cũng rất phát triển.
Người Chămpa có rất nhiều kinh nghiệm trong việc đãi, nấu, đúc và khảm vàng.
Về nghề dệt: kỹ thuật dệt của người Chăm rất tinh xảo, họ sử dụng các loại tơ tằm,
sợi bông…để dệt lên những tấm vải hoặc thổ cẩm đầy hoa văn và hình ảnh. Người
Chăm đã biết lợi dụng ánh sáng mặt trời để phát triển nghề sản xuất muối…
ͼ. Thương nghiệp: Việc trao đổi kinh tế – văn hoá với toàn cầu hải đảo
Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương trong lịch sử Cham-pa luôn luôn được đẩy
mạnh. Bờ biển miền Trung nổi tiếng với những cảng thị từng được ghi vào hải
đồ của nhiều thương nhân Ấn Độ, Trung Hoa, 𝓐-rập như cảng Hội An (Quảng
Nam) và Thị Nại (Bình Định). Đây là nơi cập bến bắt buộc của mọi tàu thuyền
trên đường thương mại Ấn Độ – Trung Quốc để tránh giống bão, san hô đá ngầm
đồng thời mua nước ngọt và lương thực dự trữ. Hơn nữa, do Cham-pa có rất
nhiều sản vật quý như đồ gốm, dụng cụ đồng, sắt, hương liệu, nhất là gỗ
trầm, gỗ kỳ nam…nên trong suốt thời gian tồn tại của mình, nhất là trong giai
đoạn từ Ҳ – XV, Cham-pa đã giữ vai trò như một đầu mối, một trung tâm
thương mại liên vùng. Người Chăm quản lý cả vùng biển Đông, thậm chí còn
đại diện cho cả Phi-lip-pin trong quan hệ ngoại giao và buôn bán với Trung
Quốc.
3. Xã hội:
3.1. Cơ cấu xã hội
Xã hội Cham-pa cho tới thế kỉ XVII phân hoá chưa rõ ràng:
Quý tộc: tạo dựng từ vương triều Đồng Dương, nhưng không sắc nét. Quý
tộc Cham-pa có sự hoà trộn phối hợp chặt chẽ giữa quan chức và các nhà tu hành.
Đa phần là nông dân làm ruộng, giữ vai trò hầu hết trong việc đảm bảo
những nhu cầu cơ bản của vương quốc, sống trong các công xã – làng (gra-ma).
Nô lệ cũng có vai trò rất trọng yếu. Nô lệ có nguồn gốc từ tội phạm, tù
binh chiến tranh hay do buôn bán. Nô lệ chỉ phục vụ triều đình và quý tộc, nhất
là phục vụ trong các đền miếu.
3.2. Quan hệ xã hội
Xã hội Chăm còn lưu giữ những dấu vết của quan hệ cộng đồng thượng cổ đi
liền với chính sách mẫu hệ đậm nét.
Chính sách mẫu hệ hiện tại vẫn tồn tại ở người Chăm miền Trung. Tuy đàn
ông thực tiễn đóng vai trò to lớn trong cuộc sống nhưng chủ gia đình luôn là
người đàn bà cao tuổi. Phong tục Chăm qui định con gái theo họ mẹ. Nhà gái
cưới chồng cho con. Con trai ở rể nhà vợ. Chỉ con gái được thừa kế tài sản, đặc
biệt người con gái út phải nuôi dưỡng cha mẹ già nên được phần chia tài sản lớn
hơn các chị.
Xã hội Chăm thời kỳ đầu chịu ràng buộc Trung Quốc nhiều hơn ảnh
hưởng Ấn Độ. Nhưng sau đó, thương nhân và tu sĩ Ấn Độ khởi đầu giao tiếp dần
với người Chăm, truyền cho giới quí tộc địa phương văn minh, văn hóa của họ,
và luôn cả phương thức tổ chức xã hội.
4. Văn hóa
4. 1. Chữ viết
Tiếp thụ chữ Phạn – Ấn Độ, người Chăm đã sáng tạo ra chữ viết riêng của
mình này là hệ thống chữ Chăm cổ để ghi chép tiếng nói của mình gồm 16
nguyên âm, 31 phụ âm, khoảng 32 dấu âm sắc và chính tả, lần trước tiên xuất hiện
trên minh văn Đông Yên Châu thế kỷ IV. Đến thế kỷ XV, người Chăm nâng cấp
chữ Chăm cổ thành những nét thoáng đạt hơn, được sử dụng đến ngày nay.
4.2 Thiết kế, điêu khắc
Chịu ràng buộc của văn hóa Ấn Độ, nhất là Hin đu giáo.
– Thiết kế Chămpa là lối xây đền tháp bằng gạch có trang trí thêm những
bức phù điêu, lá nhĩ, trụ đá…Tháp thường có hình vuông với một cửa ra vào và 3
cửa giả ở 3 mặt kia. Các cửa đều có trang trí vòm cuốn với hình thức hoa văn
phong phú, đường nét mạnh khỏe, mỗi thời một kiểu. Hình tháp thường có 3 tầng,
càng lên cao càng nhỏ lại, mỗi tầng mô phỏng vòm cuốn của tầng dưới. Trên chóp
tháp là một khối đá nhọn. Thiết kế Chămpa có các phong thái như phong thái
Mỹ Sơn E1, Hòa Lai, Đồng Dương, Mỹ Sơn A1 và phong thái Bình Định.
– Điêu khắc: trong thời kỳ đầu, hầu như các tượng trong văn nghệ điêu
khắc Chămpa đều là tượng thần, tuy nhiên trong một số trường hợp có thể tìm
thấy ở đó tính chất hiện thực, sinh động, tươi tắn và duyên dáng ví như tượng thần
Parvati thuộc thế kỷ VIII trông rất giống người con gái bình thường, tươi tắn với
nụ cười mỉm, nét mặt thanh tú của người Nam Á và bộ tóc tết kiểu Chăm mới lạ
chẳng thua kém gì những pho tượng bán thân nổi tiếng toàn cầu hay tượng vũ nữ
Apsara Trà Kiệu…
Dưới thời kỳ Vijaya, này là những pho tượng tròn và các loại phù điêu
trang trí trên thân tháp và bệ thờ. Từng tượng có vẻ như muốn nở tung ra, bứt
khỏi hạn chế của thiết kế. Vào thời kỳ cuối, thiết kế cũng như điêu khắc
Chăm trở nên khô khắt, ngang bướng, đánh mất sự truyền cảm say đắm của thời
kỳ đầu. Điều đó trổ tài kìm hãm, cạn sức sống và suy tàn của nền văn hóa này.
4.3 Tôn giáo, tín ngưỡng
Thời kỳ đầu lập quốc quý tộc Chămpa đã tiếp thụ và sử dụng ngay hệ
thống thần quyền của Ấn Độ qua sự truyền bá của các tu sĩ, thương nhân Ấn Độ
đến đây. Họ tôn thờ các thần sơ khai của người Ấn, đứng đầu là thần Indra – vị
thần chủ của các thần, tiếp theo là thần Brama, thần Visnu, thần Siva, có cả đạo
Phật phái Đại thừa. Hàng loạt đền miếu, tự viện Phật giáo, tượng thần bằng đá,
bằng đồng và cả bằng vàng được tạo lập chiếm vị trí trung tâm, trang trọng trên
lãnh thổ của vương quốc.
Tín ngưỡng: dân cư Chămpa đã nối liền và hơn nữa còn đồng nhất tổ tiên
với các vị thần nào đó để thờ cúng và sùng kính. Sự sùng kính đó thân thiết và
sâu sắc đến nỗi người ta cảm thấy hình như các hình thức tôn giáo chỉ là cái
vỏ, và cái vỏ nào cũng được, còn cái ruột, cái thực chất lắng đọng chính là tình
cảm so với tổ tiên.
4.4. Phong tục – tập quán:
Người Chăm rất lễ phép, gặp nhau thường chắp tay vái lạy hay cúi đầu
chào. Họ cũng có tục ăn trầu và nhuộm răng đen như người Việt.
Trong thư tịch cổ Việt Nam, Trung Hoa và cả trong văn bia Chăm đã ghi
chép về tang lễ, người ta hỏa thiêu thi hài người chết, rồi vứt tro xương vụn xuống
sông, suối, sau thời điểm xếp mấy mảnh xương sọ vào trong hộp klong bằng vàng, đồng
hay đất nung, cất chỗ kín một thời gian, vài năm rồi mới mang về nhà.
Người phụ nữ có vai trò trọng yếu so với đời sống gia đình, cộng đồng
và trong sản xuất. Trong lễ cưới, người con gái đóng vai trò chủ động, vào ngày
cưới một thầy Bàlamôn dắt chàng rể đến gặp cô dâu. Ở đây quan hệ huyết thống
tính theo dòng tộc mẹ.
KẾT LUẬN
Như vậy, trên nền tảng những tìm hiểu ban đầu về vương quốc Chămpa, có
thể thấy rằng, dân cư Chăm – pa đã tạo lập cho quốc gia mình một nền văn minh
rực rỡ với khả năng sáng tạo tuyệt vời. Tuy thời gian tồn tại của vương quốc
này không dài nhưng đã có một vị trí trọng yếu trong khu vực, khi sáp nhập
vào lãnh thổ Việt Nam đã góp phần tạo thành sự đa dang, là một phòng ban không
thể thiếu của văn minh Đại Việt.
Vấn đề đề ra sau thời điểm tìm hiểu về vương quốc Chăm – pa là vì sao nói
quá trình sáp nhập Chăm – pa vào Đại Việt là quá trình hội nhập tất yếu của lịch
sử? Và sự giao lưu văn hóa Đại Việt – Chămpa trổ tài như vậy nào?
MỤC LỤC
và là một vấn đề nhạy cảm trong quan hệ đối ngoại nói riêng. Đặc biệt, nhữngnăm gần đây, phần lịch sử vương quốc Chăm – pa được mang vào giảng dạytrong chương trình lịch sử lớp 10 THPT. Với tính chất nhạy cảm và phức tạpcủa nó đòi hỏi người giáo viên lịch sử phải nắm vững thực chất của tiến trìnhlịch sử để khắc phục các vấn đề dựa trên nền tảng khoa học đúng đắn.Tuy nhiên, nguồn tư liệu tìm hiểu về vương quốc cổ này phần lớn là tưliệu gián tiếp, phản ánh chưa đầy đủ, chưa toàn diện, chưa đúng đắn các thời đại,các sự kiện lịch sử. Bởi vậy, cho đến nay vẫn còn tồn tại nhiều khoảng trống tronglịch sử Chăm – pa, nhiều tranh chấp gây tranh cãi mà vẫn chưa có lời giải.II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀQuá trình tìm hiểu về vương quốc cổ Chăm – pa là một quá trình từngbước nhận thức về sự tồn tại của vương quốc này từ tên gọi, phạm vi lãnh thổ,cương vực, dân cư, nhà nước, tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và cácgiai đoạn phát triển…+ Vương quốc Chăm – pa được phản ánh trong thư tịch cổ Trung Quốcnhư Thủy kinh chú, Hậu Hán thư, Tấn thư, Tống thư, Nam Tề thư, Lương thư…là những tài liệu phản ánh sớm nhất, tương đối điều độ qua từng thời kỳ, nhưngtập trung hầu hết trong thời kỳ từ đầu công nguyên đến khoảng thế kỉ XII –XIII, về sau thưa dần. Trên nền tảng phản ánh việc bang giao triều cống của Chăm- pa so với Trung Quốc, các sử gia Trung Quốc cũng từng ghi chép được nhữngthông tin cơ bản về địa lý, lịch sử, các sản vật, tập tục, đời sống của cư dânChăm – pa.+ Sau này là những tác phẩm Sử học dưới thời kì phong kiến của ViệtNam cũng từng nhắc về vương quốc này ở những khía cạnh khác nhau. Song họvẫn cho rằng, Chăm – pa là quốc gia nào đó ngoài lãnh thổ của dân tộc ViệtNam chứ không phải là một phòng ban của dân cư Việt Nam, lãnh thổ Việt Nam.Ví dụ như trong Đại Việt sử ký toàn thư có nhắc tới vương quốc cổ Chăm – padưới tên gọi là Chiêm Thành với sự thành lập nhà nước Lâm Ấp, nhắc đến mốiquan hệ giữa Chiêm Thành với đời Lý, Trần, nhất là thời Trần.Hay trong Lịch triều hiến chương loại chí, trong phần Bang giao chí cóđề cập tới mối quan hệ bang giao giữa Chiêm Thành với các triều đại phongkiến Việt Nam nhất là triều vua Lê Thánh Tông…+ Từ sau cách mạng tháng Tám trở đi, với những thành tựu của nền khảocổ học, những vấn đề liên quan đến nhà nước Chăm – pa được sáng tỏ và quantâm hơn, nước Chăm – pa được trả lại đúng vị trí của mình, là một phòng ban, làmột quốc gia được thành lập sớm trên lãnh thổ của nước ta ở phía Nam. Ví dụnhư tác phẩm “Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam” – Trần Quốc Vượng, HàVăn Tấn (chương 6: sự thành lập và phát triển của nước Lâm Ấp), “Lịch sử ViệtNam” – Huỳnh Công Bá – NXb Thuận Hóa, 2004 cũng đề cập một cách toàndiện về Chămpa…. Đặc biệt đã xuất hiện tác phẩm chuyên khảo “Vương quốcChămpa” – Lương Ninh. Đây là công trình tìm hiểu từ nhiều năm từ nhữngbài viết của tác giả trình bày các thời kỳ phát triển của Chămpa và các vấn đềkinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…Ɓ. NỘI DUNGI. CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VƯƠNG QUỐCCHĂM – PA1. Nền tảng hình thànha. Điều kiện tự nhiênDải đất miền Trung Việt Nam, địa phận sinh trưởng và phát triển củaVương quốc Chăm – pa, trải dài xuôi theo bờ biển Đông từ Bắc xuống Nam vớicấu tạo đặc trưng là hẹp ngang. Nơi đây bị ngăn cách với vùng lục địa phíatrong bởi dãy Trường Sơn. Ở nhiều nơi, núi ăn sâu ra biển làm cho độ dốc địahình rất lớn. Hệ thống sông tuy dày đặc nhưng do dấu hiệu địa hình nên thườngngắn và dốc, lưu lượng phù sa thấp. Các đồng bằng trong vùng vì vậy thườngnhỏ hẹp, phân bố dọc ven biển và kém màu mỡ hơn các đồng bằng khác ở miềnBắc và miền Nam. Những dòng sông và những con đèo vắt ngang từ dãyTrường Sơn ra biển Đông trở thành những ranh giới tự nhiên chia cắt các đồngbằng duyên hải miền Trung.Dải đồng bằng ven biển với hệ thống sông dày đặc và khí hậu nhiệt đớiẩm gió mùa đã tạo điều kiện thuận tiện cho sự phát triển nghề nông trồng lúanước. Tuy vậy, do đồng bằng nhỏ, sông dốc gây khó khăn cho công tác thuỷ lợinên nông nghiệp trồng lúa nước trong vùng phát triển manh mún, nhỏ hẹp,không tạo được một nền tảng vững chắc về kinh tế cho Vương quốc.Vị trí ven biển làm cho dân cư ở đây từ sớm đã thạo đi biển. Nghề đánhcá phát triển, trở thành một hình thái kinh tế trọng yếu bên cạnh nghề nông trồnglúa nước. Vị trí đó vừa giúp Chăm – pa mở rộng giao lưu kinh tế và văn hoá vớinước ngoài, nhưng lại vừa tiềm tàng những rủi ro bị xâm lấn từ bên ngoài.Sự tồn tại của các ranh giới tự nhiên (sông, đèo, núi…) chia cắt các vùngmiền không chỉ khiến sự đi lại, giao lưu khó khăn mà còn làm cho tình trạngphân tán trong lịch sử Vương quốc khá thông dụng.ɓ. Sự phát triển liên tục của các nền văn hóa khảo cổ họcChăm – pa là vương quốc ra đời trên nền tảng những nền văn hóa địa phương,không phải là nền văn hóa ngoại lai, bắt nguồn từ văn hóa Tiền Sa Huỳnh pháttriển lên văn hóa Sa Huỳnh.Đồng thời với nền văn hoá Hạ Long, Quỳnh Văn ở miền Bắc; Hàng Gòn,Cần Giờ (Văn hoá Tiền Óc Eo) ở miền Nam, ở miền Trung xuất hiện các nềnvăn hoá Bình Châu, Long Thạnh – sơ kỳ đồng thau (hay thường hay gọi là văn hoá TiềnSa Huỳnh) cùng hàng loạt các di tích Bàu Trám, Bàu Né, Gò Miếu, Phú Hoà(Quảng Nam, Đà Nẵng), Gò Lồi (Quảng Ngãi), Xóm Cồn, Bình Hưng, Mũi Né(Khánh Hoà)… có thời đại nửa đầu thiên niên kỷ Ι TCN.Đến khoảng giữa thiên niên kỉ Ι TCN (thế kỉ VII – VI TCN), dân cư miềnTrung tiến vào thời kì hậu kỳ đồ đồng – sơ kỳ đồ sắt với nền văn hoá Sa Huỳnhphân bố khắp các vị trí từ Quảng Bình đến Đồng Nai và một phần Tây Nguyên.Văn hoá Sa Huỳnh có sự giao lưu giữa dân cư kim khí Đông Nam Á hảiđảo và Đông Nam Á lục địa. Như vậy, chủ nhân của văn hoá Sa Huỳnh là tộcngười nói tiếng Nam Đảo với nhiều yếu tố Nam Á, là tiền thân của người Chăm.Trên nền tảng đối chiếu thời đại và các đặc trưng văn hóa ở thời kỳ hậu kỳcủa văn hóa Sa Huỳnh với thời đại, nội dung văn hóa Chăm – pa ở giai đoạnsớm, kết phù hợp với các thư tịch cổ Trung Quốc viết về Lâm Ấp – Chămpa chophép tất cả chúng ta suy luận một cách logic rằng: văn hóa Chămpa được nảy sinh từvăn hóa Sa Huỳnh.Từ những đặc trưng về di tích, di vật, không gian phân bố và sự phát triểnvăn hóa một cách tiếp nối, liên tục đã cho tất cả chúng ta biết rằng dân cư Sa Huỳnhđã có một nền nông nghiệp trồng lúa nước rất phát triển. Tuy nhiên là nghềđánh cá, và nghề thủ công như làm đồ gốm, dệt vải bông, từng bước mở rộngquan hệ trao đổi buôn bán với những dân cư trong khu vực và Ấn Độ, TrungHoa… vì thế đã tạo ra một nền kinh tế phong phú cùng với một nền văn hoá đặcsắc với những đặc trưng không lẫn vào đâu được.Với những thành tựu đã đoạt được trên các phương diện của đời sống vậtchất, phương thức hoạt động kinh tế và nhất là sự phát triển của kỹ nghệluyện kim sắt, dân cư văn hóa Sa Huỳnh đã nhanh chóng đạt tới đỉnh cao huyhoàng vào đầu thời kì đồ sắt. Và họ có thể bước vào một xã hội có giai cấp vànhà nước sơ khai – là tiền đề cho sự ra đời của vương quốc Chăm – pa.2. Tên gọi- Lâm Ấp: là một quốc gia được xem là vương quốc trước tiên củaChămpa, vốn thuộc huyện Tượng Lâm, quận Nhật Nam thuộc Hán. Và theo LêVăn Siêu trong tác phẩm “Việt Nam văn minh sử”, vương quốc này tồn tại chođến khoảng thế kỷ VII (năm 605), lãnh thổ từ Quảng Bình – Quảng Nam.- Chămpa: được nghe đến qua tài liệu bia kí dưới vương triều Gangaraja,có tư liệu cho rằng là thế kỷ VI, tư liệu khác cho rằng năm 875, Lâm Ấp được đổitên là Chămpa. Tên Chămpa có thể đặt theo tên 1 địa danh thuộc phía Bắc ẤnĐộ và hạ lưu sông Hằng.- Chiêm Thành: theo Trần Trọng Kim, là tên gọi được khởi đầu vàokhoảng thế kỉ IX.3. Cư dânĐây cũng là một quá trình nhận thức từ những yếu tố chung chung tớinhững yếu tố rõ ràng và cụ thể.+ Thời Hán minh đế, Trương Trọng làm thái thú ở Nhật Nam nói rằng: cưdân ở đây tính hung tợn, chiến tranh gan góc, quen ở núi ở nước, không quen đất bằng.+ Nhà Hán gọi các dân tộc ở miền Bắc Việt Nam là dân Bách Việt, têntộc Bách Việt (xuất hiện lần trước tiên trong Sử ký – Tư Mã Thiên) để ám chỉnhững tộc người khác nhau, sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam (hầu hết là miềnNam Trung Quốc và bắc Việt Nam), người Lâm Ấp theo người Hán là một tộcngười ở Bắc Việt.+ Theo Trần Trọng Kim: dân cư ở đây thuộc giống Mã Lai+ Theo Lê Văn Siêu: người Lâm Ấp từ miền Nam Ấn Độ hoặc từ hải đảođến. Bởi vì căn cứ trên 1 tấm bia khắc ở thế kỉ IX có ghi tên một vị vua khaisáng nước Lâm Ấp thuộc chi của vương triều Bharagavar của Ấn Độ. Và ngườiđến Lâm Ấp là những người thuộc dòng dõi quý tộc của Ấn Độ thất thế phảiphiêu dạt sang đây.+ Trong thời gian gần đây, khảo cổ học đã minh chứng sự có mặt củangười Nam Đảo ở bờ biển Việt Nam từ cuối thiên niên kỉ II TCN. Tuy nhiên,những đợt thiên di đáng kể của họ đến vùng đất này nằm trong khoảng thời giantừ 500 năm TCN cho đến đầu CN và tập trung rõ nhất ở Sa Huỳnh. Cũng trongthời gian này dấu vết những vùng quần cư của họ còn rải rác đến Quảng Bình vàlan đến vùng ven biển tp Hồ Chí Minh ngày nay. Rõ ràng, người NamĐảo đã tới bờ biển Việt Nam từ rất sớm, ít ra là từ trên dưới 1000 năm TCN, ănđời ở kiếp ở đây và chắc là đã diễn ra một quá trình cộng cư đơn giản, hòa bìnhvới những nhóm dân cư địa phương sống thưa thớt nhưng có mặt từ trước khi ngườiNam Đảo thiên di tới.Như vậy, có thể thấy rằng, dân cư của vương quốc Chămpa ở thời điểm đầutiên: là kết quả của sự cộng cư lâu dài của hai nhóm người: nhóm địa phương Môncổ hay Nam Á (tức người núi) thuộc ngữ hệ Môn – Khmer và nhóm Nam Đảo(tức người biển) thuộc ngữ hệ Malayo – Polynesia mới di cư vào trong giai đoạnđầu thiên niên kỉ Ι TCN.Cũng trên địa phận văn hóa Sa Huỳnh, truyền thuyết Chăm có nói đến 2 bộlạc Cau và Dừa. Bia kí Chăm thế kỉ IX đề cập lại vấn đề này. Từ hai bộ tộc nàyhình thành nên hai tiểu quốc Bắc Chăm và Nam Chăm. Tên tộc Cau – Dừa mấtđi khi tộc chung thống nhất ra đời và gọi theo tên nước – tộc người Chăm.4. Cương vực- Theo Tấn thư: thì Lâm Ấp giáp biên giới với Phù Nam- Việt Nam sử lược: khoảng từ Quảng Bình – Quảng Trị.- Lê Văn Siêu: cương giới của Lâm Ấp hầu hết ở Quảng Nam và Bình Định.Tóm lại, dựa trên những tư liệu thành văn và khảo cổ học, cương vựcnước Lâm Ấp mà sau này là Chămpa gồm các dải đồng bằng ven biển Duyênhải miền Trung và một phần cao nguyên, từ Sông Gianh (Quảng Bình) đến sôngDinh – Bình Thuận.Vương quốc Chămpa được chia thành 5 khu vực, đây có thể là tên nhữngđịa phương:+ Amarapati ngày nay thuộc Quảng Nam+ Indrapura tên kinh dô ở khu vực Quảng Nam+ Vijaya nay thuộc Bình Định+ Kauthara nay thuộc Nha Trang+ Panduganra nay thuộc Phan Thiết.Như vậy, sự ra đời của vương quốc Chămpa được bắt nguồn từ văn hóaSa Huỳnh và sự phối hợp giữa dân cư địa phương cùng với các tộc người Nam Đảo dicư tới theo đường thủy. Đồng thời, trong quá trình ra đời nhà nước Chămpa,bằng đoạn đường hoà bình, văn minh Ấn Độ đã xâm nhập và có một địa vị quantrọng trong đời sống của dân cư, từ tôn giáo tín ngưỡng đến thiết chế chính trịvà phương thức tổ chức xã hội…II. CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN VÀ SUY VONG CỦA LỊCH SỬVƯƠNG QUỐC CHĂMPA.1. Thời kỳ sơ kỳ vương quốc Chămpa (II – Ҳ)Cuối thế kỉ II TCN, nhà Hán đã chinh phục các vùng đất phía nam thànhquận huyện trực thuộc Đế chế Hán. Nhà Hán đặt toàn thể dải đất miền Trungphía Nam sông Gianh thành quận Nhật Nam, gồm 5 huyện, trong đó, huyện xanhất nằm ở phía nam đèo Hải Vân (Quảng Nam, Quảng Ngãi) là huyện TượngLâm (nghĩa là Rừng Voi).Trên nền tảng phát triển cao của nền kinh tế thời văn hoá Sa Huỳnh, xã hộiCham-pa phân hoá ngày càng sắc nét. Nhưng sự phân hoá này về cơ bản vẫn làsự phân hoá giàu nghèo. Tranh chấp xã hội hầu hết trong xã hội Cham-pa làmâu thuẫn giữa những người bị thống trị với chính quyền nhà Hán thống trị tànbạo. Vì vậy, hàng loạt trận đấu tranh của nhân dân các quận huyện đã liên tụcbùng nổ.Riêng ở huyện Tượng Lâm, theo sử Trung Quốc, chỉ trong vòng 100năm, nhân dân đã 7 lần khởi nghĩa.Đến đời Hán Sơ Bình (190-193), dân Tượng Lâm phối phù hợp với dân 2quận Cửu Chân và Nhật Nam, dưới sự lãnh đạo của Khu Liên thuộc dòng dõicủa bộ tộc Dừa, đánh đuổi quân Hán và giành thắng lợi. “Khu” không phải làtên riêng mà là tước vị, phiên âm từ chữ “Kurung” (như các vua Hùng của ngườiViệt cổ – hay chữ “Varman” của người Chăm từ tiếng Phạn, có nghĩa là tộctrưởng, thủ lĩnh hay vua).Năm 192, vương quốc Cham-pa trước tiên ở phía bắc ra đời, sử TrungQuốc gọi là Lâm Ấp (huyện Tượng Lâm trong tiếng Hán gọi là Tượng Lâm Ấp,sau bỏ chữ Tượng và chỉ gọi là Lâm Ấp). Có giả thuyết cho rằng Lâm Ấp (đọc làLin-yi) là phiên âm tiếng Hán của từ Li-u (nghĩa là “dừa”) trong tiếng Chăm cổ,vì vậy, tên gọi Lâm Ấp có thể lấy theo tên của bộ tộc Dừa đã lập nước.Bộ lạc Dừa (Narikela vam’sa) cư trú ở vùng Quảng Nam, Bình Định vàbộ lạc Cau (Kramuka vam’sa) ở vùng Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, BìnhThuận ngày nay. Sau khoảng thời gian giành được độc lập, hai bộ lạc đã thống nhất thànhVương quốc Cham-pa. Các vua Lâm Ấp dựa vào lực lượng quân sự hùng hậu,tiến hành các cuộc tấn công các nước láng giềng, mở rộng lãnh thổ. Đến thế kỉVI, lãnh thổ vương quốc cổ Cham-pa đã kéo dài suốt dọc đồng bằng ven biểnmiền Trung Việt Nam, từ Đèo Ngang (Bắc Quảng Bình) đến sông Dinh (HàmTân, Bình Thuận).Như vậy, vương quốc Cham-pa ra đời là không chỉ là kết quả trực tiếp củamột trận đấu tranh giành độc lập, thoát khỏi ách đô hộ của nhà Hán mà còn làkết quả của tiến trình thống nhất các bộ tộc và các trận chiến tranh xâm lượcmở rộng lãnh thổ, dựa trên nền tảng phát triển cao của nền văn hoá Sa Huỳnh vàdưới tác động của những yếu tố văn hoá ngoại sinh Trung Hoa, Ấn Độ.Vương quốc cổ Cham-pa phát triển qua 3 thời kỳ:1.1.Thời kỳ Vương triều Sin-ha-pu-ra (II – giữa VIII)Kinh đô trước tiên ở Sin-ha-pu-ra (“Thành phố Sư tử”) nay là Trà Kiệu(Duy Xuyên, Quảng Nam) nên gọi là Vương triều Sin-ha-pu-ra.Lãnh thổ trải dài từ Quảng Bình đến Khánh Hoà.1.2.Thời kỳ Vương triều Vi-ra-pu-ra (giữa VIII – 854)Vương triều Vi-ra-pu-ra (Vương triều Ra-ja-pu-ra) là vương triều của cácdòng vua miền Nam, lập năm 757, tồn tại trong gần 1 thế kỉ, gồm 6 đời vua.Kinh đô ở Vi-ra-pu-ra nay thuộc Phan Rang.Tên nước là Pan-du-ran-ga (tiếng Hin-đu, tiếng Chăm cổ là Pan-ran) haylà Hoàn Vương quốc (sự trở về của vương quyền)Địa phận bao gồm 2 tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận ngày nay.Thành tựu nổi trội nhất mà thời kỳ này để lại cho tất cả chúng ta ngày nay đó làhệ thống Tháp Chàm mang phong thái rất riêng (Phố Hài, Hoà Lai, Po Nagar).1.3.Thời kỳ Vương triều In-dra-pu-ra (859-982)Vương triều của các dòng vua miền bắc, gồm 12 đời vua.Đóng đô ở In-dra-pu-ra (Đồng Dương, Thăng Bình, Quảng Nam).Khoảng giữa thế kỉ IX, tên gọi Cham-pa trở thành tên gọi chính thứcxuyên suốt lịch sử Cham-pa. Tuy nhiên, dựa trên nội dung một số bia ký, nhiềuhọc giả nhất định rằng tên gọi Cham-pa đã xuất hiện ngay từ thế kỉ VI, thậmchí không ít người nhất định rằng tên gọi này có thể ra đời ngay từ thế kỉ IV,thời vua Bha-dra-var-man.2. Thời kì thống nhất và thịnh vượng – thời kì Vijaya (Ҳ – XV)Kinh đô là Chà Bàn (Vi-jay-a) gọi theo tiếng Chăm cổ là Cha Ban,Chanar Pal, lấy theo tên hiệu của đức vua sáng lập (nghĩa là thắng lợi) thuộcNhơn Hậu, An Nhơn, Bình Định. Sử Trung Quốc gọi là Phật Thệ (Phật Thành)(hay Tân Châu, Đại Châu). Thời kỳ này được chia làm 3 thời kỳ.+ Thời kỳ thống nhất và phát triển (XI – XIII)+ Thời kỳ phát triển thịnh đạt (XIII – giữa thế kỉ XIV)+ Thời kỳ khủng hoảng (cuối thế kỉ XIV – 1471)Sự phát triển đỉnh cao dưới hai vương triều:Sin-ha-var-man III (1265-1277) (In-dra-var-man, 1277-1285)Sin-ha-var-man 𝒱 (sử gọi là Chế Mân, 1285-1307).Hai vị vua này đã lãnh đạo nhân dân Cham-pa tiến hành cuộc khángchiến chống xâm lược Mông Nguyên thắng lợi. Đồng thời, Cham-pa tiếp tục mởrộng lãnh thổ về phía Tây, bao gồm cả một phần cao nguyên Trường Sơn, làmchủ cả vùng ven biển Đông.Sự phát triển hùng mạnh được duy trì đến thời kỳ vua Po Binasor, hiệulà Chế Bồng Nga, đã 4 lần đem quân tấn công thẳng vào kinh đô Đại Việt.Trong cuộc tấn công ra Thăng Long lần thứ 4 (1390), Chế Bồng Nga bị tướng talà Trần Khát Chân giết chết.Từ đó trở đi, Chiêm Thành ngày càng bị thu hẹp lãnh thổ xuống phíanam. Sau trận chiến năm 1471 của vua Lê Thánh Tông thì nhà nước ChiêmThành đã suy yếu đến mức hầu hết không còn được nhắc đến trong sử sách.3. Thời kì khủng hoảng và suy vong (sau 1471)Do nền tảng kinh tế thiếu vững chắc cộng với các trận chiến tranh haongười tốn của với Đại Việt, Cam-pu-chia, lãnh thổ Cham-pa từ sau thế kỉ XIngày càng bị thu hẹp.Thế kỉ XI, Cham-pa cắt ba châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh (Quảng Bìnhvà Bắc Quảng Trị) cho nhà Lý.Thế kỉ XIV, để xin cưới công chúa Huyền Trân, vua Chế Mân đã dângcho nhà Trần là hai châu Ô, Lý (Nam Quảng Trị và Thừa Thiên).Thời Hồ, Cham-pa phải cắt 2 châu Chiêm Động, Cổ Luỹ (Quảng Nam,Quảng Ngãi). Biên giới Cham-pa lùi vào Bình Định.Năm 1471, Cham-pa gây hấn với Đại Việt. Vua Lê Thánh Tông đã thânchinh đánh dẹp, đẩy biên giới Cham-pa lùi về phía nam đèo Cả (Phú Yên).Năm 1653, chúa Nguyễn đã lệnh Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh đánh dẹpvà lập trấn Thuận Thành. Sự tồn tại của Vương quốc Cham-pa đến đây về cơbản chấm hết, tuy nhiên, chúa Nguyễn và thời kỳ đầu nhà Nguyễn vẫn chophép Cham-pa thực hiện cơ chế tự trị trên phạm vi Ninh Thuận, Bình Thuậnhiện nay.Đến năm 1832, cuộc đổi mới của vua Minh Mạng xác lập nhà cung cấp hànhchính thống nhất trong cả nước đã đổi trấn Thuận Thành thành tỉnh Bình Thuận.Từ đó, Cham-pa trở thành một phòng ban thống nhất, không thể tách rời của Tổquốc Việt Nam.4. Nguyên nhân suy vong của Chămpa+ Địa phận của quốc gia Cham-pa cổ là duyên hải hẹp dọc miền Trung.Trong buổi đầu, nó là nền tảng kinh tế – xã hội trọng yếu để thành lập vương quốccổ. Nhưng về sau, địa phận này gây khó khăn trở ngại cho sự phát triển trình độsản xuất và đời sống kinh tế của Vương quốc Cham-pa, làm cho dân cư Champa ngày càng lạc hậu đi trong phát triển sản xuất.Vương quốc này cũng không vượt qua cái khung dân số thiết yếu để tự nóđáp ứng với cục diện của mình. Như vậy, Cham-pa thiếu một nền tảng kinh tếvững chắc cho sự tồn tại của quốc gia thống nhất.+ Trong lịch sử Cham-pa, tình trạng chia rẽ, tản quyền thông dụng trong nộibộ vương quốc đã làm cho quốc gia tự suy yếu đi rất nhiều. Đó có thể coi là“tấn bi kịch chính trị” của nhà nước Cham-pa.+ Đường lối sai lầm, nhất là trong quyết sách đối nội – đối ngoại của cácvương triều Cham-pa. Đây là điểm hầu hết quyết định vận mệnh của Cham-pa.Trong 10 thế kỉ đầu, khi còn sung sức, còn khả năng thuận tiện để pháttriển thì lại dồn mọi nỗ lực đất tranh vùng đất phía Bắc trong điều kiện cực kỳkhó khăn.Trong các thế kỉ XI – XII lại ra sức đối địch với 2 vương quốc mạnh –Đại Việt và Cam-pu-chia phát triển cực thịnh. Hành động này đã phung phí sứcmạnh quốc gia, gây tổn hại không sao bù đắp được, làm cho quốc gia kiệt quệvà suy sụp nhanh chóng.Sự xuất hiện của chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong như một sựtình cờ của lịch sử song lại hoàn toàn tất yếu. Đang trên đà tăng trưởng và có xuhướng mở rộng lãnh thổ vào Nam để tạo thành thế đối chọi với chính quyềnĐàng Ngoài, trong lúc triều đình mạt kỳ Cham-pa lại duy trì một thái độ kỳ thị,luôn luôn chống đối, chúa Nguyễn buộc phải gạt bỏ những rào cản cuối cùngtrên đoạn đường Nam tiến của mình. Năm 1653, quốc gia Cham-pa chính thứctrở thành một phòng ban của lãnh thổ Việt Nam với tên gọi trấn Thuận Thành,nhưng các vua Cham-pa còn được quyền tự trị cho đến trước 1832, sau cải cáchhành chính của Minh Mạng.Như vậy, quá trình tạo dựng và suy vong của vương quốc Chămpa trảiqua rất nhiều thời kỳ khác nhau. Chămpa được xem là một trong nhữngvương quốc thượng cổ ra đời sớm nhất trên lãnh thổ Việt Nam. Trong quá trìnhthành lập này nó đã tiếp thụ văn hóa Ấn Độ, Trung Quốc trong đó hầu hết làvăn hóa Ấn Độ. Trong quá trình đó người ta thấy Chămpa liên tục gây xung độtvà có xu thế mở rộng lãnh thổ lên phía Bắc. Tuy nhiên cuối cũng Chămpacũng bị sáp nhật vào lãnh thổ Việt Nam như một tất yếu.III. TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ, KINH TẾ, XÃ HỘI, VĂN HÓA CỦAVƯƠNG QUỐC CHĂM – PA.1. Chính trị:α. Tổ chức bộ máy nhà nước: Lâm Ấp khi mới thành lập, sau một quá trìnhlệ thuộc vào nhà Hán nên cũng có tác động ít nhiều đến phương thức tổ chức chínhquyền phong kiến sau thời điểm giành độc lập. Trong số đó: uy quyền lớn nhất thuộc về nhàvua, tên vua thường gắn với tên một vị thần. Nhà vua thường đội mũ cao, viền hoavàng, có tua lông bằng lụa. Mỗi lần vua đi đâu thường ngồi kiệu vải mềm, có giágỗ cho 4 người khiêng. Nhân dân thấy vua phải quỳ xuống, song quan lại yết kiếnvua chỉ phải vái mà thôi.Dưới vua có 2 chức quan lớn là Tây – na – bà – đế tức người đứng đầuhàng ngũ quan võ và Tát – bà – địa – ca có vẻ là người đứng đầu quan văn. Dướinữa là thuộc quan, trong số này có 8 viên quan lại thượng hạng. Dưới thời Vijaya, hệthống quan lại của Chămpa hoàn thiện hơn: bên cạnh vua có Phó vương và Thứvương, do anh hoặc em vua đảm trách; trông coi mọi việc ở các miền vẫn là 8viên quan lại lớn, mỗi miền 2 vị. ngoài ra còn tồn tại trên 50 văn lại các cấp đảmnhiệm công việc thống trị và thu thuế, 12 viên chức giữ kho đụn, 50 viên quan coiviệc quân. Ngoài ra còn tồn tại các tăng lữ Bàlamon đảm nhiệm những chức sắc caocấp về tôn giáo. Các quan chức đều không có lương mà do nhân dân cung cấpcác thức chi dùng.ɓ. Hệ thống hành chính: bao gồm nhiều nhà cung cấp hành chính lớn, nhỏ khácnhau. Do lịch sử Chăm – pa là lịch sử của những biến động nên sự sắp xếpnhững nhà cung cấp hành chính cũng có nhiều xáo trộn. Dưới thời Vijaya cả vươngquốc Chămpa được chia làm 4 quận, cả nước có 38 châu lớn nhỏ, có hơn 100thôn lạc, mỗi thôn có từ 300 đến 500 hộ, bên cạnh thôn lạc cũng đặt huyện, trấn.ͼ. Quân đội và pháp luật: Để đảm bảo quyền thống trị, vua Chămpathường duy trì một đạo quân thường trực đông đảo, nhất là dưới thời vua ChếBồng Nga. Quân đội thường trực đông đến 4, 5 vạn người, Chế Bồng Nga cómột đội thân binh 5000 người lúc nào cũng kề cận ông ta. Quân đội Chămpagồm đầy đủ các binh chủng: bộ binh, tượng binh, kị binh, và thủy binh. Binh sĩđược nhà vua cấp cho lương thực, quần áo, trang bị vũ khí là lao, kích, nỏ, mũitên bằng tre có tẩm thuốc độc. Ngoài ra, các vua còn lấy sức xây đắp hệ thốngthành lũy khổng lồ và rải rác tại nhiều nơi – Trà Bàn (An Nhơn – Bình Định) làthành trọng yếu nhất.Về pháp luật, trong lịch sử Cham-pa, không hề thấy có bóng hình củaluật pháp hay thể chế. Nhà vua thống trị quốc gia bằng uy quyền của thần linh,hài lòng tin và sự bảo lãnh của thánh thần. Điều này chứng tỏ các quan hệ xãhội trong xã hội Chăm – pa còn tương đối đơn giản.{d}. Ngoại giao:Với Trung Quốc: thúc đẩy của Trung Quốc so với Cham-pa yếu ớt hơnso với Đại Việt và Cam-pu-chia, vì vậy, Cham-pa thường dùng đoạn đường ngoạigiao hoà bình, hàng năm vẫn cho người đem sản vật quý cống nạp cho vươngtriều phương Bắc. Tuy nhiên nó vẫn luôn chứa đựng những xung đột giữa một bênmuốn đô hộ và một bên vừa muốn độc lập vừa muốn mở rộng lãnh thổ.Với Cam-pu-chia: khi thân thiện khi đánh nhau (nhất là trong giai đoạn1113-1220 gây tổn hại nghiêm trọng đến tiềm lực quốc gia)Với Đại Việt: tương đối phức tạp: không ít lần link, trợ giúp nhau, làđồng minh của nhau trong chiến trường. Nhưng cũng không ít lần hai bên giao chiếnkhốc liệt. Trong mối quan hệ giữa Đại Việt và Chăm – pa, vấn đề ranh giới lãnhthổ luôn là vấn đề nóng bỏng trong từng thời kỳ lịch sử. Qua nhiều con đườngkhác nhau: hôn phối – hòa bình, chiến tranh – xung đột, tuy nhiên còn tồn tại conđường thứ ba trổ tài rõ nhất từ thời Trần – Hồ là sự phối hợp giữa dân Việt vàChăm trong quá trình khai phá những vùng đất mới, từng bước đã sáp nhập lãnhthổ của Chăm – pa trở thành một phòng ban của lãnh thổ Đại Việt.2. Kinh tế:α. Nông nghiệp: là hoạt động kinh tế chính của dân cư Chăm – pa, họsớm nghe đến việc trồng nhiều loại lúa khác nhau. Ruộng cấy 2 mùa: mùa thutrồng lúa trắng, mùa xuân trồng lúa đỏ. Ngoài ra ở những vùng cao, họ còntrồng bắp, đậu, mè và các loại khoai, bầu, bí…Bên cạnh làm ruộng, người Chămcòn làm vườn, đánh cá, khai thác lâm thổ sản, đặc biệt họ còn làm nghề trồngdâu, nuôi tằm.ɓ. Thủ công nghiệp: dân cư Chămpa đã làm các nghề khai thác vàng, sảnxuất muối, làm đồ gốm, dệt, nhuộm vải…Bên cạnh nghề thủ công nổi tiếng nhưnghề gốm, trạm khắc…, các nghề thủ công khác của Chămpa cũng rất phát triển.Người Chămpa có rất nhiều kinh nghiệm trong việc đãi, nấu, đúc và khảm vàng.Về nghề dệt: kỹ thuật dệt của người Chăm rất tinh xảo, họ sử dụng các loại tơ tằm,sợi bông…để dệt lên những tấm vải hoặc thổ cẩm đầy hoa văn và hình ảnh. NgườiChăm đã biết lợi dụng ánh sáng mặt trời để phát triển nghề sản xuất muối…ͼ. Thương nghiệp: Việc trao đổi kinh tế – văn hoá với toàn cầu hải đảoThái Bình Dương, Ấn Độ Dương trong lịch sử Cham-pa luôn luôn được đẩymạnh. Bờ biển miền Trung nổi tiếng với những cảng thị từng được ghi vào hảiđồ của nhiều thương nhân Ấn Độ, Trung Hoa, 𝓐-rập như cảng Hội An (QuảngNam) và Thị Nại (Bình Định). Đây là nơi cập bến bắt buộc của mọi tàu thuyềntrên đường thương mại Ấn Độ – Trung Quốc để tránh giống bão, san hô đá ngầmđồng thời mua nước ngọt và lương thực dự trữ. Hơn nữa, do Cham-pa có rấtnhiều sản vật quý như đồ gốm, dụng cụ đồng, sắt, hương liệu, nhất là gỗtrầm, gỗ kỳ nam…nên trong suốt thời gian tồn tại của mình, nhất là trong giaiđoạn từ Ҳ – XV, Cham-pa đã giữ vai trò như một đầu mối, một trung tâmthương mại liên vùng. Người Chăm quản lý cả vùng biển Đông, thậm chí cònđại diện cho cả Phi-lip-pin trong quan hệ ngoại giao và buôn bán với TrungQuốc.3. Xã hội:3.1. Cơ cấu xã hộiXã hội Cham-pa cho tới thế kỉ XVII phân hoá chưa rõ ràng:Quý tộc: tạo dựng từ vương triều Đồng Dương, nhưng không sắc nét. Quýtộc Cham-pa có sự hoà trộn phối hợp chặt chẽ giữa quan chức và các nhà tu hành.Đa phần là nông dân làm ruộng, giữ vai trò hầu hết trong việc bảo đảmnhững nhu cầu cơ bản của vương quốc, sống trong các công xã – làng (gra-ma).Nô lệ cũng có vai trò rất trọng yếu. Nô lệ có nguồn gốc từ tội phạm, tùbinh chiến tranh hay do buôn bán. Nô lệ chỉ phục vụ triều đình và quý tộc, nhấtlà phục vụ trong các đền miếu.3.2. Quan hệ xã hộiXã hội Chăm còn lưu giữ những dấu vết của quan hệ cộng đồng thượng cổ điliền với chính sách mẫu hệ đậm nét.Chính sách mẫu hệ hiện tại vẫn tồn tại ở người Chăm miền Trung. Tuy đànông thực tiễn đóng vai trò to lớn trong cuộc sống nhưng chủ gia đình luôn làngười đàn bà cao tuổi. Phong tục Chăm qui định con gái theo họ mẹ. Nhà gáicưới chồng cho con. Con trai ở rể nhà vợ. Chỉ con gái được thừa kế tài sản, đặcbiệt người con gái út phải nuôi dưỡng cha mẹ già nên được phần chia tài sản lớnhơn các chị.Xã hội Chăm thời kỳ đầu chịu ràng buộc Trung Quốc nhiều hơn ảnhhưởng Ấn Độ. Nhưng sau đó, thương nhân và tu sĩ Ấn Độ khởi đầu giao tiếp dầnvới người Chăm, truyền cho giới quí tộc địa phương văn minh, văn hóa của họ,và luôn cả phương thức tổ chức xã hội.4. Văn hóa4. 1. Chữ viếtTiếp thu chữ Phạn – Ấn Độ, người Chăm đã sáng tạo ra chữ viết riêng củamình này là hệ thống chữ Chăm cổ để ghi chép tiếng nói của mình gồm 16nguyên âm, 31 phụ âm, khoảng 32 dấu âm sắc và chính tả, lần trước tiên xuất hiệntrên minh văn Đông Yên Châu thế kỷ IV. Đến thế kỷ XV, người Chăm cải tiếnchữ Chăm cổ thành những nét thoáng đạt hơn, được sử dụng đến ngày nay.4.2 Thiết kế, điêu khắcChịu tác động của văn hóa Ấn Độ, nhất là Hin đu giáo.- Thiết kế Chămpa là lối xây đền tháp bằng gạch có trang trí thêm nhữngbức phù điêu, lá nhĩ, trụ đá…Tháp thường có hình vuông với một cửa ra vào và 3cửa giả ở 3 mặt kia. Các cửa đều có trang trí vòm cuốn với hình thức hoa vănphong phú, đường nét mạnh khỏe, mỗi thời một kiểu. Hình tháp thường có 3 tầng,càng lên cao càng nhỏ lại, mỗi tầng mô phỏng vòm cuốn của tầng dưới. Trên chóptháp là một khối đá nhọn. Thiết kế Chămpa có các phong thái như phong cáchMỹ Sơn E1, Hòa Lai, Đồng Dương, Mỹ Sơn A1 và phong thái Bình Định.- Điêu khắc: trong thời kỳ đầu, hầu như các tượng trong văn nghệ điêukhắc Chămpa đều là tượng thần, tuy nhiên trong một số trường hợp có thể tìmthấy ở đó tính chất hiện thực, sinh động, tươi tắn và duyên dáng ví như tượng thầnParvati thuộc thế kỷ VIII trông rất giống người con gái bình thường, tươi tắn vớinụ cười mỉm, nét mặt thanh tú của người Nam Á và bộ tóc tết kiểu Chăm độc đáochẳng thua kém gì những pho tượng bán thân nổi tiếng toàn cầu hay tượng vũ nữApsara Trà Kiệu…Dưới thời kỳ Vijaya, này là những pho tượng tròn và các loại phù điêutrang trí trên thân tháp và bệ thờ. Từng tượng có vẻ như muốn nở tung ra, bứtkhỏi hạn chế của thiết kế. Vào thời kỳ cuối, thiết kế cũng như điêu khắcChăm trở nên khô khắt, ngang bướng, đánh mất sự truyền cảm say đắm của thờikỳ đầu. Điều đó trổ tài kìm hãm, cạn sức sống và suy tàn của nền văn hóa này.4.3 Tôn giáo, tín ngưỡngThời kỳ đầu lập quốc quý tộc Chămpa đã tiếp thụ và sử dụng ngay hệthống thần quyền của Ấn Độ qua sự truyền bá của các tu sĩ, thương nhân Ấn Độđến đây. Họ tôn thờ các thần sơ khai của người Ấn, đứng đầu là thần Indra – vịthần chủ của các thần, tiếp theo là thần Brama, thần Visnu, thần Siva, có cả đạoPhật phái Đại thừa. Hàng loạt đền miếu, tự viện Phật giáo, tượng thần bằng đá,bằng đồng và cả bằng vàng được tạo lập chiếm vị trí trung tâm, trang trọng trênlãnh thổ của vương quốc.Tín ngưỡng: dân cư Chămpa đã nối liền và hơn nữa còn đồng nhất tổ tiênvới các vị thần nào đó để thờ cúng và sùng kính. Sự sùng kính đó thân thiết vàsâu sắc đến nỗi người ta cảm thấy hình như các hình thức tôn giáo chỉ là cáivỏ, và cái vỏ nào cũng được, còn cái ruột, cái thực chất lắng đọng chính là tìnhcảm so với tổ tiên.4.4. Phong tục – tập quán:Người Chăm rất lễ phép, gặp nhau thường chắp tay vái lạy hay cúi đầuchào. Họ cũng có tục ăn trầu và nhuộm răng đen như người Việt.Trong thư tịch cổ Việt Nam, Trung Hoa và cả trong văn bia Chăm đã ghichép về tang lễ, người ta hỏa thiêu thi hài người chết, rồi vứt tro xương vụn xuốngsông, suối, sau thời điểm xếp mấy mảnh xương sọ vào trong hộp klong bằng vàng, đồnghay đất nung, cất chỗ kín một thời gian, vài năm rồi mới mang về nhà.Người phụ nữ có vai trò trọng yếu so với đời sống gia đình, cộng đồngvà trong sản xuất. Trong lễ cưới, người con gái đóng vai trò chủ động, vào ngàycưới một thầy Bàlamôn dắt chàng rể đến gặp cô dâu. Ở đây quan hệ huyết thốngtính theo dòng tộc mẹ.KẾT LUẬNNhư vậy, trên nền tảng những tìm hiểu ban đầu về vương quốc Chămpa, cóthể thấy rằng, dân cư Chăm – pa đã tạo lập cho quốc gia mình một nền văn minhđặc sắc với khả năng sáng tạo tuyệt vời. Tuy thời gian tồn tại của vương quốcnày không dài nhưng đã có một vị trí trọng yếu trong khu vực, khi sáp nhậpvào lãnh thổ Việt Nam đã góp phần tạo thành sự đa dang, là một phòng ban khôngthể thiếu của văn minh Đại Việt.Vấn đề đề ra sau thời điểm tìm hiểu về vương quốc Chăm – pa là vì sao nóiquá trình sáp nhập Chăm – pa vào Đại Việt là quá trình hội nhập tất yếu của lịchsử? Và sự giao lưu văn hóa Đại Việt – Chămpa trổ tài như vậy nào?MỤC LỤC
Xem thêm những thông tin liên quan đến đề tài hoa chăm pa ở nước nào
CÁI KẾT CỦA VƯƠNG QUỐC CHĂMPA
- Tác giả: Trâm Tôn
- Ngày đăng: 2016-10-20
- Nhận xét: 4 ⭐ ( 7218 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm:
Hoa chăm pa ở nước nào
- Tác giả: eshopdaroana.com
- Nhận xét: 4 ⭐ ( 7816 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Nhắc tớiLào, người ta nhớ ngay đến Hoa Chăm Pa và ưu ái gọi nơi đây bằng tên gọi đẹp mà đơn sơ: Xứ hoa Chăm Pa, loài hoa thanh khiết và đơn sơ nhưng không kém phần cao quý, Nếu Nhật Bản chọn cho mình hoa Anh Đào, Hà Lan có Hoa Tulip rực rỡ, Việt Nam tất cả chúng ta có hoa Sen cao quý thì Lào lại chọn cho mình hoa Chăm Pa – bông hoa thanh khiết và thân thiện với đời sống
Hoa chăm pa là biểu tượng tươi đẹp của Lào
- Tác giả: vietlao.vietnam.vn
- Nhận xét: 5 ⭐ ( 3117 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Việt – Lào
Hoa Chăm Pa Ở Nước Nào
- Tác giả: camelotsport.store
- Nhận xét: 4 ⭐ ( 5382 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Nhắc tớiLào, người ta nhớ ngay đến Hoa Chăm Pa và ưu ái gọi nơi đây bằng tên gọi đẹp mà đơn sơ: Xứ hoa Chăm Pa, loài hoa thanh khiết và đơn sơ nhưng không kém phần cao quý, Nếu Nhật Bản chọn cho mình hoa Anh Đào, Hà Lan có Hoa Tulip rực rỡ, Việt Nam tất cả chúng ta có hoa Sen cao quý thì Lào lại chọn cho mình hoa Chăm Pa – bông hoa thanh khiết và thân thiện với đời sống
Hoa Chăm Pa quốc hoa của Lào biểu tượng của Lào
- Tác giả: aivivu.com
- Nhận xét: 3 ⭐ ( 7700 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Hoa Chăm Pa quốc hoa của Lào, loài hoa đơn sơ, thanh khiết không kém phần cao quý. Là loài hoa trổ tài tính cách của người dân Lào
Có một vương quốc Chăm Pa đã từng tồn tại
- Tác giả: hahoangkiem.com
- Nhận xét: 3 ⭐ ( 7476 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Có một vương quốc Chăm Pa đã từng tồn tại
Trải Nghiệm Vẻ Đẹp Của Quốc Hoa Chăm Pa Ở Nước Nào, Hoa Chăm Pa Là Biểu Tượng Tươi Đẹp Của Lào
- Tác giả: ipes.vn
- Nhận xét: 3 ⭐ ( 4336 lượt nhận xét )
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Quốc hoa của lào – Ý nghĩa hoa đại (champa ) của nước lào, So với người dân Lào, dok champa đại diện cho sự chân tình và niềm vui trong cuộc sống
Xem thêm các nội dung khác thuộc thể loại: giải trí