Cap buồn nhất 2022 ❤️1001 cap tâm trạng buồn cô đơn – Công ty Chống thấm Tín Phát – cap tâm trạng cô đơn

Bạn đang xem: Cap buồn nhất 2022 ❤️1001 cap tâm trạng buồn độc thân Tại Website chongthamvietnam.vn Phân tích tình huống mới lạ trong truyện Vợ nhặt củ

Bạn đang xem: cap tâm trạng cô đơn

Phân tích tình huống mới lạ trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân được Khoahoc tổng hợp và đăng tải. Trông mong đây là tài liêu có lợi giúp mang lại cho các em học viên tài liệu học tập tốt nhất, giúp các bạn cảm nhận sâu sắc hơn về tác phẩm, thêm nhiều ý tưởng mới khi viết văn. Mời quý thầy cô và các em cùng tham khảo nội dung cụ thể dưới đây.

Dàn ý phân tích tình huống truyện trong Vợ nhặt

1/Mở bài:

+ Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

– Kim Lân là nhà văn một lòng một dạ đi về với “đất”, với “người”, với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn.

– Nạn đói năm 1945 đã đi vào nhiều trang viết của các nhà văn, nhà thơ trong đã có Vợ nhặt của Kim Lân.

+ Nhận xét tổng quan:

– Vợ nhặt xây dựng tình huống truyện mới lạ.

– Qua tình huống truyện, tác phẩm trổ tài giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.

2.Thân bài:

α. Cục diện xây dựng tình huống truyện.

+ Cục diện nạn đói kinh khủng năm 1945 mà kết quả là hơn hai triệu người chết.

+ Chết chóc hiện hình trong tác phẩm tạo thành một không khí âm u, thê lương. Những người sống luôn bị chết chóc đe dọa.

ɓ. Trong cục diện ấy, Tràng, nhân vật chính của tác phẩm “nhặt” được vợ. Này là một tình huống mới lạ

+ Ở Tràng quy tụ nhiều yếu tố khiến rủi ro “ế” vợ rất cao:

– Ngoại hình xấu, thô.

– Tính tình có phần không bình thường.

– Ăn nói cục súc, thô lỗ.

– Nhà nghèo, đi làm thuê nuôi mình và mẹ già.

– Nạn đói đe dọa, chết chóc đeo bám.

+ Tràng lấy vợ là lấy cho mình thêm một tai họa (theo lô gíc tự nhiên).

+ Việc Tràng lấy vợ là một tình huống ngạc nhiên

– Cả xóm ngụ cư ngạc nhiên.

– Bà cụ Tứ cũng hết sức ngạc nhiên

– Bản thân Tràng có vợ rồi vẫn còn “ngờ ngợ”.

+ Tình huống truyện ngạc nhiên nhưng rất hợp lí

– Nếu không phải năm đói kinh khủng thì “người ta” không thèm lấy một người như Tràng.

– Tràng lấy vợ theo kiểu “nhặt” được.

ͼ. Giá trị hiện thực: tình cảnh thê thảm của nhân loại trong nạn đói

+ Cái đói dồn đuổi nhân loại.

+ Cái đói bóp méo cả tư cách.

+ Cái đói làm cho hạnh phúc thật mỏng manh, tội nghiệp.

+ Vợ nhặt có sức tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân, phát xít.

{d}. Giá trị nhân đạo:

+ Tình người cao đẹp trổ tài qua cách đối xử với nhau của các nhân vật.

– Tràng rất trân trọng người “vợ nhặt” của mình.

– Thiên chức, bổn phận làm vợ, làm dâu được đánh thức nơi người “vợ nhặt”

– Tình yêu thương con của bà cụ Tứ.

+ Loài người luôn nhắm tới sự sống và luôn hi vọng, tin tưởng ở tương lai:

– Tràng lấy vợ là để duy trì sự sống.

– Bà cụ Tứ, một người già lại luôn miệng nói về ngày mai với những dự tính thiết thực tạo niềm tin cho dâu con vào một cuộc sống tốt đẹp.

– Đoạn kết tác phẩm với hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người phá kho thóc Nhật.

3.Kết bài:

+ Nhất định tài năng nhà văn qua việc xây dựng tình huống truyện mới lạ, mê hoặc.

+ Nhất định giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.

Phân tích giá trị mới lạ của tình huống truyện Vợ Nhặt mẫu 1

Câu 4: Phân tích giá trị mới lạ của tình huống truyện Vợ Nhặt trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Kim Lân. Từ đó nhận xét về thái độ của nhà văn với nhân loại và tình trạng xã hội đương thời.

Sự thăng hoa của tác phẩm phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó không thể không nói tới việc sáng tạo ra tình huống truyện mới lạ. Kim Lân là một nhà văn nông thôn chuyên viết về những chuyện nông thôn như: Làng, Vợ nhặt, Con chó xấu xí, Chuyện ông già trên núi Côi Kê….Trong số đó, “Vợ nhặt” là tác phẩm góp phần làm ra tên tuổi nhà văn Kim Lân với những văn nghệ sáng tạo mới lạ: này là tình huống truyện.

Tình huống truyện được hiểu là tình thế xảy ra truyện, là “cái khoảnh khắc mà trong đó sự sống hiện ra rất đậm đặc”, là “cái khoảnh khắc chứa đựng cả đời người” (Nguyễn Minh Châu). Qua tình huống truyện, tất cả chúng ta có thể thấy rõ mối quan hệ giữa nhân vật với nhân vật, giữa nhân vật với hoàn cảnh, góp phần nổi trội tư tưởng của tác phẩm. Tình huống truyện “Vợ nhặt” vừa là một tình huống lạ, mới lạ lại vừa là một tình huống oái oăm, trớ trêu.

Tình huống truyện trong “Vợ nhặt” vô cùng mới lạ: Này là việc anh Tràng lấy được vợ trong nạn đói lịch sử, trong những ngày mà người chết đầy đường, đoàn người dắt díu nhau đi tìm cái ăn, xóm ngụ cư đêm đêm vang lên trong tiếng hờ khóc người chết.

Tình huống ấy trước hết được xem là tình huống lạ, mới lạ . Ta thấy hành động lấy được vợ của Tràng vô cùng khác thường mà phải gọi là “nhặt vợ” thì đúng hơn. Dưới mắt những người dân xóm ngụ cư, người như Tràng lấy được vợ là chuyện không tưởng. Tư tưởng dân gian trước giờ luôn xem nhẹ việc lấy chồng ngụ cư – vốn là tầng lớp dưới đáy thường bị xã hội xem thường, rẻ khinh. Hơn nữa, Tràng lại là một người xấu xí, nghèo khổ. Giữa thời buổi ấy, nuôi được thân mình đã khó mà lại còn đèo bòng chuyện vợ con. Nhưng đáng thương hơn hết là hành động nhặt vợ ấy. Vợ – đáng lẽ hải được cưới hỏi tử tế, nghiêm chỉnh, phải đầy đủ mâm cỗ rước về nhưng nay lại rẻ rúng bằng một câu nói bông đùa và bốn bát bánh đúc. Tràng nhặt được vợ trong một tình huống vừa kì quặc, vừa oái oăm, vừa vui mừng, vừa bi thảm. Mặc dù lạ nhưng việc Tràng lấy được vợ là điều vô cùng hợp lí. Người đọc toàn hoàn hài lòng với việc xảy ra. Anh Tràng lấy vợ lúc này là đúng bởi vì nếu không phải năm đói thì chắc chẳng có người đàn bà nào chịu lấy anh. Hơn nữa, hành động nhặt vợ kia còn trổ tài được sự cưu mang, đùm bọc lẫn nhau của những nhân loại năm đói.

Không những thế, tình huống truyện còn thể được sự éo le, oái oăm, trớ trêu. Nếu trong hoàn cảnh bình thường thì anh Tràng lấy vợ là niềm vui cho bà mẹ và xóm ngụ cư. Vậy mà éo le thay, việc anh Tràng lấy vợ không biết là nên vui hay nên buồn. Chính Tràng ban đầu cũng không ngờ được việc mình lấy được vợ. Chỉ bốn bát bánh đúc và một câu bông đùa – hôn phối chưa khi nào tưởng có thể đơn giản được như vậy. Dưới con mắt của người dân xóm ngụ cư, anh Tràng lấy vợ khiến người ta tò mò, ngạc nhiên, lo sợ cho anh. Tình hình hiện tại biết bao u ám “cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào” thế nhưng Tràng vẫn đèo bòng chuyện vợ con. Với bà cụ Tứ, bà còn nghĩ đến những điều tệ hại hơn: “biết rằng chúng nó lấy nhau liệu có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không?”. Với Tràng, anh đã từng cảm thấy hơi chợn khi nghĩ về niềm hạnh phúc bé nhỏ vừa tìm được “thóc gạo này đến thân mình chẳng biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng?” Với thị – người vợ vừa được nhặt về, nỗi tủi hổ hình như lấn át cả niềm vui. Nói trắng ra, thị lấy Tràng cũng vì muốn sống sót qua cơn đói, muốn tìm một chiếc phao cứu sinh. Sự éo le ấy còn lan tỏa ra khung cảnh xung quanh. Đêm tân hôn của hai người khốn khổ diễn ra trong cái gió lồng lộng từ bờ sông thổi vào, ngọn đèn dầu vàng đục và tiếng hờ khóc của người chết vang lên trong xóm ngụ cư.

Từ những điều đã phân tích trên, ta thấy tình Tràng lấy được vợ mang lại giá trị hiện thực sâu sắc. Trước nhất, nó phơi bày số phận của người nông dân trước cách mạng tháng tám. Vì nghèo khổ nên Tràng không thể nào lấy được vợ, phải chờ đến thời cơ “trời cho”. Càng mỉa mai hơn khi thời cơ ấy chính là nạn đói lịch sử, là thảm cảnh đau thương của biết bao nhân loại chết đói làm cho người đàn bà tự nguyện vứt bỏ nhân phẩm, vứt bỏ giá trị theo không anh về làm vợ. Loài người hiện lên như cái rơm, cái rác bị vứt ngoài lề cuộc sống. Trong khung cảnh đói khát ấy, anh lấy vợ mà chẳng ai mừng cho, bữa cơm trước nhất sau ngày cưới thật thảm hại, lấy vợ trong nỗi xót xa, cay đắng khôn cùng.

Giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Vợ nhặt” cũng là điều khiến người đọc phải tư duy trước sau. Kim Lân đã gợi lên trong lòng người đọc niềm xót xa khôn nguôi, qua đó gợi cho người đọc sự thông cảm về số phận người dân nghèo. Đồng thời, góp phần phát hiện phẩm chất đáng quí của người nông dân ngay giữa hoàn cảnh đói khát. Trong cái đói, mẹ con anh đã biết cưu mang một người xa lạ. Việc Tràng cưới vợ trước xuất phát từ bản chất xót thương, muốn cứu vớt thị. Lời mời “có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” có vẻ như đùa nhưng thực ra là thời cơ dễ dẫn thị từ bên bờ vực của cái đói, chết chóc về đến hạnh phúc gia đình. Tràng lo ngại, quan tâm, trân trọng từng hạnh phúc đơn sơ, đơn sơ: mang chị vào hàng ăn một bữa cơm thật no, sắm cho chị một cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt, mua dầu thắp đèn cho sáng đêm tân hôn… Tràng còn lặng thầm theo dõi thái độ của thị và cảm thấy lo ngại trước sự lặng lẽ: “quái sao nó lại buồn thế nhỉ”? Tràng giới thiệu thị với mẹ một cách nghiêm chỉnh để thị vơi bớt tủi hổ: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau”. Đặc biệt, Kim Lân qua việc khắc họa nhân vật còn trổ tài niềm tin vào sự đổi đời. Đây là nét nhân đạo mới mẻ ở ông. Nghe vợ kể chuyện nông dân Thái Nguyên, Bắc Giang phá kho thóc chia cho dân nghèo khiến Tràng chợt nhớ đến cảnh đoàn người với cờ đỏ sao vàng trên đê Sộp. Phải chăng anh thấy tiếc vì không tham gia đoàn biểu tình ấy? Ở những nhân loại năm đói là sự vươn lên mạnh mẽ. Cái đói không những không đánh gục ngã được họ mà làm cho họ tìm thấy niềm tin ở tương lai.

Tóm lại, tính huống Tràng lấy vợ thực sự mang lại cái nhìn tin tưởng của người đọc về sự thay đổi của số phận người nông dân. Cũng chính vì vậy, qua “Vợ nhặt”, tất cả chúng ta càng hiểu hơn về tư tưởng của Kim Lân: “Các nhà văn viết về cái đói ở khía cạnh tối tăm và bất lực của con người trước nó (…) Khi tôi viết, ý tưởng thường trực trong tôi là những người dù đói thế nào đi chăng nữa vẫn luôn khao khát cuộc sống tốt đẹp hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ vào cuộc sống tương lai. Cái “mơ hồ” ấy là do cuộc sống thực tại luôn hành hạ họ”.

Phân tích tình huống chuyện Vợ

Phân tích tình huống chuyện Vợ nhặt mẫu 2

Nói đến văn nghệ truyện ngắn, người ta thường coi ba yếu tố sau đây là cơ bản nhất: tình huống truyện, nhân vật truyện và cách trần thuật. Có nhiều truyện ngắn, sự sáng, tạo tình huống đóng vai trò then chốt. Đặt vào tình huống ấy, nhân vật truyện bộc lộ sâu sắc tâm lý, tính cách. Tư tưởng của thiên truyện cũng nhờ vậy mà được trổ tài đậm đà. Và xoay quanh tình huống ấy, các tình tiết cũng trở nên mê hoặc.Truyện Vợ nhặt của Kim Lân thuộc loại tác phẩm như vậy.

Tình huống của Vợ nhặt trổ tài ngay ở tên truyện Một anh nông dân “nhặt” được vợ. Mà nào anh ta có bảnh bao mê hoặc gì: vừa nghèo, vừa xấu trai, lại là dân ngụ cư. Vậy mà chỉ “tầm phơ tầm phào” mấy câu mà có vợ theo về.

Sự mê hoặc của tình huống truyện trước hết là ở đó. Như một nghịch lý, nó gây ngạc nhiên cho mọi người trong xóm ngụ cư, cho bà cụ Tứ, mẹ Tràng, và cho cả bản thân Tràng là kẻ đã “nhặt” được vợ.

“… người trong xóm lạ lắm: Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán…” Đến khi hiểu ra là Tràng có vợ theo về, thì họ lại càng ngạc nhiên hơn nữa. Người thì “cười lên rung rúc’. Người lại lo dùm cho anh ta Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ dài về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”

Bà cụ Tứ hiểu tỉnh cảnh con mình hơn ai hết nên càng khó tin Tràng có vợ. Thấy có người đàn bà đứng ngay ở đầu giường còn mình, bà cụ cứ ngơ ngác tự hỏi: ”Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Sao lại chào mình bằng u? Ai thế nhỉ?” Bà cụ làm sao hiểu nổi. Nghèo như con bà ai người ta thèm lấy mà có vợ được. Vả lại trời làm đói khát thế này, nuôi thân chẳng nổi, lấy gì nuôi vợ nuôi con? Bản thân Tràng cũng lấy làm lạ cho mình. Nhìn vợ, ngồi ngay giữa nhà, anh ta “vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”

Đúng là một tình huống thật lạ. Nhưng khi hiểu ra rồi thì lại thấy có gì đáng ngạc nhiên đâu. Cái nguyên nhân dễ hiểu biết bao, nhưng cũng buồn tủi biết bao, tội nghiệp biết bao! Điều này, bà cụ Tứ gần hết đời người phải làm bạn với cái nghèo mới thật sự thấm thía: “Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con trong lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Con mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà cụ rủ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau cho qua được cơn đói khát này không?”

Lòng bà cụ thật là ngổn ngang trăm mối: vừa mừng vừa lo, vừa vui vừa tủi. Mừng vui vì dù sao con mình cũng có vợ, điều mà bổn phận làm mẹ bà đã không lo nổi cho con: ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng. Nhưng lo buồn, tủi nhục vì “người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ được…”

Như vậy là tình huống truyện đã làm bộc lộ sâu. sắc tâm trạng, tính cách các nhân vật Bà cụ Tứ do từng trải nhiều nên tâm lý tình tiết phức tạp hơn hết. Còn Tràng thì lo ít, vui nhiều. Mới đầu cũng “chọn”, nhưng liền sau đó tặc lưỡi mặc kệ!”. Trên đường mang vợ về nhà, thấy người ta tò mò nhìn ngó, “hắn lại lấy vậy làm thích ý làm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình. Niềm vui át hẳn nỗi lo, đến nỗi anh ta không hiểu được tại sao vợ lại buồn, mẹ lại khóc: “Chán quá chẳng đâu vào đâu tự nhiên cũng khóc”.

Chợt “nhặt” được vợ, hạnh phúc đến với Tràng quá lớn và quá đột ngột. Mãi đến sáng ngày hôm sau anh ta vẫn còn thấy “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ờ trong giấc mơ đi ra”. Và cùng với niềm vui, ý thức về bổn phận, về trách nhiệm so với cái tổ ấm của mình, cũng nảy sinh. Anh ta thấy thương yêu gắn bó với mọi người, với cái nhà, cái sân, khoảnh vườn của mình một cách lạ lùng. “Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người”

Buồn tủi nhất là tâm trạng của người vợ Tràng “nhặt” được. Lấy chồng là chuyện thiêng liêng là sự phó thác cả cuộc sống mình cho người đàn ông mà mình yêu quý. Vậy mà chị ta nào có biết Tràng là ai, tốt xấu thế nào đâu. Chỉ một câu hò bâng quơ và mấy bát bánh đúc riêu cua là theo ngay về, Cái đói đã đẩy người đàn bà đến chỗ chẳng còn biết xấu hổ là gì, mất hết ý thức tự trọng, thấy mình không hơn gì cái rơm cái rác, người ta có thể “nhặt” được nơi đầu đường, xó chợ…

Tác giả “Vợ nhặt” quả đã sáng tạo được một tình huống truyện thật mới lạ. Một tình huống vừa rất hiện thực, vừa mang nhiều ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.

Lên án tội ác của bọn đế quốc Nhật Pháp đã gây ra cho nhân dân ta nạn đói kinh khủng mùa xuân năm 1945, đã là đề tài của hàng loạt tác phẩm thơ văn sau Cách mạng tháng Tám, 1945 (Thơ Văn Cao, truyện ngăn, tiểu thuyết của Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi. ..𝒱.𝒱.) Với Vợ nhặt, Kim Lân đã khắc phục đề tài ấy một cách riêng vừa vô cùng cảm động, vừa buộc người ta đọc phải tư duy nhức nhối, day dứt mãi, lớp thanh thiếu niên ngày nay đọc chắc không thể tưởng tượng nổi cái giá của nhân loại đã có thời điểm rẻ mạt đến thế. Nghĩa là không bằng loài vật. Cái Tý của Chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố vẫn vẫn còn đang cao giá hơn nhiều. Chỉ vài bát bánh đúc mà thành vợ hẳn hoi, thân phận nhân loại như vậy có hơn gì cỏ rác. Bọn phát xít thực dân đã từng đẩy nhân dân ta đến nông nỗi như vậy đấy. Lời kết tội của Vợ nhặt thật là ngắn gọn sâu sắc thấm thía biết bao!

Nhưng đề tài của Vợ nhặt không chỉ cổ thế. Tình huống truyện đã đặt nhân vật kề bên nanh vuốt của chết chóc. Một không khí chết chóc cứ len lỏi trong tác phẩm với mùi khói, khét lẹt của những đống rấm trong nhà có người chết lan tới và tiếng hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ… Nhưng qua tâm trạng của các nhân vật, nhất là Tràng và bà cụ Tứ, thấy người dân lao động tin ở sự sống, vẫn kỳ vọng ở tương lai, cũng khao khát một tổ ấm gia đình để được thương yêu nhau và cùng chia sẻ vui buồn, để có bổn phận với nhau cũng như có trách nhiệm với đời…

Này là bản chất lạc quan của nhân dân lao động. Một chủ nghĩa lạc quan có căn cứ gì rõ rệt – “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời“. – Vẫn tồn tại dai dẳng ở những nhân loại luôn sống hết mình với cuộc sống trong lao động và tranh đấu để sinh tồn. Niềm tin tưởng lạc quan ấy cuối cùng đã gặp được ánh sáng của cách mạng với lá cờ Việt Minh cất cánh phấp phới báo hiệu cuộc đổi đời vĩ đại của dân tộc đang sắp sửa.

Phân tích tình huống chuyện Vợ nhặt mẫu 3

Kim Lân được mệnh danh là cha đẻ của đồng ruộng, là nhà văn một lòng đi về với đất với người, với những giá trị thuần hậu nguyên thủy của nông thôn Việt Nam. Lần trước nhất có một nhà văn xắn quần lội xuống bùn để lắng nghe hơi thở nồng nàn của đất đai của cuộc sống nhân loại để tái hiện mồn một trên mỗi trang viết. Văn Kim Lân mê hoặc người đọc bởi cốt truyện đơn giản, lối kể mê hoặc và khả năng phân tích tâm lý nhân vật sắc sảo. Trong số những tác phẩm của ông thì truyện ngắn Vợ nhặt được in trong tập” Con chó xấu xí” xuất bản năm 1962 là tiêu biểu cho phong thái văn nghệ của Kim Lân. Trong tác phẩm ông đã ghi lại sự thật mặn chát của cuộc sống người nông dân trong nạn đói 1945, toàn bộ sự thật nghiệt ngã ấy được nhà văn thông qua tình huống truyện Vợ nhặt.

Xây dựng tình huống là vấn đề then chốt của truyện ngắn, là cánh cửa mở ra để người đọc đi vào tìm tòi giá trị của một tác phẩm văn chương. Nhà văn thường xây dựng hoàn cảnh điển hình để đặt nhân vật vào đó tìm tòi vẻ đẹp tâm hồn tính cách nhân vật đồng thời tái hiện bức tranh đời sống xã hội. Kim Lân cũng thế, ông đã tái hiện không gian năm đói 1945 làm phông nền cho việc anh cu Tràng nhặt được vợ. Cái năm Ất Dậu ngày ấy đã trở thành nỗi kinh hoàng của lịch sử, là vết thương lòng không khi nào mờ được trong trái tim mỗi người dân Việt Nam. Hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói là con số mà hàng trăm hàng nghìn năm sau mỗi lần nhắc tới con cháu ta không khỏi rùng mình ghê sợ về cái thời mà trên trời từng đàn quạ đen rỉa xác người chết đói cất cánh lên, gào lên từng hồi thê thiết. Dưới đất bên những gốc đa gốc gạo xù xì bóng những người đói đi lại dật dờ như những bóng ma. Người Thái Bình, Nam Định đội chiếu lũ lượt bồng bế dắt díu nhau đi trông xanh xám dật dờ như những bóng ma. Không khí vẩn lên mùi ẩm mốc của rác rưởi và mùi gây của xác người, toàn bộ tạo thành một bầu không khí âm u tang tóc và thê lương. Cái đói, chết chóc len lỏi vào ngõ ngách, gõ cửa từng nhà, đụng chạm đến từng người, cõi âm hòa với cõi dương, cuộc sống mấp mét bên bờ vực của chết chóc. Giữa cục diện tối xầm lại vì đói khát ấy thì một việc hệ trọng nhất của một đời người lại diễn ra một cách nhanh chóng vội vàng – này là việc anh cu Tràng có vợ.

Tràng có vợ là một truyện lạ bởi hắn vốn là một người xấu trai mà dân ngụ cư nghĩ rằng ế vợ “hai con mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, hai quai hàm bạnh ra, cái mặt bặm lại lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn. Cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước, cái lưng dài rộng như là lưng gấu lại thêm tật vừa đi vừa ngẩng mặt lên trời cười hềnh hệch”. Nhìn Tràng chẳng khắc gì sản phẩm mà tạo hóa chạm khắc vội vàng. Thật vậy, lời văn của Kim Lân như thứ nước rửa ảnh làm nổi hình nổi sắc nhân vật trên từng ngôn từ. Một người xấu như Tràng mà có vợ, thậm chí nhặt được vợ đó chẳng phải là một chuyện lạ hay sao. Không chỉ xấu mà Tràng còn rơi vào kiếp nghèo, nghèo đến tận đáy cùng của xã hội. Hãy nhìn căn nhà mà hai mẹ còn Tràng ở chẳng khác gì túp lều xiêu mưa ngã gió mọc trên những búi cỏ dại ” lổn nhổn “, thêm vào đó tài sản của Tràng đang là một đống quần áo rách vắt khươm mươi niên trong một góc nhà, là hai cái ang nước để khô cong trơ trọi dưới gốc cây ổi , là đống rác mùn tung bành ngay giữa lối đi. Có thể nói cái nghèo đã kéo ghì cuộc sống của mẹ con Tràng xuống sát đất để rồi chết chóc đang rình rập bủa vây. Kim Lân đã chọn những cụ thể rất thật, rất đời thường, lựa chọn những ngôn từ mộc mạc giản dị và thân thiện để tái hiện bức tranh hiện thực đời sống xám ngắt trong năm Ất Dậu 1945. Đã nghèo, Tràng lại còn mang thân phận của dân ngụ cư nên thật tội nghiệp, bởi coi khinh miệt thị dân ngụ cư đã đi sâu vào tiềm thức đến mức trở thành lời truyền miệng:

Trai làng ở góa còn đông

Cớ sao em lại lấy chồng ngụ cư

Nhất là ở việc Tràng có vợ chỉ với một câu nói bông đùa trong lần gò lưng kéo xe bò thóc, hắn nhìn thấy những cô gái ngồi vêu mặt ra ở dốc tỉnh, Tràng đoán họ ngồi đó để nhặt hạt rơi hạt vãi hay ai có việc gọi thì làm. Họ chính là kiếp người trôi dạt bị cơn lốc táp của đói khát đẩy xô. Trước cảnh đó Tràng cất câu hò cho đỡ nhọc chứ không có ý chòng gẹo cô nào:

Muốn ăn cơm trắng mấy giò này

Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì

Chẳng hiểu sao lúc đó chàng lại có thể nói ra những lời có cánh đến như vậy. Dẫu biết rằng có khối đấy mà cơm trắng mấy giò vậy mà Thị vẫn ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. Hắn thích chí cười tít cả mắt bởi từ ngày cha sinh mẹ đẻ đến giờ chưa có ai cười với hắn tình tứ như vậy. Câu hò cất lên giữa ngày đói khát sẽ chẳng khi nào lịm tắt mà luôn để lại dư vang, biết đâu một ngày nào đó nó trở thành chiếc phao cứu sinh cứu vớt người chết trôi vì đói khát. Đôi lúc nó là cái cớ là nhịp cầu dẫn nhân loại đến với nhau. Quả thật lần thứ hai khi trả hàng xong Tràng ngồi uống nước ở cổng chợ tỉnh thì Thị ở đâu sầm sập chạy đến đứng sưng sỉa trước mặt Tràng:” Điêu! người vậy mà điêu”. Thoáng đầu Tràng chẳng hiểu gì nhưng trong phút chốc Tràng nhận thấy Thị, Thị ngày hôm nay rách quá, trên khuôn mặt lưỡi cày chỉ trơ lại hai con mắt. Nghĩa là Thị đang mấp mé bên bờ vực của chết chóc, chỉ biết dõi theo câu hò xăm xăm đi tới tìm Tràng mà thôi, kiếp đời trôi dạt như

Thị thì biết đâu là bờ bến neo đậu: “Tối đâu là nhà, ngã đâu là giường”. Thị đích thực là người của cái thời:

Con đói lả trên lưng mẹ khóc

Mẹ đợ con đi nấu thóc cầm hơi

Kiếp người cơm vãi cơm rơi

Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi

Nhìn Thị tình yêu thương đồng loại trong Tràng trỗi dậy, hắn sẵn sàng đãi Thị “thích ăn gì thì ăn”, nghe thế hai con mắt trũng hoáy của Thị tức thời sáng lên, nghĩa là Thị đã tìm thấy một nguồn sống: “ăn nhé”… “ăn thì ăn chứ sợ gì”. Thế là Thị cắm đầu ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc chẳng nói năng gì. Nhìn Thị lúc này có vẻ như rất trơ trẽn, Thị đã chối bỏ liêm xỉ, đánh rơi lòng tự trọng cắm đầu mà ăn. Kẻ hời hợt thì nhìn Thị bằng đôi mắt khinh bỉ, người sâu sắc thì ngậm ngùi cám cảnh rưng rưng nước mắt mà thông cảm xót xa cho Thị. Cái gì đã làm cho Thị đánh rơi mất lòng tự trọng? Cái gì đã làm cho Thị trở nên trơ trẽn? Phải chăng này là cái đói, chết chóc? Vì sống do vậy Thị phải ăn bởi sống mới là nhân văn nhân bản. Đã có bao triết lý ném ra giữa đời để bênh vực những người như Thị, ví như ngạn ngữ Hi Lạp cho rằng:” Có ai chết hai lần để học bài học kinh nghiệm về chết chóc khi nào đâu” hay Nguyễn Khải đã có thời điểm nhất định” Muốn chết nhưng đời còn dài nên phải sống cho dù phải sống táo bạo, sống ghen tị với mọi người và hờn giận với chính bản thân mình”. Thật vậy, hãy một lần ta đặt mình vào hoàn cảnh của Thị ta sẽ thấu hiểu được nỗi tủi hờn và nhục nhã trong Thị. Và như vậy Thị thật đáng thương, đáng chia sẻ hơn là đáng trách. Xong buổi tiệc bánh đúc Thị cầm cây đũa quệt ngang miệng và nói “hà, ngon”, “về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”, Tràng nói:” làm đếch gì có vợ. Này nói đừa chứ có về với tớ thì khuôn hàng lên xe rồi cùng về”, Tràng cứ nghĩ mình nói đùa, ai ngờ Thị về thật. Thế là một đám cưới diễn ra.

Tràng có vợ thực là một chuyện éo le đám cưới của Tràng và Thị tưởng chừng như chỉ có trong chuyện cổ tích, vậy mà nó lại là một đám cưới có thật ở xã hội Việt Nam khi chìm dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến. Đám cưới gì mà không một lễ nghi dạm hỏi? chẳng lẽ bốn bát bánh đúc là toàn thể sính lễ ư? Đám cưới gì mà không một kẻ đón người mang, thậm chí cuộc đón dâu từ chợ huyện về xóm ngụ cư chỉ có hai người. Cô dâu với chiếc nón rách nghiêng nghiêng che nửa khuôn mặt, quần áo rách như tổ đỉa. Chú rể thị lúc nào cũng ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch tự đắc với mình. Đám cưới đi trên nền tảng của một đám tang chung toàn dân tộc, những tưởng rằng họ đang dắt díu nhau về cõi chết. Tràng thật liều – cái liều của Tràng là ở thời buổi này nuôi than mình còn chưa nổi lại còn đèo bòng. Thị cũng thật liều – Thị liều nhắm mắt mang than, theo không một chàng trai xa lạ về làm vợ. Biết đâu hai cái liều hợp lại sẽ thành một tổ ấm.Về đến nhà, bước chân vào căn nhà rúm ró xiêu vẹo, quần áo, niêu bát vứt bừa bộn cả trên giường dưới đất, Thị “nén một tiếng thở dài”, “cái ngực gầy lép của Thị nhô lên”. Hình như trong hơi thở dài ấy chứa đựng nỗi thất vọng bởi nhìn hoàn cảnh của gia đình Tràng thì liệu Tràng có phải là cái bến vững chắc cho con thuyền đời thị neo đậu hay không? Mặc dù Tràng đon đả thanh minh: “không có người đàn bà nhà cửa thế đấy”, “ngồi đây…ngồi xuống đây, tự nhiên!” thế nhưng Thị chỉ dám ngồi “mớm” ở mép giường. Ai dám bảo Thị trơ trẽn nữa, ai dám bảo Thị đánh rơi mất long tự trọng nữa, mà lúc này nhân loại thật của thị đã trỗi dậy trong sự tủi nhục ngậm ngùi chua chát.Thị ngồi mớm ở mép giường trông nó chông chênh như chính cuộc sống của Thị vậy. Còn Tràng nhìn Thị ngồi ngay giữa nhà mà chợt nghĩ hóa ra mình đã có vợ rồi và chàng không hiểu vì sao Thị lại buồn như vậy. Người đời thường nói: “Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà/ Trong ba việc ấy thật là khó khăn” ấy vậy mà việc có vợ so với Tràng dễ như trở bàn tay, như nhặt rơm nhặt rác ở ngoài đường. Sinh ra cũng là kiếp người mà sao Thị tội nghiệp đến vậy, nhìn Thị mà nỗi buồn thêm nặng trĩu.Tâm trạng của bà cụ Tứ thì chứa đầy những xúc cảm ngổn ngang và tranh chấp. Bà cụ vui vì cuối cùng con mình cũng có vợ nhưng lại tủi thân vì sự trớ trêu của số phận, bà mẹ nghèo nặng trĩu những nỗi lo âu cho tương lai của con mình: “liệu chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không”. Thắc mắc chất chứa nỗi hoang mang và sợ hãi, ám ảnh kiếp bần hàn không lối thoát và cả sự rình rập trước ngõ của cơn ác mộng về cái đói chưa khi nào dữ dội đến thế”. Trong lòng bà, ta cảm thấy cả nỗi buồn của một người mẹ không được thấy con trong ngày vui, không có lấy một mâm cơm làm lễ gia tiên. Trong lời nghẹn ngào tâm sự của bà còn tồn tại cả sự xót xa, một tí ăn năn vì đã không làm được đầy đủ bổn phận của một người mẹ so với con: “Năm nay đói to đấy, chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá” . Cái chậc lưỡi mặc kệ số phận của Tràng; hành động “nén một tiếng thở dài” tủi thân của người đàn bà khi liếc nhìn gia cảnh nhà chồng; sự nghẹn ngào, xót xa của bà cụ Tứ trước hạnh phúc của con trai mình… khiến người đọc không biết nên vui hay nên buồn, không cảm thu được đây là hạnh phúc hay xấu số, sự sống hay là chết chóc.

Đặt nhân vật của mình vào tình huống ngạc nhiên và éo le như vậy, Kim Lân đã làm nổi trội được nhiều ý nghĩa sâu sắc cho tác phẩm của mình. Với việc xây dựng tình huống truyện mới lạ nhà văn đã trổ tài rõ đề tài của tác phẩm đồng thời tố cáo hiện thực xã hội đã tước đoạt hết quyền sống, quyền hạnh phúc của nhân loại.

Có thể nói, ấn tượng của người đọc với tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân chính là ở tình huống truyện đầy mới lạ, ngạc nhiên nhưng cũng không kém phần éo le của thiên truyện. Thành công đó khiến truyện ngắn của Kim Lân sống được với thời gian. Cái nạn đói năm 1945 với hơn hai triệu người bị chết đói ấy, rồi một lúc nào đó sẽ lùi vào quá khứ. Nhưng câu chuỵên “nhặt vợ” của anh Tràng thì vẫn sống cùng tâm hồn, cùng nỗi đau và niềm tin của người dân Việt Nam.

Phân tích tình huống chuyện Vợ nhặt mẫu 4

Sự thành công của mỗi truyện ngắn có sự góp mặt của nhiều yếu tố, trong yếu tố đóng vai trò then chốt là: tình huống, nhân vật và cách trần thuật, nhà văn có những thế mạnh riêng để tạo thành sức mê hoặc cho tác phẩm mình. Kim Lân đã rất thành công trong các truyện ngắn của mình khi sáng tác được những tình huống truyện rực rỡ. Đọc Vợ nhặt của Kim Lân ta cảm rõ điều đó.

Trong Vợ nhặt của Kim Lân, tình huống truyện đã hỗ trợ nhà văn xây dựng bộc lộ sâu sắc tính cách và tâm lí nhân vật. Đồng thời giúp ông bộc lộ tâm tư ti và những điều mà bản thân ông muốn gửi gắm cho độc giả. Truyện cũng vậy mà mê hoặc hơn.

Tình huống của Vợ nhặt trổ tài ngay ở tên truyện. Một anh nông dân “nhặt” được vợ. Mà nào anh ta có bảnh bao mê hoặc gì: vừa nghèo, vừa xấu trai, lại là dân ngụ cư. Vậy mà chỉ “tầm phơ tầm phào” mấy câu mà có vợ theo về.

Sự mê hoặc của tình huống truyện trước hết là ở đó. Như một nghịch lý, nó gây ngạc nhiên cho mọi trường trong xóm ngụ cư, cho bà cụ Tứ, mẹ Tràng cho cả bản thân Tràng là kẻ đã “nhặt” được vợ.

“… người trong xóm lạ lắm: Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán…” Đến khi hiểu ra là Tràng có vợ theo về, thì họ lại càng ngạc nhiên hơn Người thì “cười lên rung rúc”. Người lại lo dùm cho anh ta “Ôi chao! đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thời này không ?”.

Bà cụ Tứ hiểu tình cảm con mình hơn ai hết nên càng khó tin Tràng có vợ, có người đàn bà đứng ngay ở đầy giường con mình, bà cụ cứ ngơ ngác tự hỏi: “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Sao lại chào mình bằng u? Ai thế nhỉ? “Bà cụ làm sao hiểu nổi. Nghèo như con bà ai người ta thèm lấy có vợ được. Vả lại trời làm đói khát thế này, nuôi thân chẳng nổi, lấy gì vợ nuôi con?

Bản thân Tràng cũng lấy làm lạ cho mình. Nhìn vợ, ngồi ngay giữa nhà, anh ta “vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”.

Đúng là một tình huống lạ. Nhưng khi hiểu ra rồi thì lại thấy có gì đáng ngạc nhiên đâu. Cái nguyên nhân dễ hiểu biết bao, nhưng cũng buồn tủi biết bao, tội nghiệp bao! Điều này, bà cụ tứ sống gần hết đời người phải làm bạn với cái nghèo mới sự thấm thía: “Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiều cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con trong lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Con mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhem của bà cụ rủ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau cho qua được cơn đói khát này không ?”.

Lòng bà cụ thật là ngổn ngang trăm mối: vừa mừng vừa lo, vừa vui vừa tủi. Mừng vui vì dù sao con mình có có vợ, điều mà bổn phận làm mẹ bà đã không lo nổi cho con: “ ừ, thôi thì các con đã phải duyên kiếp với nhau, u cũng mừng “. Nhưng lo buồn, tủi nhục vì “người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…”. Như vậy là tình huống truyện đã làm bộc lộ sâu sắc tâm trạng, tính cách các nhân vật. Bà cụ Tứ do từng trải nhiều nên tâm lí tình tiết phức tạp hơn hết. Còn Tràng thì lo ít, vui nhiều. Mới đầu cũng “chợn”, nhưng liều sau đó tặc lưỡi kệ !”. Trên đường mang vợ về nhà, thấy người ta tò mò nhìn ngó, “hắn lại vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình”. Niềm vui át hẳn nỗi lo, đến nổi anh ta không hiểu được vì sao vợ lại buồn, mẹ lại khóc: “Chán quá, chẳng đâu vào đâu tự nhiên cũng khóc !”.

Chợt “nhặt” được vợ, hạnh phúc đến với Tràng quá lớn và quá đột ngột. Mãi đến sáng ngày hôm sau anh ta vẫn còn thấy “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Và cùng với niềm vui, ý thức về bổn phận, về trách nhiệm so với cái tổ ấm của mình, cũng nảy sinh. Anh ta thấy thương yêu gắn bó với mọi người, với cái nhà, cái sân, khoảnh vườn của mình một cách lạ lùng. “Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người”.

Buồn tủi nhất là tâm trạng của người vợ Tràng “nhặt” được. Lấy chồng chuyện thiêng liêng là sự phó thác cả cuộc sống mình cho người đàn ông mình yêu quý. Vậy mà chị ta nào có biết Tràng là ai, tốt xấu thế nào đâu. Chỉ một câu hò bâng quơ và mấy bát bánh đúc riêu cua là theo ngay về. Cái đói đã đẩy người đàn bà đến chỗ chẳng còn biết xấu hổ là gì, mất hết ý thức tự thấy mình không hơn gì cái rơm cái rác, người ta có thể “nhặt” được ngoài đường, xó chợ…

Nhưng đề tài của Vợ nhặt không chỉ có thế. Tình huống truyện đã đặt nhân vật kề bên nanh vuốt của chết chóc. Một không khí chết chóc cứ len lỏi trong tác phẩm với mùi khói, khét lẹt của những đống rấm nhà có người chết lan tới và tiếng hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ… Nhưng qua tâm trạng của các nhân vật, nhất là Tràng và bà cụ Tứ, thấy người dân lao động tin ở sự sống vẫn hi vọng ở tương lai, cũng khao khát một tổ ấm gia đình để được thương yêu nhau và cùng chia xẻ vui buồn, để có bổn phận với nhau cũng như có nhiệm với đời…

Này là bản chất lạc quan của nhân dân lao động. Một chủ nghĩa lạc quan có căn cứ gì rõ rệt “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”… vẫn tồn tại dai dẳng ở những nhân loại luôn sống hết mình với cuộc sống trong lao động và đâu tranh để sinh tồn. Niềm tin tưởng lạc quan ấy cuối cùng đã gặp được ánh sáng của cách mạng với lá cờ Việt Minh cất cánh phấp phới báo hiệu cuộc đổi đời vĩ đại của dân tộc đang sắp sửa.

Bà cụ Tứ càng để lại cho người đọc những thiện cảm tốt đẹp. Thấy con lấy vợ trong hoàn cảnh khó khăn, bà không khỏi ngậm ngùi, thương xót: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái, mở mày mở mặt sau này. Còn mình thì..”. Nhưng, bà thực sự vui mừng khi con trai bà đã yên bề gia thất: “Bà lão nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn lên…”. Rồi trong bữa cơm, cả bố mẹ con đều quên đi hiện thực đau lòng để nhắm tới một tương lai tươi đẹp hơn:

“Tràng ạ. Khi nào có liền ta mua lấy đôi gà. Tau tin rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này, ngoảng đi ngoảng lại, chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…”

Nghĩ đến cái sống, không nghĩ đến chết chóc là ở chỗ đấy. Bà phấn đấu xua đi lại thực hãi hùng, để nhen nhóm niềm tin vào cuộc sống cho các con. Tuy nhiên món chè cám đã nhắc họ về với thực tại. Chao ôi, chè cám! Phải đói đến một mức nào đó, người ta ăn cám mới cảm thấy ngon! Cuộc sống khắc nghiệt, đày đọa bắt họ phải sống cuộc sống loài vật, nhưng nào có dập tắt được phần Người đáng quý trong mỗi nhân loại. Cái phần Người ấy sẽ giúp họ vượt qua đoạn khó khăn này.

Sẽ lại thiếu sót nêu bỏ qua hình ảnh những người nông dân trên đê Sộp cùng nhau đi phá kho thóc, khi nói đến những kể hấp hối trong vòng tử địa vẫn hướng tới cuộc sống. Này là hình ảnh không hề ngẫu nhiên chút nào, được nhà văn chẩn bị từ trước. Nó là dấu hiệu của “bước đường cùng”, không còn cách giành sự sống nào khác, phải vùng dậy tranh đấu, hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tràng thấy “ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu” bởi anh chưa bắt được mạch nguồn cách mạng. Trước mắt người đọc lúc này, sự sống trở thành mục đích chung của mọi người; họ tranh đấu, đoạn tuyệt dứt khoát với chết chóc. Và chắc nịch, mẹ con Tràng sẽ tiếp nối dòng người kia, giành sự sống cho mình.

Có thể nhất định, truyện ngắn Vợ nhặt là một thành công của Kim Lân. Tác phẩm tiêu biểu cho phong thái văn nghệ của ông cũng là đỉnh cao của truyện ngắn hiện đại Việt Nam. Người đọc nhớ mãi một Vợ nhặt với tình huống truyện mới lạ và chất nhân văn cao thượng của tác phẩm.

Phân tích tình huống chuyện Vợ nhặt mẫu 5

Truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt, bức bối của dân ta năm 1945, với nạn đói kinh khủng làm chết hơn hai triệu người từ miền Bắc tới miền Trung. Tác giả viết truyện này ngay trong nạn đói, với tên gọi ban đầu là Xóm ngụ cư, nhưng vì thất lạc bản thảo nên đến sau hòa bình 1954 ông mới viết lại và cho ra mắt độc giả với tựa dề là Vợ nhặt. Hơn nửa thế kỉ đã trôi qua nhưng tác phẩm vẫn xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam hiện đại.

Yếu tố tạo thành sức mê hoặc của tác phẩm chính là ở chỗ nhà văn Kim Lân đã sáng tạo ra một tình huống truyện đặc biệt, một tình huống ép le, trở trêu chứa đựng đầy kịch tính nhưng tại chứa đựng ý nghĩa nhân văn vô cùng sâu sắc.

Cốt truyện đơn giản: Một chàng trai ngụ cư nghèo khổ, đơn thân, đứng tuổi và xấu xí làm nghề kéo xe bò thuê, chỉ với vài câu bông đùa và mấy bát bánh đúc mà kiếm được cô vợ nhặt – một cô gái đang dở sống dở chết vì đói. Họ thành vợ thành chồng giữa khung cảnh tối sầm lại vì đói khát. Đêm tân hôn của họ diễn ra lặng thầm trong bóng tối âm u, rét mướt, điểm những tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói theo gió vẳng lại. Bữa cơm cưới của họ chì có cháo loãng, rau chuối và muối hột. Mẹ chồng đãi con trai và con dâu món chè nấu bằng cám. Bữa cơm diễn ra trong tiếng trống thúc thuế dồn dập. Mẩu truyện của bố mẹ con xoay quanh chuyện Việt Minh hô hào dân chúng không đóng thuế và tổ chức phá kho thóc của Nhật chia cho người nghèo.

Cảnh anh Tràng mang cô vợ nhặt về nhà là một tình huống lạ lùng, tạo ra sự ngạc nhiên và thú vị cho cả cái xóm ngụ cư đang hấp hối và lạ lùng ngay cả với mẹ con Tràng. Anh dẫn người đàn bà lạ mặt về nhà lúc trời nhập nhoạng tối. Hai người lủi thủi đi vào cái xóm ngụ cư hẻo lánh, tồi tàn ở mé sông. Nhà cửa hai bên đường úp súp, tối om, không một ánh đèn, ánh lửa, chẳng khác gì những nấm mồ hoang. Khung cảnh tràn ngập tử khí. Sự sống chỉ còn thoi thóp. Bóng đen chết chóc đang bao phủ khắp nơi.

Tràng dẫn người đàn bà mới quen về để làm vợ, để tạo dựng gia đình, tiếp nối sự sống. Trên bờ vực thẳm của chết chóc, họ tìm đến sự sống. Tràng vui sướng vì sự kiện to lớn ngạc nhiên của đời anh: anh đã có vợ, anh đang dẫn vợ về nhà. Đói, chết tràn ngập. Mình cũng đói, mẹ già cũng đói, vậy mà lại lấy vợ vào lúc này. Quả là chuyện lạ lùng và thú vị!

Trước hết là lạ lùng với dân xóm ngụ cư. Cái cảnh Tràng đi trước với vẻ mặt phởn phở khác thường và người đàn bà đi sau cách ba bốn bước với cái dáng thèn thẹn hay đáo để làm cho mọi người tò mò kéo nhau ra xem. Trước hết là lũ trẻ. Đang ủ rũ vì đói, chúng bỗng nhao nhao nói cười, trêu ghẹo anh Tràng: Anh Tràng ơi, chông vợ hài! Dân xóm ngụ cư thấy ồn ào thì kéo nhau ra xem rồi thì thầm buôn chuyện. Rồi họ hiểu ra và khuôn mặt họ tự dưng rạng rỡ hẳn lên. Từ trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn le lói một niềm vui. Họ thú vị nghĩ tới chuyện anh Tràng tự dưng có vợ và thực lòng muốn chia vui với anh. Cái xóm ngụ cư đang thoi thóp chờ chết này chợt bừng lên một thoáng sống. Nhưng vui đấy lại lo ngay đấy. Họ lo thay cho Tràng: Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không? Ấy là họ lo cho sự sống đang phải đương đầu với chết chóc và cứ hi vọng vượt lên chết chóc.

Bà cụ Tứ mẹ anh Tràng ngạc nhiên khi nhìn thấy cô gái lạ ngồi ở giường con trai mình. Được gọi bằng u, bà càng chẳng hiểu ra làm sao. Cho tới lúc nghe Tràng bảo: Kìa nhà tôi nó chào u… thì bà mới vỡ lẽ: Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình… Thì ra là thằng con trai mình đã kiếm được vợ và dẫn về đây. Tâm trạng bà cụ buồn tủi, mừng, lo lẫn lộn. Buồn tủi vì làm cha làm mẹ mà không tròn trách nhiệm so với con cháu, nghèo khổ đến nỗi không thể cưới được vợ cho con. Mừng vì tự nhiên con trai có được vợ, dù là vợ nhặt. Còn lo bởi bà cụ chần chờ: biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không? Càng ngẫm nghĩ, bà cụ càng thương con trai và thương cô gái xa lạ kia vô hạn: Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt.

Đến ngay chính anh Tràng cũng ngạc nhiên không kém. Ngạc nhiên đến sửng sốt, không tin là sự thật: Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến hiện giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư? Hà! Việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ, hắn chỉ tầm phơ tầm phào đâu có hai bận, ấy vậy mà thành vợ thành chồng… Ngày ngày hôm sau thức dậy, nhìn chị ta quét dọn sân vườn, Tràng vẫn chưa dám tin là mình đã có vợ. Chuyện xảy ra cứ như trong một giấc mơ, nhưng người đàn bà bằng xương bằng thịt kia chính là vợ anh, dẫu chẳng phải cưới xin gì.

Phân tích tình huống mới lạ trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân được Khoahoc chia sẻ trên đây. Gồm dàn ý và 5 bài văn mẫu sẽ là tài liệu hữu ích cho các em tham khảo, tích lũy thêm nhiều vốn từ, từ đó hoàn thiện bài văn của mình hay hơn, sinh động hơn. Chúc các em học tốt.


Xem thêm những thông tin liên quan đến đề tài cap tâm trạng độc thân

Những câu nói cực hay về sự độc thân! Stt status buồn ngắn tâm trạng tình yêu, cuộc sống trên tik tok!

alt

  • Tác giả: Chia sẻ TTTĐ
  • Ngày đăng: 2021-05-11
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 5153 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Sau đây Chia sẻ TTTĐ xin gửi tới các bạn, nhất là các bạn trẻ đang yêu, hoặc chưa yêu, hoặc tạm thời không yêu. Những câu nói cực hay về sự độc thân! Stt status buồn ngắn tâm trạng tình yêu cuộc sống, cô gái đơn thân một 1 mình trên tik tok.! Những câu, những stt về văn nghệ thả thính (tán tỉnh, cua, hay cách chinh phục con trai or con gái) hay nhất giành riêng cho tình yêu cả nam và nữ trên tik tok. Stt những câu tỏ tình hay nhất! Giành cho crush, tình yêu nam nữ, lãng mãn dễ thương, khôi hài và bá đạo! Những câu nói hay về tình yêu và cuộc sống, những câu nói hay nhất về tình yêu ngắn, gọn, vui, bằng thơ, tin nhắn, khôi hài, những câu danh ngôn, châm ngôn hay, status thả thính, cũng như thơ ca. Thả thính, nhung cau tha thinh, nhung cau to tinh hay nhat, thả là dính, vô cùng crush, và cực chất, ngầu, lầy, độc, dễ thương, bá đạo nhất Việt Nam.
    Bao gồm Đông – Tây kim cổ, Nội – Ngoại nhập, văn hóa đa phương…! Trong kho tàng câu danh ngôn hay, luôn tràn ngập những câu danh ngôn hay về tình yêu, có thể thấy tình yêu là 1 cái gì đó không thể thiếu trong cuộc sống. Tình yêu cho ta thêm yêu đời, tình yêu cho ta niềm tin vào cuộc sống, và với tình yêu ta có động lực để làm nên toàn bộ!…
    … Vâng! Chia se tttd vừa gửi tới các bạn, những câu nói tình yêu, những câu nói hay, tình yêu qua ca dao tục ngữ việt nam, danh ngôn cuộc sống, lời hay ý đẹp, cũng như những câu nói hay về tình yêu, danh ngôn tình yêu hay. Những câu nói cực hay về sự độc thân! Stt status buồn ngắn tâm trạng tình yêu cuộc sống, cô gái đơn thân một 1 mình trên tik tok! Ca dao tục ngữ việt nam, thơ tình yêu hay, nối liền với truyền thống dân tộc của cha ông tất cả chúng ta. Nhất là: Tình yêu và cuộc sống qua thơ, với những thơ ca tình yêu việt nam, mà cho tới nay vẫn còn rất hay, và cảm động, sống mãi trong lòng người. Nhất là những câu thơ tình tinh khiết, tình yêu và cuộc sống qua thơ, chọn lựa những tinh hoa của nét đẹp, của tình yêu, mang lại cho tất cả chúng ta sức sống và niềm vui, niềm hi vọng!.Cũng mong cho tình yêu, văn nghệ sống, cuộc sống của chúng ta thật là tốt đẹp, một kết thúc có hậu, xin chào và tạm biệt!.

Stt Tâm Trạng Chất ❤️ Tus Cap Đậm Chất Buồn Cô Đơn Ngắn

  • Tác giả: it60s.org
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 1394 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Stt Tâm Trạng Chất ❤️ Tus Cap Đậm Chất Buồn Cô Đơn Ngắn ✔️ Ai trong cuộc sống cũng có riêng cho mình những nỗi buồn và độc thân.

Tổng Hợp Những Cap Ngắn Hay Nhất Về Nỗi Cô Đơn Trong Tình Yêu- Cô Đơn Sau Khi Chia Tay – Stt Cô Đơn Dành Cho Dân FA

  • Tác giả: omg-vn.com
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 8782 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Những stt độc thân lạc lõng giữa cuộc sống, stt độc thân trong tình yêu…sẽ thay lời bạn nói nên mọi nỗi lòng bị dồn nén trong tâm can lâu nay.

Cap Cô Đơn Ngắn Chất ❤️️ Caption Hay Về Cô Đơn Buồn

  • Tác giả: scr.vn
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 2657 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Cap Cô Đơn Ngắn Chất ❤️️ Caption Hay Về Cô Đơn ✅ 1001 Status Chia Sẻ Tâm Trạng Dành Cho Những Bạn Cảm Thấy Bị Cô Đơn Giữa Chốn Đông Người.

Những status tâm trạng buồn độc thân lạc lõng trong đêm giành riêng cho người thất tình

  • Tác giả: voh.com.vn
  • Nhận xét: 5 ⭐ ( 6259 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: (VOH) – Cô quạnh là trạng thái tâm lý ai cũng từng trải qua. Có rất nhiều nguyên nhân khiến tâm tư lắng động, thỉnh thoảng một chiếc lá rơi cũng khiến bạn cảm thấy thật ‘độc thân’ đấy!

Stt tâm trạng, tổng hợp các stt tâm trạng buồn, chán, độc thân, thất tình… hay nhất

  • Tác giả: thuthuatphanmem.vn
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 3093 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Stt tâm trạng, tổng hợp các stt tâm trạng buồn, chán, độc thân, thất tình… hay nhất. Trong cuộc sống, ngoài những lúc tâm trạng vui vẻ thì luôn luôn song hành những lúc tâm trạng buồn chán, độc thân, vô vọng… vì công việc khó khăn, thất tình, học tập không

Cap Buồn Nhất 2022 ❤️1001 Cap Tâm Trạng Buồn Cô Đơn

  • Tác giả: symbols.vn
  • Nhận xét: 5 ⭐ ( 2655 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Chia sẽ bạn❣️1001 Cap Buồn Nhất 2022 ❤️ Đủ Tâm Trạng Buồn Cô Đơn và nhiều thể loại như cap buồn ngắn về tình yêu, cuộc sống, tiếng Anh…

Xem thêm các nội dung khác thuộc thể loại: giải trí