Quan họ Bắc Ninh – Hoàng Thành Thăng Long – hát quan họ bắc ninh

Bạn đang xem: hát quan họ bắc ninh

Dân ca quan họ (còn được gọi là dân ca quan họ Bắc Ninh hay dân ca quan họ Kinh Bắc) là những làn điệu dân ca của vùng châu thổ sông Hồng ở miền Bắc Việt Nam; tập trung ở vùng văn hóa Kinh Bắc – mà trọng tâm là 2 tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh ngày nay. Tên gọi Quan họ Bắc Ninh không có nghĩa tỉnh Bắc Ninh là chủ thể chính của thể loại dân ca này, Bắc Ninh hay Kinh Bắc được hiểu là tỉnh Bắc Ninh cũ gồm cả Bắc Giang ngày nay. Theo các nhà tìm hiểu, tên gọi di sản này có thể thay đổi theo thời gian, do các chủ thể văn hóa tạo ra.

Ngày 30 tháng 9 năm 2009, tại kỳ họp lần thứ 4 của Ủy ban liên chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (từ ngày 28 tháng 9 tới ngày 2 tháng 10 năm 2009), quan họ đã được thừa nhận là di sản phi vật thể đại diện của nhân loại sau nhã nhạc cung đình Huế, không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên và cùng đợt với ca trù.

quan-ho-3

Nguồn gốc

Ý nghĩa từ “Quan họ” thường được tách thành hai từ rồi lý giải nghĩa đen về mặt từ nguyên của “quan” và của “họ”. Điều này kéo theo những kiến giải về Quan họ xuất phát từ “âm nhạc cung đình”, hay gắn với sự tích một ông quan khi đi qua vùng Kinh Bắc đã ngây ngất bởi tiếng hát của liền anh liền chị ở đó và đã dừng bước để thưởng thức (“họ”). Tuy nhiên cách lý giải này đã bỏ qua những thành tố của không gian sinh hoạt văn hóa quan họ như hình thức sinh hoạt (nghi thức các phường kết họ khiến anh hai, chị hai suốt đời chỉ là bạn, không thể kết thành duyên vợ chồng), diễn xướng, phương thức tổ chức và giao lưu, lối sử dụng từ ngữ đối nhau về nghĩa và thanh điệu trong sinh hoạt văn hóa đối đáp dân gian.

Một số quan niệm lại cho rằng Quan họ bắt nguồn từ những nghi lễ tôn giáo dân mang yếu tố phồn thực chứ không phải Quan họ có nguồn gốc từ âm nhạc cung đình, hoặc có quan niệm nhận định diễn tiến của hình thức sinh hoạt văn hóa “chơi Quan họ” bắt nguồn từ nghi lễ tôn giáo dân gian qua cung đình rồi trở lại với dân gian.

Nhận định khác dựa trên phân tích ngữ nghĩa từ ngữ trong các làn điệu và không gian diễn xướng lại cho rằng Quan họ là “quan hệ” của một nhóm những người yêu quan họ ở vùng Kinh Bắc.

Tuy vậy vẫn chưa có quan niệm nào được đa số các học giả đồng ý. Quan họ ngày nay không chỉ là lối hát giao duyên (hát đối) giữa “liền anh” (bên nam, người nam giới hát quan họ) và “liền chị” (bên nữ, người phụ nữ hát quan họ) mà đang là hình thức trao đổi tình cảm giữa liền anh, liền chị với khán giả. Một trong những hình thức trình diễn hát quan họ mới là kiểu hát đối đáp giữa liền anh và liền chị. Kịch bản có thể diễn ra theo nội dung các câu hát đã được chuẩn bị từ trước hoặc tùy thuộc vào khả năng ứng biến của hai bên hát.

Quan họ truyền thống

Quan họ truyền thống chỉ tồn tại ở 49 làng Quan họ gốc ở xứ Kinh Bắc Quan họ truyền thống là hình thức tổ chức sinh hoạt văn hóa dân gian của người dân Kinh Bắc, với những quy định nghiêm ngặt, khó tính đòi hỏi liền anh, liền chị phải am tường tiêu chuẩn, tuân theo luật lệ. Điều này giải thích nguyên nhân người dân Kinh Bắc thích thú “chơi Quan họ”, không phải là “hát Quan họ”[7] Quan họ truyền thống không có nhạc đệm và đa phần hát đôi giữa liền anh và liền chị vào dịp lễ hội xuân thu nhị kỳ ở các làng quê. Trong quan họ truyền thống, đôi liền anh đối đáp với đôi liền chị được gọi là hát hội, hát canh; hát cả bọn, cả nhóm liền anh đối đáp cùng cả nhóm liền chị được gọi là hát chúc, mừng, hát thờ.

“Chơi quan họ” truyền thống không có khán giả, người trình diễn đồng thời là người thưởng thức (thưởng thức “cái tình” của các bạn hát). Nhiều bài quan họ truyền thống vẫn được các liền anh, liền chị “chơi quan họ” ưa thích đến tận ngày nay như : Hừ La,La rằng, Tình tang, Bạn kim lan, Cái ả, Cây gạo.

Quan họ mới

Quan họ mới còn được gọi là “hát Quan họ”, là hình thức trình diễn (hát) quan họ đa phần trên sân khấu hoặc trong các sinh hoạt cộng đồng Tết đầu xuân, lễ hội, hoạt động du lịch, quán ăn,… Thực tiễn, quan họ mới được trình diễn vào bất kỳ ngày nào trong năm. Các băng đĩa CD, DVD về quan họ ngày nay đều là hình thức quan họ trình diễn trên sân khấu, tức quan họ mới. Quan họ mới luôn có khán thính giả, người hát trao đổi tình cảm với khán thính giả không đang là tình cảm giữa bạn hát với nhau. Quan họ mới không còn nằm ở không gian làng xã mà đã vươn ra ở nhiều nơi, đến với nhiều thính giả ở các quốc gia trên trên toàn cầu.

Quan họ mới có hình thức trình diễn phong phú hơn quan họ truyền thống, bao gồm cả hát đơn, hát đôi, hát tốp, hát có múa phụ họa… Quan họ mới cải biên các bài bản truyền thống theo hai cách: không có ý thức và có ý thức Dù ít hay nhiều nhưng hình thức hát quan họ có nhạc đệm được xem như là cách cải biên không có ý thức. Đa số các bài quan họ mới thuộc dạng cải biên này. Cải biên có ý thức là những bài bản đã cải biên cả nhạc và lời của bài bản quan họ truyền thống. Loại cải biên này không nhiều, ví dụ bài “Người ở đừng về” là cải biên từ làn điệu “Chuông vàng gác cửa tam quan” (Xuân Tứ cải biên).

Hát quan họ với lời mới được nhiều người yêu thích tới mức tưởng nhầm là quan họ truyền thống như bài “Sông Cầu nước chảy lơ thơ” do Mai Khanh soạn lời mới từ làn điệu truyền thống “Nhất quế nhị lan”. Quan họ mới được ưa thích hơn quan họ truyền thống không phải do không gian và những sinh hoạt theo lề lối cổ của quan họ không còn tiếp mà một phần do hoạt động “hát quan họ” ngày nay thường được gắn với chính quyền nhiệm vụ tuyên truyền, giới thiệu, tuyên truyền quan họ trên diện rộng.

Các làng Quan họ

Hiện tại, tỉnh Bắc Giang có 23 làng quan họ, tỉnh Bắc Ninh có 44 làng quan họ. Do chậm trễ, có tới 18 làng Quan họ cổ ở Bắc Giang không kịp mang vào danh sách đề cử ban đầu. Các làng quan họ Kinh Bắc tồn tại nhiều ở các huyện: Yên Phong, Từ Sơn, Tiên Du, tp Bắc Ninh (hay còn gọi là quan họ bờ nam sông Cầu thuộc tỉnh Bắc Ninh)] và các huyện Việt Yên, Yên Dũng, Hiệp Hòa (hay còn gọi là quan họ bờ bắc sông Cầu thuộc tỉnh Bắc Giang).

Trong phạm vi thừa nhận chính thức ban đầu chỉ gồm có 49 làng Quan họ tồn tại và phân bố như sau:

  • Huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang gồm 5 làng: Hữu Nghi, Giá Sơn, Mai Vũ, Nội Ninh, Sen Hồ.
  • Huyện Yên Phong gồm 16 làng: Hữu Chấp, Viêm Xá, Ðẩu Hàn, Xuân Ái, Xuân Ðồng, Xuân Viên, Thượng Ðồng, Thụ Ninh, Ðặng Xá, Khúc Toại, Trà Xuyên, Ông Mơi, Ðông Yên, Châm Khê, Ðào Xá, Dương Ổ.
  • Tp Bắc Ninh gồm 14 làng: Cổ Mễ, Phúc Sơn, У Na, Thị Cầu, Thanh Sơn, Niềm Xá, Yên Mẫn, Yên Thị Trung, Vệ An, Ỗ Xá, Xuân Ổ, Hòa Đình, Khả Lễ, Bồ Sơn.
  • Thị xã Từ Sơn và Tiên Du gồm 14 làng: Duệ Ðông, Lũng Giang, Lũng Sơn, Ngang Nội, Hoài Thị, Hoài Trung, Vân Khám, Bái Uyên, Ném Ðoài, Ném Sơn, Ném Tiền, Tiêu, Tam Sơn, Tam Tảo – (xóm Hạ Giang).

18 làng Quan họ Bắc Giang được bổ sung sau này gồm 2 làng quan họ Hiệp Hòa, 2 làng quan họ Yên Dũng và 14 làng quan họ Việt Yên đã được thừa nhận năm 2010 gồm:

  • Huyện Việt Yên gồm 14 làng: Mật Ninh, Quang Biểu, Núi Hiểu, Tam Tầng, Thổ Hà, Tiên Lát Thượng, Tiên Lát Hạ, Thần Chúc, Yên Ninh, Trung Đồng, Vân Cốc, Đình Cả, Đông Long, Khả Lý Thượng.
  • Huyện Hiệp Hòa có 2 làng: Xuân Thành và Ngọ Xá.
  • Huyện Yên Dũng có 2 làng: Yên Hà và Yên Thịnh.

Làn điệu

Quan họ là thể loại dân ca phong phú nhất về mặt nhạc điệu trong kho tàng dân ca Việt Nam. Mỗi một bài quan họ đều có nhạc điệu riêng. Cho đến nay, đã có tối thiểu 300 bài quan họ đã được ký âm. Các bài quan họ được giới thiệu mới chỉ là một phần trong kho tàng dân ca quan họ đã được tìm hiểu. Kho băng thu âm hàng nghìn bài quan họ cổ do các nghệ nhân ở các làng quan họ hát hiện vẫn được lưu giữ tại Sở Văn hóa hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh.

Các làn điệu quan họ cổ: La rằng, Đường bạn Kim Loan, Cây gạo, Giã bạn, Hừ la, La hời, Tình tang, Cái ả, Lên núi, Xuống sông, Cái hờn, cái ả, Gió mát trăng thanh, Tứ quý…

Trang phục

quan-ho-1

Mẫu trưng bày bộ trang phục của liền anh và liền chị

Trang phục quan họ bao gồm trang phục của các liền anh và trang phục của các liền chị. Trong các lễ hội quan họ có cả những cuộc thi trang phục quan họ.

Liền anh mặc áo dài 5 thân, cổ đứng, có lá sen, viền tà, gấu to, dài tới quá đầu gối. Thường bên trong mặc một hoặc hai áo cánh, sau đó đến hai áo dài. Riêng áo dài bên ngoài thường màu đen, vật liệu là lương, the, hoặc so với người khá giả hơn thì áo ngoài may bằng đoạn màu đen, cũng có người áo dài phủ ngoài may hai lần với một lần ngoài bằng lương hoặc the, đoạn, lần trong bằng lụa mỏng màu xanh cốm, xanh lá mạ non, màu vàng chanh…gọi là áo kép. Quần của liền anh là quần dài trắng, ống rộng, may kiểu có chân què dài tới mắt cá chân, vật liệu may quần cũng bằng diềm bâu, phin, trúc bâu, hoặc lụa truội màu mỡ gà. Có thắt lưng nhỏ để thắt chặt cạp quần. Đầu liền anh đội nhiễu quấn hoặc khăn xếp. Thời trước, đàn ông còn nhiều người búi tó nên phải vấn tóc bằng khăn nhiễu. Sau này phần nhiều cắt tóc, rẽ đường ngôi nên chuyển sang dùng loại khăn xếp bán sẵn ở các cửa tiệm cho tiện. Cùng với quần, áo, khăn xếp, dép,… các liền anh thường có thêm nón chóp với các dạng chóp lá thường hoặc chóp dứa, có quai lụa màu mỡ gà. Ngoài ra cũng thường thấy các liền anh dùng ô đen. Các phụ kiện khác là khăn tay, lược, những “xa xỉ phẩm” theo tư tưởng thời xưa. Khăn tay bằng lụa hoặc bằng vải trắng rộng, gấp nếp và gài trong vành khăn, thắt lưng hoặc trong túi trong.

Trang phục liền chị thường được gọi là “áo mớ ba mớ bảy”, nghĩa là liền chị có thể mặc ba áo dài lồng vào nhau (mớ ba) hoặc bảy áo dài lồng vào nhau (mớ bảy). Tuy nhiên trong thực tiễn, các liền chị thường mặc áo mớ ba. Về cơ bản trang phục bao gồm các thành phần: trong cùng là một chiếc yếm có màu rực rỡ thường làm bằng lụa truội nhuộm. Yếm thường có hai loại là yếm cổ xẻ (dùng cho trung niên) và yếm cổ viền (dùng cho thanh nữ). Bên ngoài yếm là một chiếc áo cánh màu trắng, vàng, ngà. Ngoài cùng là những lượt áo dài năm thân, cách phối màu cũng tương tự như ở bộ trang phục nam nhưng màu sắc tươi hơn. Áo dài năm thân của nữ, có cài khuy, khác với kiểu tứ thân thắt hai vạt trước. Vật liệu để may áo đẹp nhất thời trước là the, lụa. Áo dài ngoài thường mang màu nền nã như màu nâu già, nâu non, màu đen, màu cánh gián trong lúc áo dài trong thường nhuộm màu khác nhau: màu cánh sen, màu hoa hiên, màu thiên thanh, màu hồ thuỷ, màu vàng chanh, màu vàng cốm 𝒱.𝒱. Áo cánh mặc trong có thể thay bằng vải phin trắng, lụa mỡ gà.

Yếm thường nhuộm màu đỏ (xưa gọi là yếm thắm), vàng thư (hoa hiên), xanh da trời (thiên thanh), hồng nhạt (cánh sen), hồ thủy (xanh biển)… Giải yếm to buông ngoài lưng áo và giải yếm thắt vòng quanh eo rồi thắt múi phía trước cùng với bao và thắt lưng. Bao của các cô gái quan họ xưa thường sử dụng vật liệu sồi se, màu đen, có tua bện ở hai đầu bao, khổ rộng, có thể đựng túi tiền mỏng ở trong bao rồi thắt gọn ngang eo, luồn qua lưng áo dài, bó chặt lấy ba thân áo trước, thắt múi to để che phía trước bụng. Thắt lưng thường là loại bao nhỏ bằng chừng 1/3 bao, dùng để thắt chặt cạp váy vào eo. Cũng tương tự yếm, thắt lưng làm bằng lụa nhuộm các màu tươi sáng như màu hoa lựu, màu hoa đào, màu hoa hiên tươi, màu hồ thủy. Thắt lưng cũng buộc múi ra phía trước để cùng với múi bao, múi giải yếm tạo thành những múi hoa màu sắc phía trước người con gái.

quan-ho-2

Nón quai thao và dải yếm thắm của liền chị

Liền chị mặc váy váy sồi, váy lụa, thỉnh thoảng có người mặc váy kép với váy trong bằng lụa, vải màu, lương, the, đoạn; váy ngoài bằng the, lụa. Váy màu đen. Người biết mặc váy khéo là không để váy hớt trước, không để váy quây tròn lấy người như mặc quần mà phải thu xếp sao cho phía trước rủ hình lưỡi chai xuống gần tới mu bàn chân, phía sau hơi hớt lên chớm tầm đôi con khoai phía gót chân.

Liền chị mang dép cong làm bằng da trâu thuộc theo phương pháp thủ công; có một vòng tròn bằng da trên mặt dép để xỏ ngón chân thứ hai khiến khi đi lại, không rơi được dép. Mũi dép uốn cong và người thợ làm dép phải biết nện, thuộc cho mũi dép cứng, như một lá chắn nhỏ, che giấu đầu các ngón chân. Ngoài áo, quần, thắt lưng, dép, người liền chị còn chít khăn mỏ quạ, đội nón quai thao, và thắt lưng đeo dây xà tích.

Văn hoá quan họ

Văn hoá quan họ đang là cách ứng xử thật khéo léo, tế nhị, kín đáo và mang đầy ý nghĩa như các làn điệu mời nước, mời trầu thật chân tình, nồng thắm mỗi khi có khách đến chơi nhà đôi tay nâng chén rượu đào, đổ đi thì tiếc, uống vào thì say”. Quan họ uống chén rượu mừng xuân, mừng hội, vui bầu, vui bạn… rồi ca xướng cho tan canh mãn võ, cho tàn đêm rạng ngày, rồi các làn điệu chia tay giã bạn đầy quyến luyến trong câu hát “Người ơi người ở đừng về”tàn canh, giã hội rồi mà quan họ vẫn còn ngậm ngùi tiếc nhớ “Người về tôi vẫn ngậm ngùi, để thương, để nhớ cho tôi thế này… Người về tôi chẳng dám nài, áo trong người mặc, áo ngoài người để làm tin”… Và để rồi kết thúc bằng những lời hứa hẹn tha thiết “Đến hẹn lại lên”… trong mùa hội tới.

Quan họ là “ứng xử” của người dân Kinh Bắc, “mỗi khi khách đến chơi nhà”, không chỉ “rót nước pha trà” mời khách, mà cùng với này là những câu hát thắm đượm nghĩa tình: “Mỗi khi khách đến chơi nhà/ đốt than quạt nước pha trà mời người xơi/ trà này quý lắm người ơi/ Mỗi người một chén cho tôi vui lòng”…

Bảo tồn Quan họ

Quan họ là một loại hình dân ca phong phú về nhạc điệu. Quan họ được lưu truyền trong dân gian từ đời này sang đời khác qua phương thức truyền khẩu. Phương thức này là một yếu tố giúp cho Quan họ trở thành một loại hình dân ca có số lượng lớn bài hát với nhạc điệu khác nhau. Tuy nhiên, cũng chính phương thức này đã làm cho các bài Quan họ lưu truyền trong dân gian bị thay đổi nhiều, thậm chí khác hoàn toàn so với ban đầu. Nhiều nhạc điệu cổ đã mất hẳn. Mặc dù sự thay đổi này cũng làm cho Quan họ phát triển, nhưng ở trong hoàn cảnh văn hóa Phương Tây đang xâm nhập mạnh mẽ vào Việt Nam, vấn đề bảo tồn nguyên trạng Quan họ trong từng thời kỳ phát triển là việc làm cấp thiết.

Từ những năm 70 của Thế kỷ XX, Sở Văn hóa Hà Bắc đã tiến hành sưu tầm Quan họ. Hàng nghìn bài Quan họ, bao gồm cả các dị bản đã được thu âm tại các làng quan họ, với giọng hát của hàng trăm nghệ nhân. Sau thời điểm sàng lọc và lựa chọn, nhạc sỹ, nhà tìm hiểu Hồng Thao đã ký âm thành bản nhạc, có bổ sung thêm một số ký tự riêng đặc trưng cho nhạc điệu Quan họ. Khoảng 300 bài Quan họ hay nhất đã được Nhà xuất bản Âm nhạc in thành sách. Tuy nhiên, hàng nghìn bài Quan họ đã được thu âm, do các cụ nghệ nhân (đã mất) hát, phải được giữ gìn cực kỳ cẩn trọng. Sở Văn hóa thể thao du lịch Bắc Ninh và Bắc Giang phụ trách lưu giữ các cuốn băng này cần phải số hóa toàn thể để có thể lưu giữ một cách dài lâu cho thế hệ mai sau, đó cũng là tài liệu văn hóa cần bảo tồn giúp các làn điệu quan họ sống mãi.

Ngày 20-1-2013, Nhà hát Dân ca Quan họ Bắc Ninh tổ chức ra mắt.Đoàn Dân ca Quan họ Bắc Ninh nay là nhà hát Dân ca Quan họ Bắc Ninh đã hoàn thiện tốt nhiệm vụ sưu tầm, nghiêm cứu, gìn giữ và phát triển dân ca quan họ; nhiều hình thức giới thiệu dân ca quan họ mà đoàn thể nghiệm được quần chúng nhân dân đánh giá chát và học tập làm theo, góp phần xúc tiến trào lưu ca hát quan họ trong tỉnh cũng như lan tỏa rộng khắp cả nước.

Tháng 5/2012 NSƯT Thúy Hường được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sỹ nhân dân (NSND) – một phần thưởng cao quý sau những năm tháng hoạt động không mệt mỏi của chị cho dân ca quan họ. Thúy Hường cũng là NSND trẻ nhất trong 74 NSND của cả nước được phong tặng đợt này (45 tuổi).

Đến nay từ 44 làng quan họ gốc, tỉnh Bắc Ninh đã nhân lên thành 329 làng Quan họ mới, trong đó có 41 nghệ nhân dân ca Quan họ. So với thôn Viêm Xá, xã Hòa Long, TP Bắc Ninh, nơi được xem như là Thủy tổ dân ca Quan họ Bắc Ninh đã có nhiều phương án khôi phục, bảo tồn dân ca Quan họ, nhất là các bài Quan họ cổ.

Về ẩm thực Quan họ, khôi phục lại “ Mâm đan, bát đàn” này là những vật dụng của người quan họ khi mời thực khách dự ẩm thực quan họ. Xây dựng phòng trưng bày văn hóa quan họ, giới thiệu diu sản với bạn thân trong nước, quốc tế. Các phương tiện thông tin đại chúng tăng thời lượng tuyên truyền về dân ca quan họ, nhất là các lề lối Quan họ, văn hóa Quan họ.


Xem thêm những thông tin liên quan đến đề tài hát quan họ bắc ninh

Hội Lim Tiên Du, Bắc Ninh 2012 phần 1 – Quan Họ Trên Thuyền

alt

  • Tác giả: clover zo
  • Ngày đăng: 2012-05-13
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 7514 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm:

Top 10 Bài Hát Quan Họ Bắc Ninh Hay Nhất 2019, Top 10 Bài Hát Duyên Quan Họ Hay Nhất Năm 2021

  • Tác giả: magicone.vn
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 8023 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Quan họ Bắc Ninh được nghe đến không chỉ là loại hình ca hát, tiêu khiển mà nó đang là phong tục, tập quán, lối ứng xử và tín ngưỡng rực rỡ, Từ lâu, quan họ đã là một “đặc sản văn hóa” của mọi nhà tại vùng quê Kinh Bắc

Nghe nhạc Quan Họ Bắc Ninh MP3, tải, download dân ca quan ho – Đang cập nhập

  • Tác giả: mp3.zing.vn
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 8811 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Nghe nhạc Quan Họ Bắc Ninh MP3, tải, download dân ca quan ho, Đang cập nhập Tải download 320 nhạc chờ Nghe nhac Quan Ho Bac Ninh MP3, tai, download dan ca quan ho,Dang cap nhap

Quan họ Bắc Ninh

  • Tác giả: quanhobacninh.vn
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 3655 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Quan họ Bắc Ninh – Dân ca quan họ – Đến hẹn lại lên là Website nghe quan họ trực tuyến, tải nhạc quan họ, nhạc beat quan họ, karaoke quan họ Bắc Ninh.

Nhà hát quan họ ở Mão Điền (Bắc Ninh)

  • Tác giả: dantocmiennui.vn
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 6248 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Không thuộc 49 làng quan họ cổ theo danh sách ban đầu cũng như trong danh sách mở rộng (gồm 67 làng, trong đó tỉnh Bắc Ninh có 44 làng và tỉnh Bắc Giang có 23 làng) nhưng ngày nay xã Mão Điền (huyện Thuận Thành, Bắc Ninh) đã đoạt đến tầm “nhà nhà hát quan họ”.

Những bài hát quan họ Bắc Ninh hay nhất không thể bỏ lỡ

  • Tác giả: top10bacninh.vn
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 6180 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Dân ca quan họ là một trong các loại hình văn hóa văn nghệ rực rỡ của văn hóa dân gian Việt Nam. Cùng với thời gian, hiện tại quan họ không còn chỉ bó gọn

Xem thêm các nội dung khác thuộc thể loại: Du lịch