Truyền Thống Văn Hóa Của Dân Tộc Việt Nam, Văn Hóa Các Dân Tộc – truyền thống của việt nam

Việt Nam có một nền văn hoá rực rỡ, lâu đời nối liền với lịch sử tạo dựng và phát triển của dân tộc, Các nhà sử học thống nhất ý kiến ở một điểm: Việt Nam có một cộng đồng văn hoá khá rộng lớn được tạo dựng vào khoảng nửa đầu thiên niên kỉ thứ nhất trước Công nguyên và phát triển rực rỡ vào giữa thiên niên kỉ này

Bạn đang xem: truyền thống của việt nam

Việt Nam có một nền văn hoá rực rỡ, lâu đời nối liền với lịch sử tạo dựng và phát triển của dân tộc.

Bạn đang xem: Truyền thống văn hóa của dân tộc việt nam

Các nhà sử học thống nhất ý kiến ở một điểm: Việt Nam có một cộng đồng văn hoá khá rộng lớn được tạo dựng vào khoảng nửa đầu thiên niên kỉ thứ nhất trước Công nguyên và phát triển rực rỡ vào giữa thiên niên kỉ này. Này là cộng đồng văn hoá Đông Sơn. Cộng đồng văn hoá ấy phát triển cao so với các nền văn hoá khác đương thời trong khu vực, có những nét mới lạ riêng nhưng vẫn mang nhiều điểm đặc trưng của văn hoá vùng Đông Nam Á, vì có chung chủng gốc NamÁ (Mongoloid phương Nam) và nền văn minh lúa nước. Những đoạn đường phát triển khác nhau của văn hoá địa phương tại các khu vực khác nhau (lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Cả 𝒱.𝒱…) đã quy tụ với nhau, hợp thành văn hoá Đông Sơn. Đây cũng là thời kỳ ra đời nhà nước “phôi thai” trước nhất của Việt Nam dưới hình thức cộng đồng liên làng và siêu làng (để chống giặc và đắp giữ đê trồng lúa), từ đó các bộ lạc nguyên thuỷ phát triển thành dân tộc.

*

Múa lân

Thời kỳ văn hoá Văn Lang – Âu Lạc:(gần năm 3000 đến cuối thiên niên kỷ 1 trước CN) vào thời kì đồ đồng sơ khai, trải 18 đời vua Hùng, được xem như là đỉnh cao thứ nhất của lịch sử văn hoá Việt Nam, với sáng tạo tiêu biểu là trống đồng Đông Sơn và kỹ thuật trồng lúa nước ổn định.

Sau thời kỳ chống Bắc thuộc có đặc trưng đa số là song song tồn tại hai xu thế Hán hoá và chống Hán hoá, thời kỳ Đại Việt (từ thế kỉ 10 đến 15) là đỉnh cao thứ hai của văn hoá Việt Nam. Qua các triều đại nhà nước phong kiến độc lập, nhất là với hai cột mốc các triều Lý – Trần và Lê, văn hoá Việt Nam được tạo dựng lại toàn diện và thăng hoa nhanh chóng có sự tiếp thụ tác động to lớn của Phật giáo và Nho giáo.

Sau thời kì hỗn độn Lê – Mạc và Trịnh – Nguyễn chia cắt quốc gia, rồi từ tiền đề Tây Sơn thống nhất quốc gia và lãnh thổ, nhà Nguyễn tìm cách phục hưng văn hoá dựa vào Nho giáo, nhưng lúc ấy Nho giáo đã suy tàn và văn hoá phương Tây khởi đầu xâm nhập nước ta. Kéo dài cho tới khi kết thúc chính sách Pháp thuộc là sự xen cài về văn hoá giữa hai xu thế Âu hoá và chống Âu hoá, là sự tranh đấu giữa văn hoá yêu nước với văn hoá thực dân.

Thời kỳ văn hoá Việt Nam hiện đại được tạo dựng kể từ những năm 20 – 30 của thế kỷ này, dưới ngọn cờ của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa Mác – Lênin. Với sự hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền văn minh toàn cầu hiện đại, đồng thời giữ gìn, phát huy bản sắc dân tộc, văn hoá Việt Nam hứa hẹn một đỉnh cao lịch sử mới.

Có thể nói xuyên suốt toàn thể lịch sử Việt Nam, đã có ba lớp văn hoá chồng lên nhau: lớp văn hoá địa phương, lớp văn hoá giao lưu với Trung Quốc và khu vực, lớp văn hoá giao lưu với phương Tây. Nhưng dấu hiệu chính của Việt Nam là nhờ gốc văn hoá địa phương vững chắc nên đã không bị tác động văn hoá ngoại lai đồng hoá, trái lại còn biết sử dụng và Việt hoá các tác động đó làm giầu cho nền văn hoá dân tộc.

Văn hoá dân tộc Việt Nam nảy sinh từ một môi trường sống rõ ràng và cụ thể: xứ nóng, nhiều sông nước, nơi gặp mặt của nhiều nền văn minh lớn. Điều kiện tự nhiên (nhiệt, ẩm, gió mùa, sông nước, nông nghiệp trồng lúa nước…) đã thúc đẩy không nhỏ đến đời sống văn hoá vật chất và trí não của dân tộc, đến tính cách, tâm lý loài người Việt Nam. Tuy nhiên điều kiện xã hội và lịch sử lại là những yếu tố chi phối rất lớn đến văn hoá và tâm lý dân tộc. Vì thế cùng là dân cư vùng trồng lúa nước, vẫn có những điểm nổi bật về văn hoá giữa Việt Nam với Thái Lan, Lào, Indonesia, Ấn Độ 𝒱.𝒱… Cùng cội nguồn văn hoá Đông NamÁ, nhưng do sự thống trị lâu dài của nhà Hán, cùng với việc áp đặt văn hoá Hán, nền văn hoá Việt Nam đã thay đổi theo hướng mang thêm các dấu hiệu văn hoá Đông Á.

Dân tộc Việt Nam tạo dựng sớm và luôn luôn phải làm các trận chiến tranh giữ nước, từ đó tạo thành một đặc trưng văn hoá nổi trội: tư tưởng yêu nước thấm sâu và bao trùm mọi ngành nghề. Các yếu tố cộng đồng có nguồn gốc nguyên thuỷ đã sớm được cố kết lại, trở thành nền tảng phát triển chủ nghĩa yêu nước và ý thức dân tộc. Chiến tranh liên miên, đó cũng là nguyên nhân đa số làm cho lịch sử phát triển xã hội Việt Nam có tính dị thường, toàn bộ các kết cấu kinh tế – xã hội thường bị chiến tranh làm gián đoạn, khó đạt tới điểm đỉnh của sự phát triển chín muồi. Cũng vì chiến tranh phá hoại, Việt Nam không có nhiều được những công trình văn hoá-nghệ thuật khổng lồ, hoặc nếu có cũng không bảo tồn được nguyên vẹn.

Việt Nam gồm 54 dân tộc cùng chung sống trên lãnh thổ, mỗi dân tộc một sắc thái riêng, vì thế văn hoá Việt Nam là một sự thống nhất trong phong phú. Ngoài văn hoá Việt – Mường mang tính tiêu biểu, còn tồn tại các nhóm văn hoá rực rỡ khác như Tày – Nùng, Thái, Chàm, Hoa – Ngái, Môn – Khơme, Н’Mông – Dao, nhất là văn hoá các dân tộc Tây Nguyên giữ được những truyền thống khá phong phú và toàn diện cuả một xã hội thuần nông nghiệp gắn bó với rừng núi tự nhiên. Dưới đây là cái nhìn tổng quan về các ngành nghề văn hoá đa số:

1. Triết học và tư tưởng

Lúc đầu chỉ là những yếu tố tự nhiên nguyên thuỷ thô sơ về duy vật và biện chứng, tư tưởng người Việt trộn lẫn với tín ngưỡng. Tuy nhiên, xuất phát từ gốc văn hóa nông nghiệp, khác với gốc văn hoá du mục ở chỗ trọng tĩnh hơn động, lại có liên quan nhiều với các hiện tượng tự nhiên, tư tưởng triết học Việt Nam đặc biệt để mắt đến các mối quan hệ mà sản phẩm điển hình là thuyết âm dương ngũ hành (không hoàn toàn giống Trung Quốc) và dấu hiệu rõ ràng và cụ thể rõ nhất là lối sống quân bình hướng tới sự hài hoà.

Sau đó, chịu nhiều tác động tư tưởng của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo được dung hợp và Việt hoá đã góp phần vào sự phát triển của xã hội và văn hoá Việt Nam. Đặc biệt các nhà Thiền học đời Trần đã tư duy và kiến giải hầu như các vấn đề triết học mà Phật giáo đưa ra (Tâm-Phật, Không-Có, Sống-Chết…) một cách mới lạ, tách biệt. Tuy Nho học về sau thịnh vượng, nhiều danh nho Việt Nam cũng không tìm hiểu Khổng-Mạnh một cách câu nệ, mù quáng, mà họ tiếp nhận cả trí não Phật giáo, Lão-Trang nên tư tưởng họ có phần thanh thoát, phóng khoáng, thân thiện nhân dân và hoà với thiên nhiên hơn.

Ởcác triều đại chuyên chế quan liêu, tư tưởng phong kiến nặng nề đè nén nông dân và trói buộc phụ nữ, nhưng nếp dân chủ làng mạc, tính cộng đồng nguyên thuỷ vẫn tồn tại trên nền tảng kinh tế nông nghiệp tự cấp tự túc. Cắm rễ sâu trong xã hội nông nghiệp Việt Nam là tư tưởng nông dân có nhiều nét tích cực và tiêu biểu cho loài người Việt Nam truyền thống. Họ là nòng cốt chống ngoại xâm qua các cuộc kháng chiến và nổi dậy. Họ sản sinh ra nhiều tướng lĩnh có tài, lãnh tụ nghĩa quân, mà đỉnh cao là người người hùng áo vải Quang Trung-Nguyễn Huệ cuối thế kỷ 18.

Quyết sách trọng nông ức thương, đa số dưới triều Nguyễn, làm cho ý thức thị dân chậm phát triển. Việt Nam xưa kia coi trọng nhất nông nhì sĩ, hoặc nhất sĩ nhì nông, thương nhân bị khinh rẻ, các nghề khác thường bị coi là nghề phụ, kể cả hoạt động văn hoá.

*

Lễ hội

Thế kỷ 19, phong kiến trong nước suy tàn, văn minh Trung Hoa suy thoái, thì văn hoá phương Tây khởi đầu xâm nhập Việt Nam theo nòng súng thực dân. Giai cấp công nhân tạo dựng vào đầu thế kỉ 20 theo chương trình khai thác thuộc địa. Tư tưởng Mác-Lênin được du nhập vào Việt Nam những năm 20-30 kết phù hợp với chủ nghĩa yêu nước trở thành động lực thay đổi lịch sử mang quốc gia tiến lên độc lập, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Tiêu biểu cho thời kì này là Hồ Chí Minh, người hùng dân tộc, nhà tư tưởng và danh nhân văn hoá được quốc tế thừa nhận. Giai cấp tư sản dân tộc yếu ớt chỉ tiến hành được một số cuộc cải tiến phòng ban ở nửa đầu thế kỉ 20.

Như vậy, Việt Nam không có một hệ thống lý luận triết học và tư tưởng riêng, thiếu triết gia tầm cỡ quốc tế. Nhưng không có nghĩa là không có những triết lý sống và những tư tưởng phù phù hợp với dân tộc mình.

Xã hội nông nghiệp có đặc trưng là tính cộng đồng làng xã với nhiều tàn dư nguyên thuỷ kéo dài đã tạo ra tính cách đặc trưng của loài người Việt Nam. Này là một lối tư duy lưỡng hợp (dualisme), một cách tư duy rõ ràng và cụ thể, thiên về kinh nghiệm cảm tính hơn là duy lý, ưa hình tượng hơn khái niệm, nhưng uyển chuyển linh hoạt, dễ dung hợp, dễ thích ứng. Này là một lối sống nặng tình nghĩa, đoàn kết gắn bó với họ hàng, làng nước (vì nước mất nhà tan, lụt thì lút cả làng). Này là một cách hành động theo xu thế khắc phục dung hoà, quân bình, nương tựa các mối quan hệ, đồng thời cũng khôn khéo giỏi ứng biến đã từng nhiều lần biết lấy nhu thắng cương, lấy yếu chống mạnh trong lịch sử.

Trong các lan can giá trị trí não, Việt Nam đề cao chữ Nhân, phối hợp chặt chẽ Nhân với Nghĩa, Nhân với Đức, bất nhân bất nghĩa đồng nghĩa với thất đức. Nguyễn Trãi từng diễn tả tư tưởng Nhân Nghĩa của người Việt – đối lập với cường bạo, nâng lên thành nền tảng của đường lối trị nước và cứu nước. Việt Nam hiểu chữ Trung là Trung với nước, cao hơn Trung với vua, trọng chữ Hiếu nhưng không quá bó hẹp trong khuôn khổ gia đình. Chữ Phúc cũng đứng hàng đầu bảng giá trị đời sống, người ta khen nhà có phúc hơn là khen giầu, khen sang.

Trên đoạn đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập toàn cầu, sẽ phải phấn đấu khắc phục một số nhược điểm trong văn hoá truyền thống; kém tư duy lôgích và khoa học kỹ thuật; đầu óc gia trưởng, bảo thủ, địa phương, hẹp hòi; tư tưởng trung bình; xu thế phủ định cá nhân, san bằng cá tính; tệ ưa sùng bái và thần thánh hoá; thói chuộng từ chương hư danh, yếu về tổ chức thực tiễn…

2. Phong tục tập quán

Người Việt vốn thiết thực, chuộng ăn chắc mặc bền. Trước tiên là ăn, có thực mới vực được đạo, trời đánh còn tránh bữa ăn. Cơ cấu ăn thiên về thực vật, cơm rau là chính cộng thêm thuỷ sản. Luộc là phương pháp nấu ăn rực rỡ của Việt Nam. Nhưng phương thức sơ chế món ăn lại giầu tính tổng hợp, phối hợp nhiều vật liệu và gia vị. Ngày nay có nhiều thịt cá, vẫn không quên vị dưa cà.

*

Lễ hội đâm trâu

Người Việt hay dùng các loại vải có nguồn gốc thực vật, mỏng, nhẹ, thoáng, thích hợp xứ nóng, với các sắc màu nâu, chàm, đen. Trang phục nam giới phát triển từ đóng khố ở trần đến áo cánh, quần ta (quần Tàu cải biến). Nữ giới xưa thông dụng mặc yếm, váy, áo tứ thân sau này đổi thành chiếc áo dài hiện đại. Nói chung, phụ nữ Việt Nam làm đẹp một cách tế nhị, kín đáo trong một xã hội “cái nết đánh chết cái đẹp”. Trang phục cũ cũng Note đến khăn, nón, thắt lưng.

Ngôi nhà Việt Nam xưa nối liền với môi trường sông nước (nhà sàn, mái cong). Sau này là nhà tranh vách đất, lợp rạ, vật liệu đa số là tre gỗ, không cao quá để chống gió bão, trọng yếu nhất là phía nhà thường quay về phía Nam chống nóng, tránh rét. Nhà cũng không rộng quá để nhường diện tích cho sân, ao, vườn cây. Vả lại, người Việt Nam tư tưởng “rộng nhà không bằng rộng bụng”. Các thiết kế cổ bề thế thường ẩn mình và hoà với thiên nhiên.

Phương tiện đi lại gia truyền đa số là đường thuỷ. Con thuyền các loại là hình ảnh thân quen của khung cảnh địa lý – nhân văn Việt Nam, cùng với dòng sông, bến nước.

Các phong tục hôn phối, tang ma, lễ tết, lễ hội của Việt Nam đều gắn với tính cộng đồng làng xã. Hôn phối xưa không chỉ là nhu cầu đôi lứa mà còn phải thỏa mãn quyền lợi của gia tộc, gia đình, làng xã, nên kén người rất kỹ, chọn ngày lành tháng tốt, trải qua nhiều lễ từ giạm ngõ, ăn hỏi, đón dâu đến tơ hồng, hợp cẩn, lại mặt, và phải nộp cheo để chính thức được thừa nhận là thành viên của làng xóm. Tục lễ tang cũng rất tỉ mỉ, trổ tài thương xót và tiễn mang người thân qua bên kia toàn cầu, không chỉ do gia đình lo mà hàng xóm láng giềng tận tình trợ giúp.

Việt Nam là quốc gia của lễ hội quanh năm, nhất là vào mùa xuân, nông nhàn. Các tết chính là tết Nguyên đán, tết Rằm tháng Giêng, tết Hàn thực, tết Đoan ngọ, tết Rằm tháng Bảy, tết Trung thu, tết Ông táo… Mỗi vùng thường có lễ hội riêng, trọng yếu nhất là các lễ hội nông nghiệp (cầu mưa, xuống đồng, cơm mới…), các lễ hội nghề nghiệp (đúc đồng, rèn, pháo, đua ghe…). Ngoài ra là các lễ hội kỉ niệm các bậc người hùng có công với nước, các lễ hội tôn giáo và văn hoá (hội chùa). Lễ hội có 2 phần: phần lễ mang ý nghĩa cầu xin và tạ ơn, phần hội là sinh hoạt văn hoá cộng đồng gồm nhiều trò chơi, cuộc thi dân gian.

3. Tín ngưỡng và tôn giáo

Tín ngưỡng dân gian Việt Nam từ thượng cổ đã bao hàm:

*

Lễ hội đền Đô

Tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên và tín ngưỡng sùng bái loài người. Loài người cần sinh sôi, mùa màng cần tươi tốt để duy trì và phát triển sự sống, nên đã nảy sinh tín ngưỡng phồn thực. Ở Việt Nam, tín ngưỡng đó tồn tại lâu dài, dưới hai dạng dấu hiệu: thờ sinh thực khí nam và nữ (khác với ấn Độ chỉ thờ sinh thực khí nam) và thờ cả hành vi giao phối (người và thú, ngay ở Đông NamÁ cũng không nhiều có dân tộc thờ việc này). Dấu vết trên còn để lại ở nhiều di vật tượng và chân cột đá, trong trang trí các nhà mồ Tây Nguyên, trong một số phong tục và điệu múa, rõ nhất là ở kiểu dáng và hoa văn các trống đồng cổ.

Nông nghiệp trồng lúa nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố tự nhiên đã mang đến tín ngưỡng sùng bái tự nhiên. Ở Việt Nam, này là tín ngưỡng đa thần và coi trọng nữ thần, lại thờ cả động vật và thực vật. Một quyển sách tìm hiểu (xuất bản năm 1984) đã liệt kê được 75 nữ thần, đa số là các bà mẹ, các Mẫu (không những có Ông Trời, mà còn tồn tại Bà Trời tức Mẫu Cửu Trùng, ngoài ra là Mẫu Thượng Ngàn, Bà chúa Sông 𝒱.𝒱…). Về thực vật được tôn sùng nhất là Cây lúa, sau đó tới Cây đa, Cây cau, Cây dâu, quả Bầu. Về động vật, thiên về thờ thú hiền như hươu, nai, cóc, không thờ thú dữ như văn hoá du mục, nhất là thờ các loài vật thông dụng ở vùng sông nước như chim nước, rắn, cá sấu. Người Việt tự nhận là thuộc về họ Hồng Bàng, giống Tiên Rồng (Hồng Bàng là tên một loài chim nước lớn, Tiên là sự trừu tượng hoá một giống chim đẻ trứng, Rồng sự trừu tượng hoá từ rắn, cá sấu). Rồng sinh ra từ nước cất cánh lên trời là biểu trưng mới lạ đầy ý nghĩa của dân tộc Việt Nam.

Trong tín ngưỡng sùng bái loài người, thông dụng nhất là tục thờ cúng tổ tiên, hầu hết trở thành một thứ tôn giáo của người Việt Nam (trong Nam bộ gọi là Đạo Ông Bà). Việt Nam trọng ngày mất là dịp cúng giỗ hơn ngày sinh. Nhà nào cũng thờ Thổ công là vị thần trông coi gia cư, giữ gìn hoạ phúc cho cả nhà. Làng nào cũng thờ Thành hoàng là vị thần cai trị chở che cho cả làng (thường tôn vinh những ngươì có công khai phá lập nghiệp cho dân làng, hoặc các người hùng dân tộc đã sinh hay mất ở làng). Cả nước thờ vua tổ, có ngày giỗ tổ chung (Hội đền Hùng). Đặc biệt việc thờ Tứ Bất Tử là thờ những giá trị rất đẹp của dân tộc: Thánh Tản Viên (chống lụt), Thánh Gióng (chống ngoại xâm), Chử Đồng Tử (nhà nghèo cùng vợ ngoan cường xây dựng cơ nghiệp giầu có), bà Chúa Liễu Hạnh (công chúa con Trời từ bỏ Thiên đình xuống trần làm người phụ nữ khát khao hạnh phúc bình thường).

Xem thêm: Hát Về Những Người Mẹ Việt Nam, Hát Về Mẹ Việt Nam Anh Hùng

Mặc dù có trường hợp dẫn tới mê tín dị đoan, tín ngưỡng dân gian sống mềm dẻo và hoà trộn cả vào các tôn giáo chính thống.

Phật giáo (Tiểu thừa) có thể đã được du nhập trực tiếp từ ấn Độ qua đường thủy vào Việt Nam khoảng thế kỉ 2 sau CN. Phật giáo Việt Nam không xuất vậy mà nhập thế, gắn với phù chú, cầu xin tài lộc, phúc thọ hơn là tu hành thoát tục. Khi Phật giáo (Đại thừa) từ Trung Quốc vào nước ta, tăng lữ Việt Nam mới đi sâu hơn vào Phật học, nhưng dần tạo dựng những tôn phái riêng như Thiền Tông Trúc Lâm đề cao Phật tại tâm. Thời Lý – Trần, Phật giáo cực thịnh nhưng vẫn đón nhận cả Nho giáo, Lão giáo, tạo thành gương mặt văn hoá mang tính chất “Tam giáo đồng nguyên” (cả ba tôn giáo cùng tồn tại). Qua nhiều bước thăng trầm, đạo Phật trở nên thân thiết với người Việt Nam, thống kê năm 1993 cho biết vẫn có tới 3 triệu tín đồ xuất gia và khoảng 10 triệu người thường xuyên vãn chùa lễ Phật.

Thời Bắc thuộc, Nho giáo chưa có chỗ đứng trong xã hội Việt Nam, đến năm 1070 Lý Thái Tổ lập Văn Miếu thờ Chu Công-Khổng Tử mới có thể xem là được tiếp nhận chính thức. Thế kỉ 15, do nhu cầu xây dựng quốc gia thống nhất, chính quyền tập trung, xã hội trật tự, Nho giáo thay chân Phật giáo trở thành quốc giáo dưới triều Lê. Nho giáo, đa số là Tống Nho, bám chặt vào cơ chế chính trị – xã hội, vào chính sách học tập khoa cử, vào tầng lớp nho sĩ, dần chiếm lĩnh đời sống trí não xã hội. Nhưng Nho giáo cũng chỉ được tiếp thụ ở Việt Nam từng yếu tố riêng rẽ – nhất là về chính trị – đạo đức, chứ không bê nguyên xi cả hệ thống.

Đạo giáo thâm nhập vào Việt Nam khoảng cuối thế kỉ 2. Do thuyết vô vi mang tư tưởng phản kháng bọn thống trị, nó được người dân dùng làm vũ khí chống phong kiến phương Bắc. Nó lại có nhiều yếu tố thần tiên, huyền bí, nên phù hợp với tiềm thức loài người và tín ngưỡng nguyên thuỷ. Nhiều nhà nho cũ mộ xu hướng ưa thanh tĩnh, nhàn lạc của Lão – Trang. Nhưng từ lâu Đạo giáo như một tôn giáo không tồn tại nữa, chỉ còn để lại di sản trong tin ngưỡng dân gian.

Ki-tô giáo đến Việt Nam vào thế kỉ 17 như một khâu môi giới trung gian của văn hoá phương Tây và của chủ nghĩa thực dân. Nó tranh thủ được thời dịp thuận tiện: chính sách phong kiến khủng hoảng, Phật giáo suy đồi, Nho giáo bế tắc, để trở thành chỗ an ủi trí não cho một phòng ban dân chúng nhưng trong một thời gian dài không hoà đồng được với văn hoá Việt Nam. Trái lại, nó buộc phải để giáo dân lập bàn thờ trong nhà. Chỉ khi hoà Phúc âm trong dân tộc, nó mới đứng được ở Việt Nam. Năm 1993 có khoảng 5 triệu tín đồ thiên chúa giáo và gần nửa triệu tín đố Tin Lành.

Các tôn giáo bên ngoài du nhập vào Việt Nam không làm mất đi tín ngưỡng dân gian địa phương mà hoà quyện vào nhau làm cho cả hai phía đều có những biến thái nhất định. Ví dụ Nho giáo không hạ thấp được vai trò người phụ nữ, việc thờ Mẫu ở Việt Nam rất thịnh hành. Tính đa thần, dân chủ, cộng đồng được trổ tài ở việc thờ tập thể gia tiên, thờ nhiều cặp thần thánh, vào một ngôi chùa thấy không chỉ thờ Phật mà thờ cả nhiều vị khác, thấn linh có mà người thật cũng có. Và có vẻ chỉ ở Việt Nam mới có chuyện con cóc kiện cả ông Trời, cũng như môtíp người lấy tiên trong các chuyện cổ tích. Đây chính là những nét riêng của tín ngưỡng Việt Nam.

4. Từ ngữ

Về nguồn gốc tiếng Việt, có nhiều giả thuyết. Giả thuyết giầu sức thuyết phục hơn hết: tiếng Việt thuộc dòng Môn-Khơme của ngữ hệ Đông NamÁ, sau chuyển biến thành tiếng Việt – Mường (hay tiếng Việt cổ) rồi tách ra. Trong tiếng Việt hiện đại, có nhiều từ được minh chứng có gốc Môn-Khơme và tương ứng về ngữ âm, ngữ nghĩa khi so sánh với tiếng Mường.

Trải qua nghìn năm Bắc thuộc, và dưới các triều đại phong kiến, ngôn từ chính thống là chữ Hán, nhưng cũng là thời gian tiếng Việt tỏ rõ sức sống tranh đấu tự bảo tồn và phát triển. Chữ Hán được đọc theo cách của người Việt, gọi là cách đọc Hán – Việt. Và được Việt hoá bằng nhiều cách tạo ra nhiều từ Việt thông dụng. Tiếng Việt phát triển phong phú đi đến ra đời hệ thống chữ viết ghi lại tiếng Việt trên nền tảng văn tự Hán vào thế kỉ 13 là chữ Nôm.

Thời kỳ thuộc Pháp, chữ Hán dần bị loại bỏ, thay thế bằng tiếng Pháp dùng trong ngôn từ hành chính, giáo dục, ngoại giao. Nhưng nhờ chữ Quốc ngữ, có lợi thế đơn giản về hình thể kết cấu, cách viết, cách đọc, văn xuôi tiếng Việt hiện đại thực sự tạo dựng, tiếp nhận thuận tiện các tác động tích cực của ngôn từ văn hoá phương Tây. Chữ quốc ngữ là sản phẩm của một số giáo sĩ phương Tây trong đó có Alexandre de Rhodes hợp tác với một số người Việt Nam dựa vào bộ chữ cái Latinh để thu âm tiếng Việt dùng trong việc truyền giáo vào thế kỉ 17. Chữ quốc ngữ dần được hoàn thiện, phổ cập, trở thành dụng cụ văn hoá trọng yếu. Cuối thế kỉ 19, đã có sách báo xuất bản bằng chữ quốc ngữ.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, tiếng Việt và chữ quốc ngữ giành được địa vị độc tôn, phát triển dồi dào, là ngôn từ đa năng dùng trong mọi ngành nghề, ở mọi cấp học, phản ánh mọi hiện thực cuộc sống. Ngày nay, nhờ cách mạng, một số dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng có chữ viết riêng.

Dấu hiệu của tiếng Việt: đơn âm nhưng vốn từ rõ ràng và cụ thể, phong phú, giầu âm sắc hình ảnh, lối diễn tả tương xứng, nhịp nhàng, sống động, dễ chuyển hóa, thiên về biểu trưng, biểu cảm, rất thuận tiện cho sáng tạo văn học văn nghệ. Từ điển tiếng Việt xuất bản năm 1997 gồm 38410 mục từ.

5. Văn học

Phát triển song song, thúc đẩy qua lại sâu sắc: Văn học Việt Nam xuất hiện khá sớm, có hai thành phần là văn học dân gian và văn học viết. Văn học dân gian chiếm vị trí trọng yếu ở Việt Nam, có công lớn gìn giữ phát triển ngôn từ dân tộc, nuôi dưỡng tâm hồn nhân dân. Sáng tác dân gian gồm thần thoại, sử thi, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, câu đố, tục ngữ, ca dao… với nhiều màu sắc các dân tộc ở Việt Nam.

Văn học viết ra đời từ khoảng thế kỉ 10. Cho đến đầu thế kỉ 20 cũng có hai phòng ban song song tồn tại: chữ Hán (có thơ, văn xuôi, trổ tài tâm hồn, hiện thực Việt Nam nên vẫn là văn chương Việt Nam) và chữ Nôm (hầu như chỉ có thơ, lưu truyền lại nhiều tác phẩm lớn). Từ những năm 20 của thế kỉ 20, văn học viết đa số sáng tác bằng tiếng Việt qua chữ quốc ngữ, có sự cách tân sâu sắc về các hình thức thể loại như tiểu thuyết, thơ mới, truyện ngắn, kịch… và sự phong phú về xu thế văn nghệ, đồng thời phát triển với vận tốc nhanh, nhất là sau Cách mạng tháng Tám đi theo đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hướng về cuộc sống chiến tranh và lao động của nhân dân.

Có thể nói ở Việt Nam, hầu như cả dân tộc sính thơ, yêu thơ, làm thơ – từ vua quan, tướng lĩnh, sư sãi, sĩ phu đến sau này nhiều cán bộ cách mạng – và một cô thợ cấy, một cụ lái đò, một anh lính chiến đều thuộc dăm câu lục bát, thử một bài vè.

Về nội dung, chủ lưu là dòng văn chương yêu nước kiên cường chống ngoại xâm ở mọi thời kỳ và dòng văn chương phản phong kiến thường thông qua thân phận người phụ nữ. Phê phán các thói hư tật xấu của xã hội cũng là mảng đề tài trọng yếu. Các thi hào dân tộc lớn đều là những nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.

Văn học Việt Nam hiện đại phát triển từ lãng mạn đến hiện thực, từ âm hưởng chủ nghĩa người hùng trong chiến tranh đang chuyển sang mở rộng ra toàn diện cuộc sống, đi vào đời thường, tìm kiếm các giá trị đích thực của loài người.

Văn học cổ kính đã tạo thành những kiệt tác như Truyện Kiều (Nguyễn Du), Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn), Quốc âm thi tập (Nguyễn Trãi)… Việt Nam từ mấy thế kỉ trước đã có những cây viết nữ mới lạ: Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Bà huyện Thanh Quan.

Văn xuôi hiện đại có những tác giả không thể nói là thua kém toàn cầu: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Nam Cao… Không những thế là những nhà thơ rực rỡ như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên, Tố Hữu… Tiếc rằng hiện tại chưa có những tác phẩm lớn phản ánh đầy đủ, trung thực và xứng đáng quốc gia và thời kì.

6. Văn nghệ

Việt Nam có khoảng 50 nhạc cụ dân tộc, trong đó bộ gõ là thông dụng nhất, phong phú nhất và có nguồn gốc lâu đời nhất (trống đồng, cồng chiêng, đàn đá, đàn tơ rưng…). Bộ hơi thông dụng là sáo khèn, còn bộ dây mới lạ nhất có đàn bầu và đàn đáy.

*

Nhạc cụ dân tộc

Thể loại và làn điệu dân ca Việt Nam rất phong phú khắp Trung, Nam, Bắc: từ ngâm thơ, hát ru, hò đến hát quan họ, trống quân, xoan, đúm, ví giặm, ca Huế, bài chòi, lý. Ngoài ra còn tồn tại hát xẩm, chầu văn, ca trù.

Văn nghệ sân khấu gia truyền có chèo, tuồng. Rối nước cũng là một loại hình sân khấu truyền thống rực rỡ có từ thời Lý. Đầu thế kỉ 20, xuất hiện cải lương ở Nam bộ với các điệu vọng cổ.

Văn nghệ thanh sắc Việt Nam nói chung đều mang tính biểu trưng, biểu cảm, dùng thủ pháp ước lệ, giầu chất trữ tình. Sân khấu truyền thống giao lưu mật thiết với người xem và tổng hợp các loại hình ca múa nhạc. Múa Việt Nam ít động tác mạnh mẽ mà đường nét uốn lượn mềm mại, chân khép kín, múa tay là chính.

Ở Việt Nam, văn nghệ chạm khắc đá, đồng, gốm đất nung ra đời rất sớm có thời đại 10000 năm trước CN. Sau này gốm tráng men, tượng gỗ, khảm trai, sơn mài, tranh lụa, tranh giấy phát triển đến trình độ văn nghệ cao. Văn nghệ tạo hình Việt Nam lưu tâm diễn tả nội tâm mà giản lược về hình thức, dùng nhiều thủ pháp cách điệu, nhấn mạnh.

Đã có 2014 di tích văn hoá, lịch sử được Nhà nước thừa nhận và 2 di tích là cố đô Huế, Vịnh Hạ Long được quốc tế thừa nhận. Thiết kế cổ sót lại đa số là một số chùa – tháp đời Lý – Trần; cung điện-bia đời Lê, đình làng thế kỉ 18, thành quách – lăng tẩm đời Nguyễn và những ngọn tháp Chàm.

Thế kỉ 20, tiếp xúc với văn hoá phương Tây, nhất là sau thời điểm nước nhà độc lập, các loại hình văn nghệ mới như kịch nói, nhiếp ảnh, điện ảnh, ca múa nhạc và mỹ thuật hiện đại ra đời và phát triển mạnh, thu được những thành tựu to lớn với nội dung phản ánh hiện thực đời sống và cách mạng. Vì thế đến giữa năm 1997, đã có 44 người hoạt động văn hoá-nghệ thuật được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh, 130 người được phong danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân, 1011 người được tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú, đặc biệt có hai người được nhận giải thưởng quốc tế về âm nhạc là Đặng Thái Sơn (Giải âm nhạc Chopin) và Tôn Nữ Nguyệt Minh (Giải âm nhạc Tchaikovski). Tính đến đầu năm 1997, cả nước có 191 đoàn văn nghệ chuyên nghiệp và 26 xưởng phim, hãng phim, kể cả trung ương và địa phương. Đã có 28 phim truyện, 49 phim thời sự – tài liệu và khoa học được nhận giải thưởng quốc tế ở nhiều nước.

Văn hoá dân tộc gia truyền hiện đứng trước sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá, đứng trước những thách thức gay gắt của kinh tế thị trường và xu thế toàn thế giới hoá. Nhiều nghề văn hoá văn nghệ đang có phần chững lại, tìm đường và tự cách tân. Hơn khi nào hết đưa ra vấn đề bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc, vấn đề lựa chọn các giá trị cũ, xây dựng các giá trị mới. Bảo tồn nhưng vẫn phải là một nền văn hoá mở. Hiện đại nhưng không xa rời dân tộc. Quá trình đổi mới văn hoá đang tiếp tục…


Xem thêm những thông tin liên quan đến đề tài truyền thống của việt nam

Top 10 làng nghề truyền thống nổi tiếng nhất Việt Nam

alt

  • Tác giả: toplist.vn
  • Ngày đăng: 2018-12-27
  • Nhận xét: 4 ⭐ ( 7165 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Top 10 làng nghề truyền thống nổi tiếng nhất Việt Nam

    Làng nghề truyền thống của Việt Nam hiện tại đang có xu thế bị mai một, những giá trị truyền thống có rủi ro bị mất đi. Cũng chính vì vậy, mỗi tất cả chúng ta phải có trách nhiệm gìn giữ những giá trị do ông cha ta để lại. Ở Việt Nam thì có nhiều làng nghề trong đó nổi trội nhất là các làng nghề như gốm sứ, ranh, lụa,… Tất cả chúng ta cùng tìm hiểu một số làng nghề nổi tiếng qua danh sách sau đây.

    —————————————–★★★★★—————————————–
    ● Tác giả: Hằng Nga
    ● Link nội dung: https://toplist.vn/top-list/lang-nghe-truyen-thong-noi-tieng-nhat-viet-nam-3194.htm
    ●Thu âm: Tâm Tình
    ● Video: https://www.facebook.com/nguyen1408
    ★Like Our Fanpage: https://www.facebook.com/tvtoplist/
    ★Website Chính Thức: http://toplist.vn/
    —————————————–★★★★★—————————————–
    Top 10 làng nghề truyền thống nổi tiếng nhất Việt Nam
    1. Làng gốm Bát Tràng
    2. Làng tranh dân gian Đông Hồ
    3. Lụa Hà Đông
    4. Làng trống Đọi Tam
    5. Làng đá mỹ nghệ Non Nước
    6. Làng thúng chai Phú Yên
    7. Làng nghề làm muối Tuyết Diêm
    8. Làng cói Kim Sơn
    9. Làng nghề Sơn Đồng
    10. Làng nghề khảm trai Chuôn Ngọ
    —————————————–★★★★★—————————————–
    Lưu ý: Toplist.vn không sở hữu toàn bộ tư liệu được sử dụng trong video này. Mọi thắc mắc về bản quyền, tài trợ, quảng cáo, hợp tác vui lòng liên hệ tin nhắn hộp thư online: toplist.vn2016@gmail.com

    We do NOT own all the materials as well as footages used in this video. Please contact toplist.vn2016@gmail.com for copyright matters!

12 PHONG TỤC TRUYỀN THỐNG CẦN PHẢI GÌN GIỮ TRONG NGÀY TẾT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM

  • Tác giả: phodongvillage.com
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 2912 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm:

Bài văn thuyết minh về những phong tục truyền thống của Việt Nam, Hay,

  • Tác giả: thuthuat.taimienphi.vn
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 5027 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Thuyết minh về phong tục tập quán của dân tộc, tổng hợp những bài văn thuyết minh về phong tục truyền thống của Việt Nam hay nhất, chia sẻ tài liệu ôn tập, để học tốt Ngữ văn 10

BÀI 6 TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

  • Tác giả: caodangyduocvietnam.com
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 6158 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm:

Truyền thống là gì? Một số truyền thống tốt đẹp của Việt Nam?

  • Tác giả: luatduonggia.vn
  • Nhận xét: 5 ⭐ ( 1695 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Truyền thống là gì? Truyền thống tiếng Anh là gì? Một số truyền thống tốt đẹp của Việt Nam?

Những giá trị truyền thống của gia đình Việt Nam

  • Tác giả: giadinh.bvhttdl.gov.vn
  • Nhận xét: 3 ⭐ ( 4885 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm:

Các Truyền Thống Tốt Đẹp Của Dân Tộc Việt Nam Mà Em Biết ? Các Truyền Thống Tốt Đẹp Của Dân Tộc Ta Là

  • Tác giả: onip.vn
  • Nhận xét: 5 ⭐ ( 4114 lượt nhận xét )
  • Khớp với kết quả tìm kiếm: Mỗi một quốc gia hay dân tộc đều sẽ có những truyền thống tốt đẹp và cần được gìn giữ, Việt Nam cũng vậy, qua những thời kì lịch sử và văn hóa của dân tộc đã tóm gọn lại những truyền thống tốt đẹp cho dân tộc ta, Vậy thực chất truyền thống là gì? Một số truyền thống tốt đẹp của Việt Nam? Hãy theo dõi ngay dưới đây để biết thêm cụ thể nhé

Xem thêm các nội dung khác thuộc thể loại: giải trí