Chủ quyền biển đảo Việt Nam – bản đồ biển đảo việt nam

Với tầm nhìn về vai trò trọng yếu của biển đảo, ông cha tất cả chúng ta từ xa xưa đã đổ biết bao công sức để khai phá, xác lập và thực thi chủ quyền của mình so với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển, đảo khác, khi mà chúng chưa hề thuộc ch

Bạn đang xem: bản đồ biển đảo việt nam

Chủ quyền biển đảo Việt Nam – nhìn từ lịch sử

 

          Với tầm nhìn về vai trò trọng yếu của biển đảo, ông cha tất cả chúng ta từ xa xưa đã đổ biết bao công sức để khai phá, xác lập và thực thi chủ quyền của mình so với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển, đảo khác, khi mà chúng chưa hề thuộc chủ quyền của bất kì quốc gia nào. Tiếp tục nhất định chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam so với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhất định chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam so với các vùng biển, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo Công ước Luật biển năm 1982 của Liên hợp quốc (UNCLOS 1982), Việt Nam kiên quyết và kiên trì bảo vệ chủ quyền quốc gia bằng biện pháp hòa bình, trong khuôn khổ pháp luật quốc tế, thông qua nhiều bằng cớ pháp lý và lịch sử thuyết phục.

 

 

          * Cứ liệu lịch sử từ thời các nhà nước phong kiến

          Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là các quần đảo vô chủ cho đến thế kỷ XVII. Lúc bấy giờ, hai quần đảo được trổ tài liền một dải, bao gồm cả Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa và ban đầu được người Việt gọi chung một tên nôm là Bãi cát Vàng (trổ tài trong bản đồ cổ của Việt Nam mang tên “Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư” do nhà địa lý Đỗ Bá biên soạn và hoàn thiện năm 1686).

          Vào nửa đầu thế kỷ XVII, Chúa Nguyễn tổ chức “đội Hoàng Sa” lấy người từ xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Nghĩa ra quần đảo Hoàng Sa thâu lượm hàng hóa, khí cụ trên các tàu mắc cạn và đánh bắt hải sản quý hiếm mang về dâng nộp. Chúa Nguyễn lại tổ chức thêm “đội Bắc Hải” lấy người thôn Tứ Chính hoặc xã Cảnh Dương, phủ Bình Thuận, cấp giấp phép ra quần đảo Trường Sa với cùng nhiệm vụ như đội Hoàng Sa. Các hoạt động này được ghi nhận trong nhiều tài liệu lịch sử, điển hình như:

          + “Phủ biên tạp lục” – quyển sách do nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784) biên soạn năm 1776 là tài liệu thượng cổ, chép rõ đảo Đại Trường Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa) thuộc phủ Quảng Nghĩa. Lê Quý Đôn mô tả tỉ mỉ tình hình địa lý, tài nguyên ở Hoàng Sa và Trường Sa và công việc khai thác của chúa Nguyễn so với 2 quần đảo này.

          Sách chép: “Ở ngoài cửa biển xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Nghĩa có núi gọi là cù lao Ré, rộng hơn 30 dặm, có phường Tứ Chính, dân cư trồng đậu, ra biển bốn canh thì đến, phía ngoài nữa lại có đảo Đại Trường Sa. Trước kia có nhiều hải vật và hóa vật của tàu, lập đội Hoàng Sa để lấy, đi ba ngày đêm mới đến, là chỗ gần xứ Bắc Hải”.

          “ Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ đến tháng ba nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển ba ngày ba đêm thì đến đảo ấy. Ở đấy tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hoá vật của tàu như là gươm ngựa, hoa bạc, tiền bạc, hòn bạc, đồ đồng, khối thiếc, khối chì, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiên, cùng là kiếm lượm vỏ đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm, hột ốc vân rất nhiều. Đến kỳ tháng 8 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp, cân và định hạng xong mới cho đem bán riêng các thứ ốc hoa, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về…

           Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất, hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu và các tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm lượm hóa vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản…”.

          + “Đại Việt sử ký tục biên” (1676-1789) là bộ chính sử do Quốc sử viện thời Lê-Trịnh biên soạn, trong đó đoạn ghi chép về Hoàng Sa, Trường Sa cơ bản không khác ghi chép của Lê Quý Đôn. Ý nghĩa của “Đại Việt sử ký tục biên” chính là tác phẩm này đã biến ghi chép khoa học, khách quan của Lê Quý Đôn thành một nội dung của bộ Quốc sử, chuyển trí não cơ bản của bản viết tay của Lê Quý Đôn thành bản khắc in chính thức trên danh nghĩa quốc gia.

        + “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú là bộ bách khoa thư lớn của thế kỷ XIX, được hoàn thiện vào năm 1821 có phần dư địa chí chép về Hoàng Sa từ địa thế, sản vật tới việc tổ chức Đội Hoàng Sa.

          Sách viết: “Xã An Vĩnh, huyện Bình Dương ở gần biển. Ngoài biển phía Đông Bắc có đảo (Hoàng Sa), nhiều núi linh tinh, đến hơn 130 ngọn núi. Đi từ chỗ núi (chính) ra biển (sang các đảo khác) ước chừng hoặc một ngày hoặc vài trống canh. Trên núi có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng, dài ước 30 dặm, bằng phẳng rộng rãi. Trong bãi có dòng nước trong suốt đến đáy. Sườn đảo có vô số yến sào, các thứ chim có đến hàng nghìn vạn con, thấy người vẫn cứ đỗ quanh, không bay tránh…

          Các đời chúa Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 người, người làng An Vĩnh thay phiên nhau đi lấy những hải vật. Hằng năm cứ đến tháng 3, khi nhận được mệnh lệnh sai đi, phải đem đủ 6 tháng lương, chở 5 chiếc thuyền nhỏ ra biển, 3 ngày 3 đêm mới đến đảo ấy. Ở đấy tha hồ tìm kiếm các thứ… Đến tháng 8 thì đội ấy lại về, vào cửa Yêu Môn đến thành Phú Xuân, đưa nộp”.

          + “Đại Nam thực lục chính biên” là bộ sử ký do Quốc sử quán triều đình nhà Nguyễn soạn, viết về các đời vua Nguyễn. Phần viết về đời Vua Gia Long (1802-1819), Vua Minh Mệnh (1820-1840), Vua Thiệu Trị (1841-1847) được soạn xong năm 1848, ghi sự kiện Vua Gia Long chiếm hữu các đảo Hoàng Sa; sự kiện Vua Minh Mệnh cho xây miếu, dựng bia, trồng cây, thống kê, vẽ bản đồ các đảo này.

          Năm 1815, Vua Gia Long “cử Phạm Quang Ảnh dẫn đội Hoàng Sa đi thuyền ra Hoàng Sa để khảo sát và đo đạc đường biển”.

          Năm 1816, Vua Gia Long “lệnh cho thủy quân cùng đội Hoàng Sa ra Hoàng Sa để khảo sát và đo đạc đường biển”.

          Năm 1833, Vua Minh Mệnh chỉ thị cho Bộ Công chuẩn bị thuyền sang năm sẽ phái tới Hoàng Sa dựng miếu, lập bia, trồng nhiều cây cối.

          Năm 1834, Vua Minh Mệnh cử đội trưởng giám thành Trương Phúc Sĩ cùng thủy quân hơn 20 người ra Hoàng Sa vẽ bản đồ.

          Năm 1835, Vua Minh Mệnh sai cai đội thủy quân Phạm Văn Nguyên đem lính và thợ giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Nghĩa, Bình Định, chuyên chở vật liệu đến Hoàng Sa dựng miếu. Bên trái miếu dựng bia đá, phía trước miếu xây bình phong.

          Năm 1836, chuẩn y lời tâu của Bộ Công, Vua Minh Mệnh sai suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật mang binh thuyền ra Hoàng Sa thống kê, vẽ bản đồ. Yêu cầu của công việc thống kê, vẽ bản đồ đã được “Đại Nam thực lục chính biên” ghi lại rất cụ thể:

          “Không cứ là đảo nào, bãi cát nào, khi thuyền đi đến cũng xem xét xứ ấy chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi và nước biển chung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở, bình dị thế nào, phải tường tận đo đạc, vẽ thành bản đồ. Lại xét ngày khởi hành từ cửa biển nào ra khơi, nhằm phương hướng nào đi đến xứ ấy, căn cứ vào đường đi tính ước được bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy trông vào bờ biển, đối thẳng là vào tỉnh hạt nào, phương hướng nào, đối chênh chếch là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, cách bờ biển chừng bao nhiêu dặm, nhất nhất nói rõ, đem về dâng trình”.

        + “Đại Nam nhất thống chí”  là bộ sách địa lý chính thức của nước Việt Nam, do Quốc sử quán thời Tự Đức biên soạn từ năm 1865-1910. Phần nói về tỉnh Quảng Ngãi xác nhận các đảo Hoàng Sa thuộc địa phận tỉnh Quảng Ngãi và công việc khai thác các đảo này vẫn tiếp tục, việc quản lý được tăng cường dưới các đời Vua Gia Long và Minh Mệnh.

          Sách viết: “Phía đông tỉnh Quảng Ngãi, có đảo cát (tức đảo Hoàng Sa), kiền cát với biển làm hào, phía Tây Nam miền sơn man, có lũy dài vững vàng, phía nam liền với tỉnh Bình Định, có đèo Bến Đá chắn ngang, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam, có ghềnh Sa Thổ làm giới hạn”…

          “Đầu đời vua Gia Long, phỏng theo lệ cũ đặt đội Hoàng Sa, sau lại bỏ; đầu đời Minh Mệnh, thường sai người đi thuyền công đến đây thăm dò đường biển, thấy một nơi có cồn cát trắng chu vi 1070 trượng, cây cối xanh tốt, giữa cồn cát có giếng, phía Tây Nam còn có ngôi miếu cổ, không rõ dựng từ thời nào, có bia khắc 4 chữ “Vạn lý Ba Bình” (muôn dặm sóng yên). Cồn cát này xưa gọi là Phật Tự Sơn, phía Đông và phía Tây quấy đều có đá san hô nổi lên một cồn chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 2 thước, ngang với cồn cát gọi là Bàn Than Thạch. Năm Minh Mệnh thứ 16 sai thuyền công chở gạch đá đến đấy xây đền, dựng bia đá ở phía tả đền để ghi dấu và tra hột các thứ cây ở ba mặt tả hữu và sau. Binh phu đắp nền miếu đào được đồng lá và gang sắt có đến hơn 2000 cân”…

 

 

         

          + Theo“Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư” của Đỗ Bá, tự Công Đạo sưu tầm, biên soạn và hoàn thiện năm 1686, tối thiểu đến thế kỷ XVII, bản đồ Việt Nam đã gọi hai quần đảo bằng tên gọi chung là Bãi Cát Vàng và ghi nó vào địa hạt huyện Bình Sơn, phủ Quảng Nghĩa. Lúc đó, Bãi Cát Vàng còn được gọi bằng nhiều tên khác như: Hoàng Sa, Cồn Vàng, Trường Sa, Đại Hoàng Sa, Đại Trường Sa, Vạn lý Trường Sa… và ngày nay là Hoàng Sa và Trường Sa.

          Trong lời chú thích bên trên bản đồ có nói rõ việc khai thác “Bãi Cát Vàng” của chúa Nguyễn như sau: “… Giữa biển có một dải cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng, dài độ 400 dặm, rộng 20 dặm, đứng dựng giữa biển, từ cửa biển Đại Chiêm (1) đến cửa Sa Vinh (2). Mỗi lần có gió tây nam thì thương thuyền các nước đi ở phía trong trôi dạt ở đấy; có gió đông bắc thì thương thuyền chạy ở ngoài cũng trôi dạt ở đấy, đều cùng chết đói hết cả, hàng hóa thì đều để nơi đó. Họ Nguyễn mỗi năm vào tháng cuối mùa đông đưa 18 chiếc thuyền đến đấy lấy hàng hóa, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn…”

          + “Giáp Ngọ bình Nam đồ” – bản đồ xứ Đàng Trong do Đoan quận công Bùi Thế Đạt vẽ năm 1774, Bãi Cát Vàng cũng được vẽ là một phòng ban của lãnh thổ Việt Nam.

          + “Đại Nam nhất thống toàn đồ” hoàn thiện trong khoảng năm 1838 dưới thời vua Minh Mệnh. Trên bản đồ có ghi hai tên “Hoàng Sa” và “Vạn lý Trường Sa” thuộc lãnh thổ Việt Nam.

          + “An Nam đại quốc họa đồ” của Giám mục Jean Louis Taberd năm 1838, trong đó có vẽ 9 dấu chấm nhỏ tượng trưng cho khu vực được đánh dấu là Paracels Seu Cát Vàng (Paracels hay là Cát Vàng).

          + “Bộ Atlas thế giới” xuất bản ở Brussels 1827

          “Bộ Atlas thế giới” của Philippe Vandermaelen (1795-1869) – nhà địa lý học kiệt xuất, thành viên Hội Địa lý Paris, xuất bản năm 1827 tại Brussels là một bằng cớ hùng hồn về giá trị pháp lý quốc tế cao, bổ sung vào kho bằng cớ khổng lồ minh chứng Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.

          Theo tập bản  đồ này, Việt Nam được giới thiệu trong các tấm bản đồ số 97, 105, 106, 110 đều có ghi chú rõ ràng, quần đảo Hoàng Sa (Paracels) thuộc chủ quyền của Đế chế An Nam (Empire {d}’An-nam) (3). Đặc biệt, tờ bản đồ Partie de la Cochinchine (4) (tờ số 106-Châu Á) là bản đồ trước nhất đã vẽ một cách tuyệt đối đúng đắn vị trí (kinh độ, vĩ độ), dấu hiệu địa lý, tên gọi phương Tây của các đảo lớn nhất và trọng yếu nhất trong quần đảo Hoàng Sa. Bản đồ đặt trong khu vực Cochinchine là một phòng ban hữu cơ không thể tách rời của Đế chế An Nam, minh chứng một cách rõ ràng và chuẩn xác chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa đã được quốc tế ghi nhận.

          “Bộ Atlas thế giới” xuất bản ở Brussels 1827 hiện do Trung tâm Lưu trữ quốc gia Ι thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước – Bộ Nội vụ gìn giữ và lưu giữ từ năm 2014.

         

          Các Châu bản triều Nguyễn là bằng cớ rõ ràng về quá trình thực thi chủ quyền của các nhà nước phong kiến Việt Nam ở hai quần đảo này. Điển hình như:

          + Các bản tấu của Thủ ngự Đà Nẵng về việc thuyền của Pháp mắc cạn ở Hoàng Sa (27-6-1830 – năm Minh Mệnh thứ 11)

          + Bản dụ của vua Minh Mệnh thứ 16 (11-7-1835) và vua Minh Mệnh thứ 18  (13-7-1837) về các đoàn đi công vụ ở Hoàng Sa

          + Năm Minh Mệnh thứ 17 (1836), Bộ Công dâng sớ lên tâu vua rằng: “Bản quốc Hải cương Hoàng Sa xứ, tối thị hiểm yếu” (Xứ Hoàng Sa thuộc cương vực biển nước ta, hết sức hiểm yếu).

          + Các bản tấu của Bộ Công (13-7-1837 – năm Minh Mệnh thứ 18) về việc phạt những người đi Hoàng Sa không lập xong bản đồ, về việc phái đoàn công vụ lên đường ra Hoàng Sa nhưng do gặp gió lớn mà không xuất phát được…

          + Đặc biệt có tờ tấu của Bộ Công (21-6-1838 – năm Minh Mệnh thứ 19) cho biết đoàn thăm dò Hoàng Sa trở về giải trình đã tới được 25 đảo thuộc 3 vùng, (trong đó có 12 quần đảo đoàn đến xác minh lại, còn 13 đảo đoàn chưa từng đến. “Theo viên dẫn đường Vũ Văn Hùng thì toàn bộ xứ Hoàng Sa có 4 vùng, lần này khảo sát được 3 vùng, còn một vùng ở phía Nam, nơi này cách nơi kia khá xa, gió Nam lại thổi mạnh, việc khởi hành đến đó không tiện, phải đợi gió thuận thì muộn, xin đợi đến sang năm cử thuyền đến đó. Lại xem xét 4 bản đồ mang về (có 3 bức vẽ riêng từng vùng, 1 bức vẽ chung), cùng một bản nhật ký cũng chưa được tu sửa hoàn chỉnh, xin cho Bộ Thần thẩm tra kỹ và sức cho họ chỉnh sửa hoàn thiện để dâng trình”.

         

          Sách trắng của Bộ Ngoại giao Việt Nam thông báo năm 1982 dẫn các nguồn tư liệu lịch sử có ghi rõ một số sự kiện như sau:

          Một giáo sĩ phương Tây đi trên tàu Amphitrite từ Pháp sang Trung Quốc năm 1701, viết trong một lá thư rằng: “Paracel là một quần đảo thuộc vương quốc An Nam”.

          Ĵ.Ɓ. Chaigneau, cố vấn của vua Gia Long, năm 1820 đã viết trong phần chú thích bổ sung vào cuốn Hồi ký về nước Cochinchine: “Nước Cochinchine mà nhà vua bấy giờ đã lên ngôi hoàng đế gồm xứ Cochinchine và xứ Đông Kinh (5)… một vài đảo có dân cư không xa bờ biển và quần đảo Paracel do những đảo nhỏ, ghềnh và đá không có dân cư hợp thành…”.

          Giám mục Ĵ.ʟ.Taberd, trong bài “Ghi chép về địa lý nước Cochinchine” xuất bản năm 1837, cũng mô tả “Pracel hay Paracels” là phần lãnh  thổ nước Cochinchine và nói rõ người Cochinchine gọi Pracel hay Paracels là “Cát Vàng”. Trong “An Nam đại quốc họa đồ” xuất bản năm 1838, ông đã vẽ một phần của Paracel và ghi “Paracel hay Cát Vàng” (Paracel seu Cát Vàng) ở ngoài các đảo ven bờ miền trung Việt Nam, vào khu vực quần đảo Hoàng Sa hiện tại.

          Trong bài “Địa lý vương quốc Cochinchina” của Gutzlaff xuất bản năm 1849, có đoạn nói rõ Paracels thuộc lãnh thổ Việt Nam và chú thích cả tên Việt Nam là “Kát Vàng”.

          Như vậy, các sách lịch sử, địa lý cổ của Việt Nam cũng như chứng cứ của nhiều quán ăn hải, giáo sĩ phương Tây kể trên đã cho thấy, từ lâu và liên tục trong hàng mấy trăm năm, từ triều đại này đến triều đại khác (từ thời chúa Nguyễn, nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn) đã thực thi chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa dưới các hình thức và biện pháp khác nhau như: thành lập các đội Hoàng Sa, Bắc Hải để vãng thám, xác minh kiểm tra; khai thác các sản vật, cứu tàu bị nạn; thăm dò, đo vẽ bản đồ; dựng miếu thờ, lập bia chủ quyền, trồng cây để cho người qua lại dễ nhận ra….. Các thể lệ tuyển chọn người, cơ chế khen thưởng, đãi ngộ so với các đội đều được quy định rõ ràng. Ví dụ như Vua Tự Đức (1867) đã phong cho những chiến sĩ đội Trường Sa hy sinh danh hiệu “Hùng binh Trường Sa”.

          Công việc ở Hoàng Sa và Trường Sa là vô cùng gian truân nguy hiểm, nhiều trường hợp có đi mà không có về. Ý thức được đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm với quê hương quốc gia, nhiều người tự nguyện coi này là trách nhiệm của chính mình.

          Lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa được nhiều triều đình phong kiến trước đó xác lập, thực thi nhất quán và liên tục; cùng bao công sức, thậm chí cả tính mạng của nhiều người dân đất Việt.

          *…đến thời cơ chế thực dân

          Sau khoảng thời gian thiết lập cơ chế bảo lãnh so với Việt Nam theo Hiệp ước ngày 6/6/1884, Pháp nhân danh Việt Nam thực thi chủ quyền so với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

          Trong thời kỳ đầu, các nhà cầm quyền Pháp đã có phương án dựng một đèn biển ở quần đảo Hoàng Sa, tiến hành các cuộc tuần tiễu trong vùng biển hai quần đảo bằng các tàu chiến để đảm bảo an ninh. Từ năm 1925 đến năm 1927, Viện Hải dương học Nha Trang cử tàu De Lanessan ra cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa để tìm hiểu về hải dương, địa chất, sinh vật…

          Từ năm 1930 đến 1932, các tàu chiến Inconstant, Alert, La Malicieuse và cả tàu De Lanessan liên tiếp ra quần đảo Hoàng Sa.

          Từ năm 1930 đến năm 1933, các nhà cung cấp hải quân Pháp lần lượt đóng tại các đảo chính của quần đảo Trường Sa, gồm: Trường Sa, An Bang, Ba Bình, nhóm Song Tử, Loại Ta và Thị Tứ. Việc này được thông báo trong Công báo của nước Cộng hòa Pháp ra ngày 26/7/1933. Cũng trong năm 1933, quần đảo Trường Sa được quy thuộc vào tỉnh Bà Rịa theo Nghị định của Thống đốc Nam Kỳ Ĵ. Krautheimer.

          Năm 1938, quần đảo Hoàng Sa được nhập vào tỉnh Thừa Thiên. Nhà cầm quyền Đông Dương đã cho một nhà cung cấp quân đội ra đóng tại quần đảo Hoàng Sa và lập các trạm khí tượng, vô tuyến điện, xây dựng thêm bia chủ quyền, đèn biển.

          Đầu năm 1939, Nhật Bản tuyên bố đặt một số đảo của quần đảo Trường Sa thuộc quyền tài phán của họ, Pháp đã chính thức phản kháng. Từ năm 1939 cho đến hết trận chiến tranh toàn cầu thứ hai, quân đội Nhật Bản đã sở hữu đóng cả hai quần đảo này.

          Khi trở lại Đông Dương sau chiến tranh toàn cầu thứ hai, đầu năm 1947, Pháp đã yêu cầu Trung Quốc rút khỏi các đảo của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà họ đã sở hữu đóng trái phép từ cuối năm 1946. Pháp đã cho quân đến thay thế quân đội Trung Quốc và xây dựng lại trạm khí tượng và đài vô tuyến điện.

          Năm 1956, khi rút khỏi Đông Dương, Pháp đã chuyển nhượng lãnh thổ miền Nam Việt Nam cho nhà cầm quyền Sài Gòn. Nhà cầm quyền Sài Gòn đã cho quân ra tiếp quản hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, xây dựng các bia chủ quyền tại các đảo chính, duy trì các trạm khí tượng (các trạm này đã được đăng ký vào danh sách các trạm của Tổ chức Khí tượng toàn cầu OMM), cử các đoàn thăm dò khoa học ra tìm hiểu.

          Lợi dụng việc Pháp rút khỏi Đông Dương, năm 1956, Trung Quốc đã mang quân ra xâm chiếm nhóm đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa.

          Năm 1974, lợi dụng việc quân đội chính quyền Sài Gòn phải ứng phó với cuộc tiến công của lực lượng vũ trang của Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam, Trung Quốc dùng không quân và hải quân chiếm nốt phần phía Tây của quần đảo Hoàng Sa. Lúc đó chính quyền Sài Gòn đã ra tuyên bố kịch liệt phản đối và đã thông báo cho các nước và Hội đồng bảo an LHQ về sự kiện này. Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam cũng từng thông báo lập trường 3 điểm bao gồm đề xuất các bên liên quan phải cùng nhau thương lượng để khắc phục vấn đề.

          Trong toàn bộ các trường hợp xâm phạm chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo, các chính quyền miền Nam Việt Nam đều lên tiếng phản đối kiên quyết.

 

Hội thảo Khoa học quốc tế về Biển Đông lần thứ 11 do Học viện Ngoại giao phối phù hợp với Hội Luật gia Việt Nam (VLA) và Quỹ Trợ giúp Tìm hiểu Biển Đông tổ chức ngày 6.11 với sự tham gia của 250 Chuyên Viên, học giả trong nước và quốc tế

 

          * Những hội nghị quốc tế

          Trước và sau khoảng thời gian Chiến tranh toàn cầu thứ hai kết thúc, vấn đề chủ quyền so với quần đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa đã nhiều lần được mang ra các hội nghị quốc tế xem xét.

          – Tại Hội nghị Cairo (tháng 11/1943), khi trận chiến tranh toàn cầu thứ hai bước vào thời kỳ kịch liệt nhất, những người đứng đầu các nước Anh, Mỹ và Cộng hòa Trung Hoa đã họp tại Cairo, thủ đô Ai Cập. Tuyên bố Cairo không ghi nhận quần đảo Paracel tức Hoàng Sa và Spratly tức Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc.

          – Tại Hội nghị Potsdam (tháng 7/1945), những người đứng đầu 3 nước Liên Xô, Mỹ, Anh lại ra tuyên bố xác nhận lại một lần nữa Tuyên bố Cairo.

          – Tại Hội nghị hòa bình San Francisco (tháng 8/1951) với sự tham gia của 51 quốc gia, chủ quyền của Việt Nam so với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng từng được thừa nhận. Tại Hội nghị này, trưởng đoàn đại biểu chính quyền Bảo Đại là Trần Văn Hữu đã nhất định chủ quyền lâu đời của nhà nước Việt Nam so với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không gặp bất kì sự phản đối nào của 50 quốc gia tham gia sót lại. Sự kiện đó chứng tỏ Hội nghị San Francisco đã mặc nhiên thừa nhận chủ quyền của Việt Nam so với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

          – Hội nghị Geneva năm 1954 về việc khôi phục hòa bình ở Đông Dương nhất định các bên tham gia tôn trọng độc lập và vẹn toàn lãnh thổ của Việt Nam, bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang do các lực lượng của Pháp và Quốc gia Việt Nam quản lý.

          – Điều 1 Hiệp định Paris năm 1973 nói rõ tất cả quốc gia tôn trọng độc lập và vẹn toàn lãnh thổ của Việt Nam. Lúc này hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang do Việt Nam Cộng hòa quản lý, và là một phòng ban lãnh thổ không thể tách rời của Việt Nam.

          Như vậy, theo pháp luật quốc tế đương thời về thụ đắc lãnh thổ, một quốc gia được xem là có chủ quyền so với một vùng lãnh thổ khi quốc gia đó minh chứng được mình đã chiếm lĩnh, thực thi, quản lý và khai thác lãnh thổ đó với tư cách Nhà nước một cách liên tục, hòa bình. Theo đó, Việt Nam đã xác lập, thực thi chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa hoàn toàn phù phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế.

          * Một số sự kiện liên quan tới việc Trung Quốc chiếm đóng các đảo và xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam

          So với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, Trung Quốc đã xâm chiếm vào các năm: Năm 1946, lấy cớ giải giáp quân Nhật ra chiếm các đảo ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; năm 1956 so với phòng ban phía Đông của quần đảo Hoàng Sa; năm 1974 so với phòng ban phía Tây quần đảo Hoàng Sa; và năm 1988 so với một số đá, bãi ngầm thuộc quần đảo Trường Sa.

          Từ góc độ của pháp luật quốc tế, việc chiếm đóng bằng vũ lực lãnh thổ của một quốc gia có chủ  quyền là hành vi phi pháp.

Từ sau năm 1988, Trung Quốc tiến hành tôn tạo, xây dựng, biến một số thực thể địa lý ở phía Tây Bắc quần đảo Trường Sa của Việt Nam thành các đảo nhân tạo lớn, đủ để xây dựng và sắp xếp các thiết bị quân sự hải, lục, không quân hiện đại.

          Ngoài ra, Trung Quốc đã mang tàu thăm dò dầu khí vào bãi Tư Chính (năm 1994), mang giàn khoan Kantan 03 vào khoan thăm dò trên thềm lục địa Việt Nam (năm 1997), thực hiện một số vụ cắt cáp tàu thăm dò địa chấn của Việt Nam, trong đó có tàu Bình Minh 02 (năm 2011), mang giàn khoan Hải Dương 981 trái phép vào vùng biển của Việt Nam (năm 2014).

          Từ đầu tháng 7 đến cuối tháng 10-2019, Trung Quốc mang nhóm tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8 nhiều lần thăm dò trái phép tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Căn cứ vào UNCLOS 1982, khu vực mà Trung Quốc mang tàu vào hoạt động không phải là khu vực tranh chấp hay có chồng lấn mà là vùng biển hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam.

          * Việt Nam kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình bằng các biện pháp hòa bình, phù phù hợp với pháp luật quốc tế

          Với tư cách kế thừa quyền sở hữu các quần đảo từ các chính quyền trước, Việt Nam trước sau như một nhất định nhất quán kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình so với các quần đảo, các vùng biển, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa như đã được quy định theo pháp luật quốc tế, bằng các biện pháp hòa bình, phù phù hợp với pháp luật quốc tế.

          Tuyên bố ngày 12/5/1977 của Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam – là văn bản pháp quy trước nhất và là nền tảng nền tảng cho các văn bản pháp quy sau này.

          Tuyên bố xác lập vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý, không chỉ hạn chế trong quyền đánh cá mà còn tồn tại các quyền chủ quyền và quyền tài phán khác. Tuyên bố này được mang ra khi Công ước Luật Biển 1982 đang được xây dựng, phản ánh xu thế được đa số các nước ủng hộ tại Hội nghị Luật Biển lần thứ 3, trổ tài sự đóng góp của Việt Nam vào quá trình pháp điển hóa tiến bộ luật biển quốc tế.

          Ngày 23/6/1994, Quốc hội Việt Nam đã ra Nghị quyết về việc phê duyệt Công ước Luật Biển, trong đó nhất định chủ quyền của Việt Nam so với nội thủy, lãnh hải, quyền chủ quyền và quyền tài phán so với vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam trên nền tảng các quy định của Công ước và các phép tắc của pháp luật quốc tế, yêu cầu các nước tôn trọng các quyền nói trên của Việt Nam. Đồng thời, Nghị quyết còn nhất định chủ quyền của Việt Nam so với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và chủ trương khắc phục các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ cũng như các bất đồng khác liên quan đến vấn đề Biển Đông thông qua thương lượng hòa bình, trên trí não đồng đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng pháp luật quốc tế, nhất là Công ước Luật Biển 1982.

          Là thành viên Công ước Luật Biển 1982, Việt Nam được quyền có lãnh hải rộng 12 hải lý, vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý, thềm lục địa rộng tối thiểu 200 hải lý. Diện tích các vùng biển và thềm lục địa mà tại đó Việt Nam được hưởng những quyền lợi so với vùng biển và tài nguyên theo quy định của Công ước là khoảng gần 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích lãnh thổ đất liền.

          Phù phù hợp với các quy định của Công ước Luật Biển 1982, Việt Nam đã công bố Luật Biển Việt Nam năm 2012 nhằm thống nhất quản lý việc hoạch định, sử dụng, thăm dò, khai thác tài nguyên biển và quản lý các vùng biển, thềm lục địa, hải đảo của Việt Nam, cũng như việc khắc phục tranh chấp trên biển giữa Việt Nam và các nước láng giềng.

          Cùng với việc công bố Luật Biển, Quốc hội Việt Nam cũng từng thông qua Luật Biên giới quốc gia (2003), Luật Hàng hải 2015, Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo (2015)…

          Vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam là hết sức thiêng liêng, nhưng cũng hết sức khó khăn, phức tạp và lâu dài. Trước sau như một, Việt Nam kiên quyết và kiên trì tranh đấu bằng biện pháp hòa bình, phù phù hợp với pháp luật quốc tế, cả ở thực địa và trên mặt trận ngoại giao, qua nhiều kênh và ở nhiều cấp khác nhau để giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình so với các vùng biển, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo pháp luật quốc tế./.

 

Theo TTXVN

 

(1) Cửa Đại Chiêm nay là cửa Đại, thuộc tỉnh Quảng Nam

(2) Cửa Sa Vinh nay là cửa Sa Huỳnh, thuộc tỉnh Quảng Ngãi

(3) “Đế chế An Nam” hay “Vương quốc An Nam” chỉ nước Việt Nam thời bấy giờ.

(4) Danh từ Cochinchine (tiếng Pháp) hoặc Cochinchina (tiếng Anh) có hai nghĩa tùy thuộc văn cảnh: α) Nước Việt Nam thời hiện giờ, dịch là nước Cochinchine; ɓ) Xứ Đàng Trong thời bấy giờ, dịch là xứ Cochinchine.

(5) Tức Đàng ngoài

 


Xem thêm những thông tin liên quan đến đề tài bản đồ biển đảo việt nam

Phát Hiện Bản đồ cổ châu âu xác nhận Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam

alt

  • Tác giả: TV24h
  • Ngày đăng: 2020-06-10
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 5267 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: tintuc24hol tintuc
    Bản đồ cổ phương Tây nhất định Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam
    Những tấm bản đồ cổ của phương Tây minh chứng từ hơn 5 thế kỷ trước, Việt Nam đã xác lập chủ quyền quốc gia trên Hoàng Sa và Trường Sa.

    Nhất định chủ quyền Việt Nam

    Tiến sĩ Trần Đức Anh Sơn, Phó Viện trưởng Viện Tìm hiểu phát triển kinh tế – xã hội TP Đà Nẵng vừa hoàn thiện đề tài Font tư liệu về chủ quyền Việt Nam so với huyện đảo Hoàng Sa (TP Đà Nẵng).

    Tiến sĩ (TS) Trần Đức Anh Sơn cho hay: Không chỉ các bản đồ cổ Việt Nam, Trung Quốc mà rất nhiều bản đồ cổ của phương Tây đều nhất định Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.

    Bản đồ cổ phương Tây nhất định Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam – ảnh 1
    Bản đồ do Jodocus Hondius vẽ năm 1613 (Ảnh: TS Trần Đức Anh Sơn phân phối)
    Một trong những thành công lớn của nhóm tìm hiểu là sưu tầm được 56 tấm bản đồ phương Tây của font tư liệu này.

    Các bản đồ này được vẽ rất sớm, như: Bản đồ do Livro da Marinharia FM Pinnto vẽ năm 1560, bản đồ do Gerard Mercator (1512 – 1594) vẽ có thời đại vào nửa sau thế kỷ XVI… cho đến những bản đồ được vẽ vào cuối thế kỷ XIX như: Bản đồ do Stielers Handatla vẽ năm 1891…

    Toàn bộ đều trổ tài bằng hình vẽ hoặc bằng chữ viết vị trí của quần đảo Hoàng Sa (bao gồm cả quần đảo Trường Sa) trong vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam dưới các tên gọi như Cauchi, Cochi, Cochinchina, Cochinchine… (tùy thuộc từ ngữ của từng nước phương Tây).

    Trên một số bản đồ, địa danh Hoàng Sa còn được trổ tài hoặc ghi chú rất đặc biệt. Ví dụ, bản đồ do Jodocus Hondius vẽ năm 1613 trổ tài quần đảo Frael (Hoàng Sa), bao gồm toàn bộ các đảo của Việt Nam từ nam vịnh Bắc Bộ cho đến hết vùng biển phía Nam của Việt Nam, trừ Pulo Condor (Côn Đảo) và Pulo Cici (đảo Phú Quốc) được vẽ riêng.

    Trong bản đồ do 𝒲. Blaeu vẽ năm 1645, quần đảo Frael (Hoàng Sa) được vẽ nối liền với các đảo: Pulo Secca de Mare (Cù Lao Thu, tức đảo Phú Quý), Pulo Cambir (Cù Lao Xanh), Pullo Canton (Cù Lao Ré, tức đảo Lý Sơn), thành một chuỗi đảo liên hoàn thuộc lãnh thổ Cochinchina (Đàng Trong)….

    Đặc biệt, tấm bản đồ mang tên An Nam đại quốc họa đồ, viết bằng 3 thứ từ ngữ: Hán, Quốc ngữ và Latin, do Giám mục Jean Louis Taberd vẽ năm 1838, có ghi hàng chữ Paracel seu Cát Vàng (nghĩa là Paracel hoặc là Cát Vàng) nhất định chủ quyền Việt Nam.

    ▶ TIN TỨC 24H ONLINE là kênh Youtube chia sẻ các nội dung tin tức, bản tin update 24h online, những nội dung tiêu khiển mê hoặc được phát sóng trên các kênh chương trình đài truyền hình, các tin tức update, chương trình truyền hình trực tiếp, chương trình thể thao, bóng đá, tiêu khiển, game show, showbiz… Với muốn update những thông tin đúng đắn và nhanh nhất trên nền tảng số cho quý vị và các bạn.

    ❤️❤️❤️ Cảm ơn các bạn đã xem video! Các bạn đừng quên nhấn vào ► Đăng Ký Kênh và biểu tượng 🔔 phía dưới góc phải của video để không bỏ lỡ những video tiên tiến nhất nhé ❤️❤️❤️

    ▶ ĐĂNG KÝ KÊNH (miễn phí) TẠI ĐÂY: http://bit.ly/2n4bWWO

    ▶ Xem những Clip mới và mê hoặc nhất:
    – Thể thao: http://bit.ly/2n3dyQt
    – An ninh ngày mới ngày hôm nay: http://bit.ly/2n6yKoT
    – Tin tức tiên tiến nhất 24h ngày hôm nay: http://bit.ly/2n197pi
    – Tin tức Công nghệ tổng hợp: http://bit.ly/2l24YAY
    – Bản tin thời sự Tổng hợp mỗi ngày: http://bit.ly/2l3JRyg
    – Vòng loại World Cup 2020 đội tuyển Việt Nam tổng hợp: http://bit.ly/2n1ddOc

    ▶ Theo dõi Kênh TIN TỨC 24H ONLINE trên:
    – Fb : https://www.facebook.com/tt24hol/
    – Twitter: https://twitter.com/tt24hol

    ▶ Fair use for news reporting (https://www.youtube.com/yt/copyright/…) and (https://en.wikipedia.org/wiki/Fair_use)

    ▶ Mọi vấn đề về video vi phạm Bản quyền (https://www.youtube.com/yt/copyright/), Quyết sách (https://www.youtube.com/t/terms),
    – Phép tắc cộng đồng (http://www.youtube.com/yt/policyandsa…) chúng tôi sẽ xóa chúng, xin liên hệ trực tiếp qua tin nhắn hộp thư online: now.tintuc@gmail.com . If there are any copyright issues with any videos posted here We will remove them, please contact our tin nhắn hộp thư online: now.tintuc@gmail.com

Tính năng, dấu hiệu và cách đọc bản đồ

  • Tác giả: phugiathinhcorp.vn
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 8102 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Bạn muốn nắm bắt được thật nhiều tri thức hữu ích có trên bản đồ Việt Nam? Hãy cùng tham khảo các thông tin trọng yếu sau đây nhé!

Chủ quyềи biểи đảσ Việt Nam qua cáͼ bảи đồ cổ

  • Tác giả: vtc.vn
  • Nhận xét: 5 ⭐ ( 5116 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Các nhà tìm hiểu đã thu thập được một số bản đồ và tư liệu văn bản quý hiếm minh chứng chủ quyền biển đảo của Việt Nam.

Bản đồ du lịch Việt Nam đầy đủ cụ thể nhất 2022

  • Tác giả: luxtour.com.vn
  • Nhận xét: 5 ⭐ ( 9239 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Bản đồ du lịch Việt Nam sẽ là một gợi ý tuyệt vời nếu bạn vẫn đang phân vân chưa biết đi đâu trong chuyến du lịch sắp tới. Với bản đồ du lịch Việt Nam, Luxtour sẽ mang đến cho bạn tổng quan các điểm du lịch Việt Nam, cùng với này là các điểm du lịch nổi tiếng từ Bắc chí Nam. Đọc ngay nội dung này để update các điểm du lịch thú vị, mê hoặc nhé!

Cận cảnh cụ thể biển đảo bản đồ Việt Nam

  • Tác giả: bandotreotuongkholon.com
  • Nhận xét: 5 ⭐ ( 1810 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Bản đồ Việt Nam biển đảo cụ thể, đúng đắn là tài liệu trọng yếu để tìm hiểu và phục vụ công tác tìm kiếm thông tin về biển nhất là khi kinh tế biển

Chủ quyền biển đảo Việt Nam qua các bản đồ cổ

  • Tác giả: www.hoasen.edu.vn
  • Nhận xét: 5 ⭐ ( 5147 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Để tìm hiểu bờ biển, Biển Đông, và hải đảo Việt Nam, chúng tôi đã thu thập được một số bản đồ và tư liệu văn bản sau đây.

Chủ quyền biển đảo Việt Nam qua các bản đồ cổ

  • Tác giả: vietnamnet.vn
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 7831 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Để tìm hiểu bờ biển, Biển Đông, và các hải đảo Việt Nam, các nhà tìm hiểu đã thu thập được một số bản đồ và tư liệu văn bản.

Xem thêm các nội dung khác thuộc thể loại: giải trí